“Thượng tướng quân? Thượng tướng quân! Mau tỉnh lại”
Cảm thấy đầu đau dữ dội, Nhược Hàn mở mắt ra, trướng soái sáng trưng, xung quanh là gương mặt lo lắng của các tướng lĩnh.
Sở Bắc Tiệp đâu?
Nhược Hàn ôm đầu, cố gắng ngồi dậy khỏi giường: “Người đâu? Có bắt được người không?”.
Quân tướng nhìn nhau. Sâm Vinh bị mọi người đùn đẩy, tiến lên phía trước, giọng buồn bã: “Bọn thuộc hạ nghe thấy tiếng kêu của Thượng tướng quân, bèn xông vào trong trướng, nhưng chỉ thấy tối om. Lúc đó không biết Thượng tướng quân sống chết thế nào, mọi thứ lộn xộn, tới khi châm được ngọn đuốc, tìm kiếm khắp nơi đã chẳng thấy tung tích thích khách đâu”.
Nhược Hàn thở dài một tiếng, vỗ đùi: “Đáng tiếc, đáng tiếc!”. Nhưng nghĩ lại, Sở Bắc Tiệp đâu phải người dễ dàng để người ta bắt như vậy. Có lẽ khi đột nhập vào doanh trại, Sở Bắc Tiệp đã sớm tính đến đường lui.
Long nghiêu tướng quân Hoa Tham mới nhậm chức hạ giọng bẩm báo: “Có mười lăm binh sĩ ngoài trướng soái bị giết. Tất thảy đều bị một kiếm đâm thẳng vào họng mà mất mạng, xem ra bị đột kích. Kiếm pháp của thích khách thật đáng sợ”.
Các tướng lĩnh đã đích thân kiểm tra những thi thể kia, ai cũng thấy võ nghệ của thích khách thật cao cường quá sức tưởng tượng, vẻ mặt mọi người đều vô cùng sợ sệt.
Sâm Vinh lắc đầu: “Đúng là trong tứ quốc, chưa ai nghe nói đến một thích khách đáng sợ đến thế. Chúng ta cũng nên sửa đổi quy định trong quân doanh, nhỡ chăng Thượng tướng quân xảy ra chuyện, đại quân mất đi thống soái thì làm thế nào?”.
“Đúng thế, rốt cuộc thích khách là ai?”
Trầm mặc giây lát, Nhược Hàn đáp: “Là Sở Bắc Tiệp”.
Trướng soái rộng lớn bỗng chìm trong im lặng. Quần tướng nhìn nhau, không biết nên nói gì. Sâm Vinh thở hắt ra, cuối cùng cũng sực tỉnh, miệng mở to, hỏi: “Có thật là Trấn Bắc vương?”.
Đối với họ, cái tên Sở Bắc Tiệp quả là ác mộng.
Trong trận chiến Kham Bố, Sở Bắc Tiệp gần như sắp tiêu diệt cả đất nước họ. Vị đại tướng này có tài hoạch định, mưu trí khiến người khác kinh sợ, võ công xuất chúng khiến người ta run rẩy.
Lần này, Sở Bắc Tiệp lại thể hiện bản lĩnh một mình xông vào trướng soái quân địch và sở trường ẩn giấu tung tích cao siêu.
Có kẻ địch như thế, ai lại không đau đầu?
“Rốt cuộc hắn muốn làm gì?”
“Ta cũng không rõ.” Sắc mặt Nhược Hàn vô cùng khó coi, “Hắn muốn ta chuyển một câu đến Đại vương”. Nhược Hàn rành rọt thuật lại những điều đã xảy ra. Chuyện đại sự trong quân không cho phép xảy ra sai sót, nên việc bị đánh đến ngất đi tuy mất mặt, nhưng Nhược Hàn vẫn hai năm rõ mười kể đủ đầu đuôi.
Biết kẻ đến là Sở Bắc Tiệp, biết Nhược Hàn vừa thoát khỏi miệng hổ, mọi người đâu dám nghĩ điều gì khác. Thấy Sở Bắc Tiệp cuồng ngôn, nói sẽ lần lượt giết hết đại tướng Bắc Mạc như thế, ai nấy tức đến đỏ mặt, mắng mỏ một hồi.
Nhược Hàn đáp: “Những lời Sở Bắc Tiệp nói cũng không phải là không có căn cứ. Nếu phòng thủ trong quân doanh của chúng ta tiếp tục lỏng lẻo như hiện nay, sẽ chẳng thể chống chọi với những cao thủ như hắn”.
Lời này nói ra, quần tướng có chút hổ thẹn.
Trong lòng họ hiểu rằng, quân doanh Bắc Mạc không nghiêm ngặt bằng đại quân được huấn luyện kỹ càng của Đông Lâm. Binh lính do một tay Sở Bắc Tiệp đào tạo ra, e là cũng chỉ có Hà Hiệp mới có thể đối kháng.
Nhược Hàn nhìn ra ngoài màn trướng, trời vẫn chưa tỏ, chỉ có chút ánh sáng màu cam lẫn trong mây xám.
“Hành trình không đổi, ngày mai xuất phát. Quần tướng hãy lui ra, ta cần suy nghĩ một lát.”
Sau khi cho những người kia lui ra, Nhược Hàn gọi Sâm Vinh lại, “Ngươi ở đây”.
Sâm Vinh gật đầu, ngồi xuống suy nghĩ, rồi cau mày: “Thượng tướng quân, có việc này thuộc hạ nghĩ mãi không thông. Sở Bắc Tiệp dọa giết hết đại tướng Bắc Mạc, nhưng sao đã đột nhập thành công, hắn lại chỉ muốn Thượng tướng quân chuyển lời, mà không ra tay sát hại?”.
Nhược Hàn đáp: “Ta cũng đang cảm thấy việc này kỳ quái. Nhìn thần sắc của hắn, ỷ thế võ công cao cường, nên vô cùng kiêu ngạo. Hắn tuyên bố sẽ bắt đầu từ tướng lĩnh lớn nhất Bắc Mạc ta, từng người, từng người một, giết sạch cho đến khi Bắc Mạc không còn tướng cầm quân”.
“Nhưng, Thượng tướng quân đã là tướng lĩnh cao nhất trong quân Bắc Mạc. Nếu thực sự muốn làm vậy, Sở Bắc Tiệp sẽ phải bắt đầu từ Thượng tướng quân.”
Thần sắc Nhược Hàn chợt đổi: “Thôi chết rồi! Ta hiểu rồi!”.
Sâm Vinh kinh ngạc: “Thượng tướng quân đã nghĩ ra việc gì?”.
Vẻ mặt vô cùng nặng nề, Nhược Hàn chậm rãi: “Thượng tướng quân, Tắc Doãn thượng tướng quân”.
Lần này đến lượt sắc mặt Sâm Vinh thay đổi: “Đúng thế, người đầu tiên hắn muốn giết chính là Tắc Doãn thượng tướng quân!”.
Tắc Doãn là trụ cột trong quân Bắc Mạc, dù đã quy ẩn, nhưng danh tiếng của Tắc Doãn vẫn không suy giảm, có địa vị tương đương với Sở Bắc Tiệp trong quân Đông Lâm.
Giả như tin Tắc Doãn bị Sở Bắc Tiệp ám sát lan ra ngoài, lòng quân Bắc Mạc đang rệu rã sẽ không chịu nổi một đòn tấn công.
Sâm Vinh cũng là lão tướng theo Tắc Doãn nhiều năm, nên vô cùng lo lắng cho Tắc Doãn, giọng nói trở nên luống cuống: “Làm thế nào bây giờ? Việc có liên quan đến sự sống chết của Tắc Doãn thượng tướng quân, chúng ta không thể ngồi nhìn”.
“Thượng tướng quân là danh gia kiếm thuật của Bắc Mạc ta, bên cạnh còn có những hộ vệ tâm phúc, chỉ sợ Sở Bắc Tiệp đột kích lúc Thượng tướng quân không đề phòng.”
“Phải lập tức thông báo để Tắc Doãn thượng tướng quân đề phòng Sở Bắc Tiệp.” Sâm Vinh như bỗng nghĩ ra điều gì, ảo não, “Sau khi từ quan, không biết Thượng tướng quân đã ẩn cư nơi nào, chúng ta phải lập tức cử binh mã tìm kiếm, đưa tin đến đó. Sở Bắc Tiệp nắm quân quyền của Đông Lâm, tai mắt khắp nơi, tuyệt đối không thể để hắn tìm được Thượng tướng quân trước chúng ta”.
Nhược Hàn suy tính kỹ, cười nói: “Việc này ngươi không phải lo. Ta biết, giờ ta sẽ viết thư. Thượng tướng quân là bậc anh hùng, chỉ cần Thượng tướng quân có phòng bị, tuyệt đối sẽ không để Sở Bắc Tiệp được đắc ý”.
Nắng sớm vừa xuất hiện, tuấn mã đã lao ra khỏi quân doanh Bắc Mạc, phi như bay về phía sơn mạch Tùng Sâm.
Vẫn chờ sẵn ở dốc cao khác, Sở Bắc Tiệp đứng bật dậy, nhìn theo bóng dáng kẻ đưa thư đang mỗi lúc một nhỏ dần, khẽ vuốt ve con ngựa yêu bên cạnh: “Phải lên đường rồi, chúng ta mau đi tìm nữ chủ nhân của ngươi”.
Chàng nhảy lên ngựa, ung dung quất roi.
Tuấn mã hí vang, tung bốn vó cuốn bay bụi đường, đuổi theo người đưa thư.
Nhìn theo hướng người đưa thư đi, đúng như Sở Bắc Tiệp dự đoán, nơi ẩn cư của Tắc Doãn và Dương Phượng ở ngay giữa sơn mạch Tùng Sâm mờ mịt.
Sính Đình, nàng vẫn hay nhắc với ta về người hảo hữu Dương Phượng.
Nếu Dương Phượng ẩn cư ngay gần biên giới Vân Thường, chắc chắn nàng sẽ đến đó, đúng không?
Nàng đã gặp được Dương Phượng chưa? Hay vẫn đang trên đường tới đó?
Sở Bắc Tiệp ta là kẻ bất tài, ta đã xông vào các cửa khẩu của Vân Thường mà vẫn không tìm thấy tung tích nàng đâu. Bảo kiếm trong tay tuy sắc bén, nhưng ở nơi biển tuyết mênh mông, ta cũng chẳng thể ép hỏi trời xanh hướng đi của nàng.
Ta chỉ làm được một việc là xông vào doanh trại Bắc Mạc, dụ Nhược Hàn liên lạc với Tắc Doãn. Vốn là người kế vị, Nhược Hàn chắc chắn sẽ biết nơi ẩn cư của Tắc Doãn.
Sính Đình, xin nàng hãy dừng bước, đừng tiếp tục phiêu dạt một mình nữa. Ta xin nàng đừng quên hảo hữu Dương Phượng của mình, hãy đến gặp nàng ấy.
Ta sẽ ở đó đợi nàng, ngăn nàng lại, ôm lấy nàng, hôn nàng, và cầu xin nàng tha thứ.
Vì nỗi tương tư thanh khiết như nước giữa hai ta, vì mùi hương còn vấn vương quyến luyến, vì những đợi chờ, và vì tình yêu kiên định như núi của hai ta.
Ta đã hiểu, thế nào là biển cạn đá mòn, là bãi bể nương dâu, và thế nào là cả đời không phụ bạc.
Thành đô Vân Thường, tiếng ca hát thâu đêm suốt sáng. Pháo hoa đủ màu sắc mặc sức bung tỏa trên bầu trời đêm, bụp một tiếng, soi rọi những nụ cười rạng rỡ trên khuôn mặt chúng dân trong thành.
Công chúa cùng Phò mã trở về.
Trên chiếc xe ngựa hoa lệ, tấm rèm từ từ được vén lên. Diệu Thiên cười rạng rỡ, hạnh phúc dựa vào Hà Hiệp. Cảnh tượng khiến người ta cảm động mà hân hoan này như khắc sâu vào lòng dân chúng Vân Thường.
Làm nền cho đôi trai tài gái sắc là hàng vạn binh lính Vân Thường bình yên trở về đoàn tụ cùng với gia đình. Họ mang theo tinh thần quyết tử khi ra trận, nhưng may mắn được ông Trời đoái thương nên không phải trải qua khói lửa chiến tranh.
Tưng bừng chào đón họ là tiếng reo vui hòa lẫn pháo hoa khắp trời.
Và có cả rượu ngon.
Các ca vũ cơ diễm lệ thướt tha qua lại nơi đại điện. Trăm quan sảng khoái thưởng rượu. Hà Hiệp tươi cười nhận rượu các quan kính lên, rồi xua tay tạm thời ngăn dòng người mời rượu, tự mình bưng một chén, ngồi xuống trước mặt Quý Thường Thanh vẫn đang mỉm cười bên cạnh.
“Chén rượu này, ta muốn mời Thừa tướng.”
Quý Thường Thanh có chút ngạc nhiên, vội vàng nâng chén: “Thần không dám, rượu này phải mời Phò mã. Phò mã dẫn binh viễn chinh, vất vả rồi”.
Hà Hiệp đã uống không ít, khuôn mặt tuấn tú ửng đỏ, ánh mắt thoáng chút say: “Thừa tướng khiêm tốn quá. Dẫn binh đánh trận là việc dùng sức. Thừa tướng trấn giữ thành đô mới thực hao tâm tổn trí”.
Quý Thường Thanh vốn trước nay không uống rượu, nhưng vào lúc đại chiến được hóa giải, người không uống rượu cũng hào hứng uống lấy mấy chén chúc mừng. Lòng hăng hái, Quý Thường Thanh giơ chén, nói: “Được, thần và Phò mã cạn chén này, chúc cho Công chúa điện hạ phúc thọ vô biên, sớm sinh quý tử”.
Hà Hiệp cười ha hả: “Ước nguyện này rất thực tế, đa tạ Thừa tướng!”. Dứt lời, Hà Hiệp ngẩng đầu uống cạn.
“Phò mã…”
“Lục Y?” Quay lại, thấy cung nữ tâm phúc bên cạnh Diệu Thiên, Hà Hiệp nhìn một vòng các quan đang huyên náo chúc tụng, rồi gọi Lục Y sang một bên, hạ giọng, “Công chúa muốn triệu kiến?”.
Lục Y lắc đầu, dí dỏm cắn môi dưới, cười bảo: “Không phải. Công chúa sai nô tỳ đến nói với Phò mã, Công chúa đi cả chặng đường dài mệt mỏi, tắm gội xong muốn đi nghỉ, mời Phò mã đến mai hãy gặp. Công chúa còn nói, Phò mã giữ gìn sức khỏe, đừng uống quá nhiều rượu. Phò mã đi đường vất vả, uống nhiều rượu sẽ rất có hại”.
Hà Hiệp cười vang: “Ta còn đang lo không dễ ứng phó với trăm quan đang háo hức kính rượu ở đây, có vương lệnh này của Công chúa, vừa hay ta có thể cáo từ họ, về nghỉ ngơi”.
Ngay lập tức, Hà Hiệp lấy lời công chúa để ngăn những quan viên vẫn muốn kính rượu, rồi rời khỏi vương cung, trở về phủ phò mã.
Trước cổng phủ phò mã, bao nhiêu thị vệ đã đứng chờ sẵn. Đông Chước dẫn đầu bọn họ, nghển cổ trông ngóng về phía dòng người qua lại. Tiếng vó ngựa lộp cộp bất chợt vang lên, đội binh mã đang lại gần.
“Cung nghênh Phò mã!”
Ngựa dừng, Đông Chước vội vàng tiến đến, đón dây cương, ngẩng đầu nói: “Thiếu gia đã về”.
“Ừ”, Hà Hiệp đáp một tiếng, nhảy xuống ngựa, bước nhanh về phía đại môn. Thấy bao nhiêu thị vệ, thị nữ cung kính nghênh đón mình, hắn khẽ cau mày: “Nhiều người đứng ở cổng thế này làm gì? Giải tán”.
Đông Chước ném dây cương cho thị vệ bên cạnh, xua tay ra hiệu tất cả lui về, một mình bước theo Hà Hiệp.
Hà Hiệp bước nhanh, không hề dừng lại, Đông Chước phải vội vã đuổi theo.
Chỉ đến khi vào hậu viện, vòng hai, ba ngã rẽ, trước mặt là phòng của Sính Đình, Hà Hiệp mới dừng bước, ngẩn người đứng bên ngoài.
Đông Chước nhìn Hà Hiệp không rời mắt khỏi phòng Sính Đình, ngây người như bức tượng gỗ. Tình cảnh này thật khiến người ta cảm thấy thê lương.
Ban đầu cứ ngỡ Hà Hiệp vô tình, nên lúc Diệu Thiên làm khó, Đông Chước cũng mắt nhắm mắt mở mà thả Sính Đình đi. Nay nhìn Hà Hiệp như vậy, hắn lại thấy thiếu gia mình thật đáng thương.
Lo lắng xen lẫn buồn bã, Đông Chước không ngăn được bước đến bên cạnh, khẽ gọi: “Thiếu gia…”.
Hà Hiệp sực tỉnh, lơ đãng quay lại nhìn Đông Chước, rồi chậm rãi bước lên trước, đẩy cửa.
Kẹt…
Cánh cửa chuyển động, phát ra tiếng kêu thật khẽ. Bài trí trong căn phòng dần lọt vào tầm mắt hai người.
Chậu cảnh trên bệ cửa sổ đã héo khô, trên giường thu dọn rất gọn gàng, dây tua hai bên rũ xuống. Dưới gầm giường đặt đôi giày thêu hoa.
Nơi bàn trang điểm vẫn chiếc gương đồng, bên cạnh là hộp trang sức mạ vàng mà Hà Hiệp đã đặt làm cho Sính Đình.
Đàn vẫn yên lặng nằm đó, phủ lớp bụi mờ mờ.
Hà Hiệp tiến vào phòng, bước chân rất khẽ, như sợ làm kinh động đến điều gì, rồi ngồi xuống chiếc ghế lạnh lẽo, đặt bảo kiếm lên bàn.
Hà Hiệp đã từng múa thanh bảo kiếm này.
Ngay tại phủ phò mã này.
Kiếm dịu dàng ra khỏi vỏ, như giao long gặp nước, mặc sức vẫy vùng, lại như thân mây cuốn quanh cành cây, biến ảo khôn lường.
Sính Đình cũng ở đó, ngồi dựa người vào trụ đình. Họ lặng lẽ nhìn nhau.
Ánh mắt Sính Đình như khói, như nước, ngón tay linh hoạt dệt nên khúc Cửu thiên.Khoảnh khắc tiếng đàn vang lên, suýt chút nữa Hà Hiệp tưởng rằng, tất cả vẫn chưa hề đổi thay.
Suýt chút nữa Hà Hiệp tưởng rằng, những năm tháng kiêu ngạo, phong hoa tuyết nguyệt chưa từng mất đi.
Hà Hiệp đã sai.
Lúc này, trong sâu thẳm ánh mắt Hà Hiệp như đang ngưng tụ những tia lạnh lẽo. Hà Hiệp đã sai, năm tháng kiêu ngạo xưa giờ đã chẳng còn nữa, phong hoa tuyết nguyệt cũng không còn tồn tại.
Mưu lược và võ công đấu không lại quyền thế hiển hách.
Chỉ cần một vương lệnh của Diệu Thiên cũng đủ phá nát mộng cảnh đẹp đến hư ảo mà Hà Hiệp đã bao năm hao tâm tổn sức, cố gắng lưu giữ lại.
Diệu Thiên, thê tử của Hà Hiệp, chủ nhân của Vân Thường.
Đối diện với căn phòng vắng bóng Sính Đình, với phủ phò mã không còn hơi ấm, Hà Hiệp sực tỉnh trước sự thực phũ phàng.
Một ngày còn sự tồn tại của Diệu Thiên, Hà Hiệp sẽ chỉ có thể là phò mã.
Một phò mã không thể bảo vệ được cả thị nữ của mình.
“Thiếu gia, cây đàn cổ này… có cất đi không?”
“Cứ để đấy.” Hà Hiệp nhìn chăm chăm về phía cây đàn cổ, môi khẽ nhếch, “Cứ để đấy, chờ Sính Đình quay về”.
Sính Đình sẽ quay về, về bên cạnh ta.
Ta sẽ không cho phép bất cứ kẻ nào tiếp tục lấy đi những thứ của riêng ta.
Ta sẽ không cho phép bất cứ một ai làm ô nhục bốn chữ “Vương phủ Kính An”.
Ta sẽ không để vương tộc Vân Thường cùng lão già dối trá Quý Thường Thanh kia trói buộc tay chân mình.
Ta sẽ không để hùng tâm tráng chí phải khuất phục trước vẻ dịu dàng và vương uy của Diệu Thiên.
Sẽ không còn kẻ nào dám đối xử với ta như thế.
Cả chặng đường dài bám theo dấu vết lính đưa thư, Sở Bắc Tiệp dừng ngựa trước sơn mạch Tùng Sâm, ngẩng đầu nhìn lên.
Dãy núi hùng vĩ chìm trong tuyết trắng đẹp một cách thần bí.
Dương Phượng ẩn cư trong núi này.
Sính Đình, chắc nàng cũng đang ở đây.
Có thể nàng đang gảy đàn, đang đọc sách, cũng có thể đang hát khúc anh hùng giai nhân, dùng binh không ngại dối lừa.
Ngẩng đầu nhìn dãy núi hùng vĩ trước mắt, Sở Bắc Tiệp không sao ngăn nổi nhịp đập thình thịch của con tim.
Chàng khát khao được nhìn thấy Sính Đình.
Bao nhớ nhung không ngừng gào thét trong đêm đen, giày vò chàng cả trong những giấc mộng… nhưng tất thảy vẫn không đủ để ngăn nỗi sốt ruột này.
Theo lời dặn dò của Nhược Hàn, lính đưa thư cẩn trọng lên đường, liên tục kiểm tra xem có ai bám theo không. Nhưng, dù hắn có khôn ngoan tài giỏi đến mức nào cũng không thể là đối thủ của Sở Bắc Tiệp.
Lặng lẽ theo sau hắn, khi đến được ngọn núi Tắc Doãn ẩn cư, chàng mới thúc ngựa đi lên con đường núi, cuối cùng cũng nhìn mấy mười mấy gian nhà gỗ ẩn mình trong núi rừng. Sở Bắc Tiệp hiên ngang tiến tới, chưa đến cổng, bên đường bỗng xuất hiện mấy đại hán ngáng đường, hét lên: “Đứng lại! Có biết đây là nơi nào không, mà dám tự ý xông vào?”. Ánh kiếm loang loáng trong tay mấy người vung lên, có thể thấy thân thủ của họ cũng không tồi.
Mấy thứ dọa dẫm này đối với Sở Bắc Tiệp thật chẳng khác nào trò đùa. Chàng chẳng buồn tránh né, vẫn ung dung ngồi trên ngựa, nhìn quanh một vòng, rồi hạ giọng: “Nói với Tắc Doãn, Sở Bắc Tiệp đến rồi”.
“Sở Bắc Tiệp?”
“Đông Lâm Sở Bắc Tiệp?”
“Trấn Bắc Vương?”
“Chính ta.” Khóe môi nhếch lên một nụ cười, Sở Bắc Tiệp nói, “Ta đến đón vương phi của ta, Bạch Sính Đình”.
Thống lĩnh đại quân Đông Lâm chinh chiến bốn phương, vị ma vương thần chết khiến mọi người kinh sợ lại xuất hiện ngay trước mắt họ.
Một người cánh tay run rẩy, suýt chút nữa đánh rơi thanh kiếm.
“Còn ngẩn ra đó làm gì? Mau đi thông báo.” Con ngựa của Sở Bắc Tiệp phì một tiếng, tiến về phía trước.
Đám đông vội vã lùi ra sau, vẻ mặt vô cùng cảnh giác. Trong trận chiến Kham Bố, vị danh tướng đương thời này đã làm cho Thượng tướng quân Tắc Doãn của bọn họ hoàn toàn bó tay, suýt chút nữa hủy cả Bắc Mạc.
Kẻ nhanh nhạy nhất gào lên một tiếng rồi quay người chạy đi báo tin. Mấy tên còn lại cố nén nỗi sợ hãi, giương đao bao vây Sở Bắc Tiệp, mọi ánh mắt dồn cả vào bảo kiếm của chàng.
Tương truyền, mỗi khi bảo kiếm này rút ra khỏi bao, máu lại chảy thành sông.
Sở Bắc Tiệp ngồi trên lưng ngựa, tựa như thần tướng từ trên trời xuống chốn trần gian. Đứng trước vòng vây hung dữ, thần thái chàng vẫn vô cùng an nhàn tự tại, mang theo niềm hân hoan chờ đợi.
Sính Đình, ta đến rồi.
Nàng đang làm gì?
Có phải nàng đang đánh cờ với Dương Phượng?
Nàng từng nói, Dương Phượng tinh thông thuật đánh cờ. Có thể cho phép Sở Bắc Tiệp ta đứng cạnh quan sát không? Cho ta ngồi cạnh nàng, ngắm ngón tay thon nhỏ của nàng nhặt từng quân đen trắng đặt lên bàn cờ. Cảnh tượng ấy chắc chắn sẽ khiến người ta vui lòng, nhìn cả đời không thấy chán.
Người đi báo tin nhanh chóng quay lại, vẻ mặt vô cùng lạ lùng, không dám đứng quá gần Sở Bắc Tiệp, chắp tay nói: “Trấn Bắc vương, Thượng tướng quân có lời mời”.
Sở Bắc Tiệp vui vẻ gật đầu, đi theo tên thị vệ dẫn đường đến trước đại môn. Trước cổng yên tĩnh, chẳng một bóng người, không thấy Dương Phượng hay Sính Đình, cũng chẳng thấy Tắc Doãn đâu. Vốn võ nghệ cao cường, gan dạ hơn người, một thân một mình quyết chiến với đội ngũ thị vệ trong vương cung Đông Lâm, Sở Bắc Tiệp còn không sợ, huống hồ là mấy gian nhà gỗ bé này.
Xuống ngựa, tay đặt vào bảo kiếm, chàng ngẩng đầu, đi thẳng vào trong.
Bước vào trong phòng, Sở Bắc Tiệp bỗng sững lại. Đập vào mắt chàng là một màu tang thương, rèm rủ, màn che màu trắng, cả khách sảnh rộng lớn không một chỗ ngồi, chỉ có chiếc quan tài gỗ cô độc nằm ngay chính giữa.
Sở Bắc Tiệp đang bước vào một linh đường.
Trong phòng chỉ có một nam nhân vẻ mặt trầm buồn, hai hàng mày đậm, ánh mắt lấp lánh: “Trấn Bắc Vương?”.
Sở Bắc Tiệp ung dung đón ánh nhìn sắc bén của người kia: “Bắc Mạc thượng tướng quân?”.
Bỗng tiếng nữ nhân thất thanh vang lên: “Sở Bắc Tiệp! Sở Bắc Tiệp ở đâu?”.
Trong lòng đang nghĩ về Sính Đình, nghe thấy giọng nữ, Sở Bắc Tiệp đoán là Thượng tướng quân phu nhân Dương Phượng, bèn cất tiếng, sang sảng đáp: “Bản vương Sở Bắc Tiệp ở đây”.
Lời còn chưa dứt, bất chợt có ai kéo mạnh tấm rèm che phòng bên, một bóng dáng nhỏ nhắn chạy ra ngoài. Sắc mặt Dương Phượng trắng bệch, đâm thẳng vào ngực Sở Bắc Tiệp như một kẻ điên.
Dương Phượng xuất hiện bất ngờ, nhưng sao có thể làm Sở Bắc Tiệp bị thương. Kiếm chưa kịp đâm vào ngực, Sở Bắc Tiệp đã giơ tay, nắm ngay lấy cổ tay Dương Phượng.
Tắc Doãn không ngờ Dương Phượng lại xách kiếm lao tới từ bên trong, lúc phát hiện ra thì đã muộn, khuôn mặt biến sắc: “Ngươi dám làm bị thương thê tử ta?”, rồi tung người nhào tới.
Sở Bắc Tiệp chỉ một chiêu đã giữ được tay Dương Phượng, nhưng nghĩ đây là hảo hữu của Sính Đình nên chẳng dám làm gì, ngón tay chỉ ấn mạnh lên cổ tay trắng nõn của Dương Phượng, rồi theo đà đẩy một cái, Dương Phượng lảo đảo ngã về phía sau.
Tắc Doãn kịp thời lao đến, đỡ lấy Dương Phượng. Biết Sở Bắc Tiệp lợi hại thế nào nên Tắc Doãn chỉ lo Dương Phượng bị thương, vội hỏi: “Nàng có bị thương không?”.
Dương Phượng lắc đầu. Tóc nàng rối tung, hai mắt đỏ ngầu, không còn chút điệu bộ an nhàn trấn tĩnh thường ngày. Nàng quay sang trừng mắt nhìn Sở Bắc Tiệp, rồi lại khóc rống lên, nắm tay áo Tắc Doãn khẩn cầu: “Chàng hãy giết hắn giúp thiếp! Chàng hãy giết hắn đi!”.
Sở Bắc Tiệp đã nghe Sính Đình kể Dương Phượng là người dịu dàng lễ độ, không ngờ lần đầu tiên gặp, nàng ấy lại điên loạn thế này. Trong lòng sinh nghi, đôi mắt quét qua cỗ quan tài đặt giữa sảnh, Sở Bắc Tiệp bỗng cảm thấy không hay, trái tim thắt lại, hạ giọng: “Sính Đình đâu?”.
Dương Phượng như không nghe thấy câu hỏi của Sở Bắc Tiệp, cứ liên tục đánh mạnh vào ngực Tắc Doãn, khóc lóc khẩn cầu: “Phu quân, hãy giúp thiếp giết hắn! Hắn hại chết Sính Đình, chính hắn đã hại chết Sính Đình!”.
Như bị sét đánh trúng, Sở Bắc Tiệp bật lên trước mấy bước, hét lên: “Ngươi nói gì? Người vừa nói gì?”.
Tiếng hét như hổ gầm, khiến Dương Phượng sực tỉnh. Nàng không còn đánh Tắc Doãn đang an ủi mình nữa, sững sờ quay lại nhìn Sở Bắc Tiệp, đôi mắt đỏ ngầu như đang nhỏ máu, gằn từng tiếng: “Ngươi hại chết Sính Đình, ngươi hận Sính Đình, đẩy muội ấy vào tay Hà Hiệp, khiến muội ấy phải cô độc chết nơi đất tuyết”. Từng từ rít qua kẽ răng, giọng nói âm u, như vọng lên từ nơi sâu thẳm của quỷ vực.
Sở Bắc Tiệp lùi lại một bước, quay sang nhìn cỗ quan tài giữa sảnh, cố cười thành tiếng: “Không thể nào, việc này không thể nào. Các người đang lừa ta, vì Sính Đình không cam lòng nên các người nghĩ kế lừa ta”. Tuy miệng nói như vậy, nhưng cả người Sở Bắc Tiệp vẫn lạnh như rơi xuống động băng.
Dương Phượng là hảo hữu của Sính Đình, cùng lớn lên với Sính Đình. Sở Bắc Tiệp đi nhiều hiểu rộng, tất nhiên biết rõ nỗi đau lúc này đây của Dương Phượng không thể là giả.
Cả cuộc đời, chàng chưa từng trải qua cảm giác lạnh toát thế này, cái lạnh cắt nát thịt da, tàn phá gân cốt.
“Các người lừa ta, Sính Đình đang ở đây, đang trốn ở đây.” Sở Bắc Tiệp cười lớn, khuôn mặt nhăn nhúm, ánh mắt lướt tới Tắc Doãn đang ôm Dương Phượng trong lòng.
Cánh tay vẫn đặt trên kiếm, như thể chỉ cần Tắc Doãn nói sai một từ, Sở Bắc Tiệp sẽ lập tức rút kiếm, băm vằm hắn ra thành trăm mảnh.
Tắc Doãn không nói gì, vẫn lặng lẽ an ủi ái thê đang nức nở, thẳng thắn đón nhận ánh nhìn của Sở Bắc Tiệp.
Trong ánh mắt Sở Bắc Tiệp, ngoài sự kiên nghị, cương trực, cố chấp, ngang ngược, còn ẩn chứa cả tia sợ hãi xen lẫn chờ đợi khẩn cầu.
Nơi sâu thẳm đôi mắt ấy đang trào dâng cơn sóng dữ, dần nhấn chìm nỗi tuyệt vọng không dám tin.
Sở Bắc Tiệp bỗng thấy trên khuôn mặt Tắc Doãn – kẻ địch trước đây của mình – thấp thoáng sự cảm thông.
“Không thể nào, không thể nào…” Như bị đao sắc đâm thẳng vào tim, Sở Bắc Tiệp gầm lên, loạng choạng lùi về sau mấy bước, gọi lớn. “Sính Đình, Sính Đình! Nàng mau ra đây! Ta đến rồi, Sở Bắc Tiệp đến rồi!”.
“Ta đến để đền tội với nàng! Tùy nàng trách phạt! Sính Đình, nàng ra đây!”
Sở Bắc Tiệp gầm lên như con mãnh thú bị thương, chấn động cả núi rừng, khiến những bông tuyết đang đậu trên cành cây cũng kinh hãi rơi xuống. Cả sơn mạch Tùng Sâm trầm mặc trong tiếng gào thét bi thương của Sở Bắc Tiệp.
Sao có thể? Điều này sao có thể xảy ra?
Những ngón tay khéo léo ấy, nụ cười tuyệt thế ấy, hương thơm ngây ngất lòng người và cả dáng hình mềm mại ấy, sao có thể mất đi?
Chàng nghe rất rõ, nàng đang đánh đàn, hát khúc anh hùng giai nhân, hỗn loạn làm sao, thành làm vua bại làm giặc, dùng binh không ngại dối lừa, hát khúc đa tình tương tư, vừa gặp đã vui.
Rõ ràng nàng đang ở đây, ngay trong gió, trong sương, trong mây, trong tuyết, với nụ cười nhàn nhã, đôi mắt đen lặng lẽ nhìn chàng như muốn dốc bầu tâm sự.
Ở đâu? Sính Đình đang ở đâu?
Sở Bắc Tiệp đờ đẫn quay người, nhìn về phía cỗ quan tài cô độc đằng kia.
“Nàng ấy đã đến được chân núi, nhưng gặp bầy sói dữ, chỉ còn cách một đoạn”, Tắc Doãn trầm giọng, “Chỉ còn cách một đoạn đường…”.
Dương Phượng dần bình tĩnh, nhìn Sở Bắc Tiệp bằng đôi mắt vằn những tia máu, giọng thê thảm: “Muội ấy đến tìm ta, ta biết muội ấy sẽ đến tìm ta. Muội ấy vẫn cài cây trâm dạ minh châu ta tặng, vượt qua sơn mạch Tùng Sâm, vượt qua ngàn dặm xa xôi để đến đây tìm ta. Sao ta lại không sớm sai người xuống núi? Tại sao? Tại sao…”. Gục đầu vào Tắc Doãn, hai vai Dương Phượng run lên bần bật.
Sở Bắc Tiệp vẫn nhìn chằm chằm vào cỗ quan tài, không còn hồn phách.
Chàng tiến đến bên cỗ quan tài, từng bước chân như giẫm lên mây, hư ảo, không chút thực tại.
Tất cả tựa một giấc mộng, có lúc cỗ quan tài ở ngay trước mắt, có lúc lại như ở rất xa. Chỉ cách mấy bước chân mà chàng phải dốc hết sức lực mới có thể đi đến.
Cuối cùng, Sở Bắc Tiệp cũng chạm được vào cỗ quan tài, khí lạnh từ đầu ngón tay lan tới tận tim, khiến một Sở Bắc Tiệp uy danh lẫy lừng khắp thiên hạ cũng phải rùng mình.
“Sính Đình, nàng ở đây…”, Sở Bắc Tiệp dịu dàng thì thầm với cỗ quan tài.
Chàng muốn mở nắp quan tài, ôm lấy ái thê, vương phi của chàng, Bạch Sính Đình của chàng.
Nhưng, khi mười ngón tay chạm vào nắp quan tài, Trấn Bắc vương hùng dũng ngày nào giờ lại chẳng còn chút sức lực. Bàn tay chai sần run rẩy, cố gắng thế nào cũng không thể ngừng run.
“Nàng ấy gặp phải bầy sói, chỉ còn lại cây trâm dạ minh châu, bộ y phục rách nát, và cả…”, nắm tay thật chặt, Tắc Doãn hạ giọng, “Và cả mấy khúc xương”.
Từng tiếng nặng tựa ngàn cân, đập thẳng vào tim, hai đầu gối không còn sức lực, Sở Bắc Tiệp khuỵu xuống.
Chàng vẫn khẽ khàng mân mê cỗ quan tài vừa lạnh vừa cứng.
Sính Đình đâu có thế này. Nàng nhỏ nhắn, hoạt bát. Những ngày đông, má nàng phớt hồng như áng mây. Nàng thích ngắm sao trong đêm tuyết, lúc ấy nàng hệt như con mèo tìm đến lồng ngực ấm áp và vững chãi của chàng, thoải mái tựa đầu vào đó.
“Sính Đình…” Sở Bắc Tiệp mở rộng vòng tay, dốc hết sức ôm nàng vào lòng.
Chàng đến muộn rồi, muộn đến thảm hại.
Đáng lẽ chàng phải về vào đêm mồng Sáu, mở rộng vòng tay ôm lấy Sính Đình đang tựa cửa ngóng trông. Chàng phải ôm lấy nàng, không cho bất cứ việc gì có thể làm tổn thương nàng, để tất cả nguy hiểm rời xa, để nàng mỉm cười, để nàng uể oải đọc sách trong những ngày đông ấm áp, để nàng tự do tự tại, vô lo vô nghĩ mà thai nén hài nhi của họ.
“Gả cho ta nhé?”
“Tại sao?”
“Nàng giỏi đàn, giỏi ca hát, có cốt cách, lại khéo léo”, nụ cười tuấn tú khôi ngô của chàng tựa như thuốc độc ăn mòn trái tim nàng, “So với những nữ nhân kia, ta bằng lòng lấy nàng”.
“Thiếp…”
“Chúng ta thề với ánh trăng, không bao giờ phụ bạc.”
Không phụ bạc? Không bao giờ phụ bạc ở đâu?
“Chàng sống, thiếp cũng sống. Chàng chết, thiếp nguyện chết cùng chàng.”
Nụ cười của nàng, cái nhíu mày của nàng như vẫn đang trong không trung, trong hương hoa.
Ở bất cứ nơi đâu.
“Vương gia đi đánh trận sao?”
“Vương gia không cần giải thích với Sính Đình. Ngoài Vương gia, hiện giờ Sính Đình không muốn có bất cứ vướng bận nào.”
“Sính Đình một thân đón sinh thần của mình, sinh thần của Vương gia, chúng ta có thể ở bên nhau không?”
Chàng không làm được, chàng đã phụ nàng.
Để nàng giẫm lên từng mảnh tim vỡ, dưới ánh đao sắc bén, bước lên xe ngựa tiến về nơi xa.
Để nàng mang trong mình cốt nhục của chàng lưu lạc đến Vân Thường, vượt qua núi tuyết, nếm đủ nỗi thống khổ chốn nhân gian.
Để nàng bị bầy sói dữ bao vây, giằng xé thịt da, cắn hết gân cốt.
“Không!” Sở Bắc Tiệp điên cuồng thét dài một tiếng, rồi dứt khoát rút bảo kiếm.
Bảo kiếm uy chấn thiên hạ bị Trấn Bắc vương vứt xuống đất, lưỡi kiếm chạm tới nền đá, “keng” một tiếng, tóe lửa.
Sở Bắc Tiệp chậm rãi quay lại nhìn Dương Phượng: “Ta đã phụ Sính Đình, ngươi ra tay đi”. Không nhiều lời, chàng ngẩng đầu, nhắm mắt.
Im lặng hồi lâu, Dương Phượng bỗng vùng khỏi vòng tay Tắc Doãn, tiến tới nhặt bảo kiếm trên đất. Thanh kiếm rất nặng, dù Dương Phượng đã bê bằng hai tay, nhưng vẫn vô cùng run rẩy.
Mũi kiếm chĩa thẳng vào cổ họng Sở Bắc Tiệp. Chỉ cần chạm nhẹ, danh tướng đương thời, Trấn Bắc vương mà quân vương các nước đều muốn diệt trừ cho hết hậu họa sẽ mãi mãi biến mất khỏi cõi đời này.
Tách, tách…
Linh đường vô cùng yên ắng, chỉ còn lại tiếng giọt nước mắt của Dương Phượng đang nhỏ từng giọt, từng giọt xuống đất.
Vừa rồi còn hận nam nhân này đến thế, hận đến nỗi sẵn sàng cùng hắn tìm đến cái chết, nhưng lúc này đây, khi đang cầm kiếm chĩa thẳng vào cổ họng hắn, nàng lại run rẩy.
Sính Đình, Sở Bắc Tiệp khiến muội đau lòng rơi lệ, khiến muội tuyệt vọng đến tan nát cõi lòng đang ở dưới kiếm của ta.
Liệu hắn có từng làm nàng mỉm cười hạnh phúc?
“Thiên hạ mênh mông, muội có thể đi đâu?”
“Muội phải về nhà.”
“Về nhà?”
“Có người đang đợi muội.” Sính Đình cười nhẹ, trong mắt ánh lên vẻ dịu dàng và khao khát, khẽ đưa tay vuốt lại những sợi tóc bị gió thổi bay.
Dương Phượng nhớ rất rõ, Sính Đình đứng bên cửa sổ, ánh mắt tha thiết hướng về phía Đông Lâm xa xôi, nơi có Sở Bắc Tiệp.
Cánh tay cầm kiếm của nàng run rẩy, những ngón tay vẫn nắm chặt dần buông ra, bảo kiếm rơi xuống chân Dương Phượng.
Sở Bắc Tiệp ngạc nhiên, mở mắt.
Dương Phượng lạnh lùng: “Ta không cho phép ngươi xuống suối vàng làm phiền Sính Đình. Muội ấy không muốn gặp lại ngươi”. Dương Phượng đờ đẫn vỗ về cỗ quan tài, nhẹ giọng, “Sính Đình, ta biết muội mệt rồi. Muội hãy nghỉ đi, từ nay về sau muội sẽ không còn phải đau lòng vì ai nữa”.
Ở ngay kia, đang nằm đó là nữ nhân thân yêu trong lòng Sở Bắc Tiệp, vương phi của chàng, mẫu thân của con chàng. Sở Bắc Tiệp còn sống hay đã chết đều không còn mặt mũi nào gặp lại Sính Đình.
Đúng thế, đúng là chàng đã hại chết nàng.
Sính Đình sẽ không bao giờ tha thứ cho chàng, dù cho chốn nhân gian hay xuống tận suối vàng.
Chết, chàng chẳng còn mặt mũi nào mà xin nàng tha thứ. Sống, chàng không còn mặt mũi nào tìm kiếm thi thể của nàng.
Tuyệt thế giai nhân mà chàng dốc lòng theo đuổi đã bị chính chàng đẩy vào chỗ chết.
“Ngươi nói đúng…” Ánh mắt trống rỗng, Sở Bắc Tiệp như bức tượng bùn, chầm chậm đứng dậy, “Ngươi nói đúng…”. Chàng lưu luyến nhìn cỗ quan tài, nhưng không đủ dũng khí để chạm tay thêm lần nữa.
Chàng có tư cách gì mà chạm vào đó?
Sở Bắc Tiệp quay đi, trong mắt chàng không còn bất cứ ai, không có Dương Phượng, không có Tắc Doãn, cũng chẳng thấy cả con đường.
Chàng quên bảo kiếm, quên tất cả, bước ra đại môn, đờ đẫn nhìn đằng trước, đi về phía rừng sâu. Tuấn mã đang gặm cỏ khô ngoài cổng hí vang một tiếng, chạy theo sau Sở Bắc Tiệp.
Nó không thể hiểu, tại sao chủ nhân đi vào căn nhà gỗ, sau khi bước ra lại không còn hồn phách.
Thuộc hạ của Tắc Doãn nhìn thấy một người một ngựa rời đi, hạ giọng hỏi: “Thượng tướng quân, người này là kẻ địch lớn nhất của Bắc Mạc, chúng ta có nên nhân cơ hội…”.
Tắc Doãn chăm chú dõi theo bóng hình Sở Bắc Tiệp, lắc đầu thở dài: “Người ấy không còn là cường địch của bất cứ ai”.
Trấn Bắc vương uy danh hiển hách đã không còn nữa.
Trái tim chàng cũng đã chết.
Cảm thấy đầu đau dữ dội, Nhược Hàn mở mắt ra, trướng soái sáng trưng, xung quanh là gương mặt lo lắng của các tướng lĩnh.
Sở Bắc Tiệp đâu?
Nhược Hàn ôm đầu, cố gắng ngồi dậy khỏi giường: “Người đâu? Có bắt được người không?”.
Quân tướng nhìn nhau. Sâm Vinh bị mọi người đùn đẩy, tiến lên phía trước, giọng buồn bã: “Bọn thuộc hạ nghe thấy tiếng kêu của Thượng tướng quân, bèn xông vào trong trướng, nhưng chỉ thấy tối om. Lúc đó không biết Thượng tướng quân sống chết thế nào, mọi thứ lộn xộn, tới khi châm được ngọn đuốc, tìm kiếm khắp nơi đã chẳng thấy tung tích thích khách đâu”.
Nhược Hàn thở dài một tiếng, vỗ đùi: “Đáng tiếc, đáng tiếc!”. Nhưng nghĩ lại, Sở Bắc Tiệp đâu phải người dễ dàng để người ta bắt như vậy. Có lẽ khi đột nhập vào doanh trại, Sở Bắc Tiệp đã sớm tính đến đường lui.
Long nghiêu tướng quân Hoa Tham mới nhậm chức hạ giọng bẩm báo: “Có mười lăm binh sĩ ngoài trướng soái bị giết. Tất thảy đều bị một kiếm đâm thẳng vào họng mà mất mạng, xem ra bị đột kích. Kiếm pháp của thích khách thật đáng sợ”.
Các tướng lĩnh đã đích thân kiểm tra những thi thể kia, ai cũng thấy võ nghệ của thích khách thật cao cường quá sức tưởng tượng, vẻ mặt mọi người đều vô cùng sợ sệt.
Sâm Vinh lắc đầu: “Đúng là trong tứ quốc, chưa ai nghe nói đến một thích khách đáng sợ đến thế. Chúng ta cũng nên sửa đổi quy định trong quân doanh, nhỡ chăng Thượng tướng quân xảy ra chuyện, đại quân mất đi thống soái thì làm thế nào?”.
“Đúng thế, rốt cuộc thích khách là ai?”
Trầm mặc giây lát, Nhược Hàn đáp: “Là Sở Bắc Tiệp”.
Trướng soái rộng lớn bỗng chìm trong im lặng. Quần tướng nhìn nhau, không biết nên nói gì. Sâm Vinh thở hắt ra, cuối cùng cũng sực tỉnh, miệng mở to, hỏi: “Có thật là Trấn Bắc vương?”.
Đối với họ, cái tên Sở Bắc Tiệp quả là ác mộng.
Trong trận chiến Kham Bố, Sở Bắc Tiệp gần như sắp tiêu diệt cả đất nước họ. Vị đại tướng này có tài hoạch định, mưu trí khiến người khác kinh sợ, võ công xuất chúng khiến người ta run rẩy.
Lần này, Sở Bắc Tiệp lại thể hiện bản lĩnh một mình xông vào trướng soái quân địch và sở trường ẩn giấu tung tích cao siêu.
Có kẻ địch như thế, ai lại không đau đầu?
“Rốt cuộc hắn muốn làm gì?”
“Ta cũng không rõ.” Sắc mặt Nhược Hàn vô cùng khó coi, “Hắn muốn ta chuyển một câu đến Đại vương”. Nhược Hàn rành rọt thuật lại những điều đã xảy ra. Chuyện đại sự trong quân không cho phép xảy ra sai sót, nên việc bị đánh đến ngất đi tuy mất mặt, nhưng Nhược Hàn vẫn hai năm rõ mười kể đủ đầu đuôi.
Biết kẻ đến là Sở Bắc Tiệp, biết Nhược Hàn vừa thoát khỏi miệng hổ, mọi người đâu dám nghĩ điều gì khác. Thấy Sở Bắc Tiệp cuồng ngôn, nói sẽ lần lượt giết hết đại tướng Bắc Mạc như thế, ai nấy tức đến đỏ mặt, mắng mỏ một hồi.
Nhược Hàn đáp: “Những lời Sở Bắc Tiệp nói cũng không phải là không có căn cứ. Nếu phòng thủ trong quân doanh của chúng ta tiếp tục lỏng lẻo như hiện nay, sẽ chẳng thể chống chọi với những cao thủ như hắn”.
Lời này nói ra, quần tướng có chút hổ thẹn.
Trong lòng họ hiểu rằng, quân doanh Bắc Mạc không nghiêm ngặt bằng đại quân được huấn luyện kỹ càng của Đông Lâm. Binh lính do một tay Sở Bắc Tiệp đào tạo ra, e là cũng chỉ có Hà Hiệp mới có thể đối kháng.
Nhược Hàn nhìn ra ngoài màn trướng, trời vẫn chưa tỏ, chỉ có chút ánh sáng màu cam lẫn trong mây xám.
“Hành trình không đổi, ngày mai xuất phát. Quần tướng hãy lui ra, ta cần suy nghĩ một lát.”
Sau khi cho những người kia lui ra, Nhược Hàn gọi Sâm Vinh lại, “Ngươi ở đây”.
Sâm Vinh gật đầu, ngồi xuống suy nghĩ, rồi cau mày: “Thượng tướng quân, có việc này thuộc hạ nghĩ mãi không thông. Sở Bắc Tiệp dọa giết hết đại tướng Bắc Mạc, nhưng sao đã đột nhập thành công, hắn lại chỉ muốn Thượng tướng quân chuyển lời, mà không ra tay sát hại?”.
Nhược Hàn đáp: “Ta cũng đang cảm thấy việc này kỳ quái. Nhìn thần sắc của hắn, ỷ thế võ công cao cường, nên vô cùng kiêu ngạo. Hắn tuyên bố sẽ bắt đầu từ tướng lĩnh lớn nhất Bắc Mạc ta, từng người, từng người một, giết sạch cho đến khi Bắc Mạc không còn tướng cầm quân”.
“Nhưng, Thượng tướng quân đã là tướng lĩnh cao nhất trong quân Bắc Mạc. Nếu thực sự muốn làm vậy, Sở Bắc Tiệp sẽ phải bắt đầu từ Thượng tướng quân.”
Thần sắc Nhược Hàn chợt đổi: “Thôi chết rồi! Ta hiểu rồi!”.
Sâm Vinh kinh ngạc: “Thượng tướng quân đã nghĩ ra việc gì?”.
Vẻ mặt vô cùng nặng nề, Nhược Hàn chậm rãi: “Thượng tướng quân, Tắc Doãn thượng tướng quân”.
Lần này đến lượt sắc mặt Sâm Vinh thay đổi: “Đúng thế, người đầu tiên hắn muốn giết chính là Tắc Doãn thượng tướng quân!”.
Tắc Doãn là trụ cột trong quân Bắc Mạc, dù đã quy ẩn, nhưng danh tiếng của Tắc Doãn vẫn không suy giảm, có địa vị tương đương với Sở Bắc Tiệp trong quân Đông Lâm.
Giả như tin Tắc Doãn bị Sở Bắc Tiệp ám sát lan ra ngoài, lòng quân Bắc Mạc đang rệu rã sẽ không chịu nổi một đòn tấn công.
Sâm Vinh cũng là lão tướng theo Tắc Doãn nhiều năm, nên vô cùng lo lắng cho Tắc Doãn, giọng nói trở nên luống cuống: “Làm thế nào bây giờ? Việc có liên quan đến sự sống chết của Tắc Doãn thượng tướng quân, chúng ta không thể ngồi nhìn”.
“Thượng tướng quân là danh gia kiếm thuật của Bắc Mạc ta, bên cạnh còn có những hộ vệ tâm phúc, chỉ sợ Sở Bắc Tiệp đột kích lúc Thượng tướng quân không đề phòng.”
“Phải lập tức thông báo để Tắc Doãn thượng tướng quân đề phòng Sở Bắc Tiệp.” Sâm Vinh như bỗng nghĩ ra điều gì, ảo não, “Sau khi từ quan, không biết Thượng tướng quân đã ẩn cư nơi nào, chúng ta phải lập tức cử binh mã tìm kiếm, đưa tin đến đó. Sở Bắc Tiệp nắm quân quyền của Đông Lâm, tai mắt khắp nơi, tuyệt đối không thể để hắn tìm được Thượng tướng quân trước chúng ta”.
Nhược Hàn suy tính kỹ, cười nói: “Việc này ngươi không phải lo. Ta biết, giờ ta sẽ viết thư. Thượng tướng quân là bậc anh hùng, chỉ cần Thượng tướng quân có phòng bị, tuyệt đối sẽ không để Sở Bắc Tiệp được đắc ý”.
Nắng sớm vừa xuất hiện, tuấn mã đã lao ra khỏi quân doanh Bắc Mạc, phi như bay về phía sơn mạch Tùng Sâm.
Vẫn chờ sẵn ở dốc cao khác, Sở Bắc Tiệp đứng bật dậy, nhìn theo bóng dáng kẻ đưa thư đang mỗi lúc một nhỏ dần, khẽ vuốt ve con ngựa yêu bên cạnh: “Phải lên đường rồi, chúng ta mau đi tìm nữ chủ nhân của ngươi”.
Chàng nhảy lên ngựa, ung dung quất roi.
Tuấn mã hí vang, tung bốn vó cuốn bay bụi đường, đuổi theo người đưa thư.
Nhìn theo hướng người đưa thư đi, đúng như Sở Bắc Tiệp dự đoán, nơi ẩn cư của Tắc Doãn và Dương Phượng ở ngay giữa sơn mạch Tùng Sâm mờ mịt.
Sính Đình, nàng vẫn hay nhắc với ta về người hảo hữu Dương Phượng.
Nếu Dương Phượng ẩn cư ngay gần biên giới Vân Thường, chắc chắn nàng sẽ đến đó, đúng không?
Nàng đã gặp được Dương Phượng chưa? Hay vẫn đang trên đường tới đó?
Sở Bắc Tiệp ta là kẻ bất tài, ta đã xông vào các cửa khẩu của Vân Thường mà vẫn không tìm thấy tung tích nàng đâu. Bảo kiếm trong tay tuy sắc bén, nhưng ở nơi biển tuyết mênh mông, ta cũng chẳng thể ép hỏi trời xanh hướng đi của nàng.
Ta chỉ làm được một việc là xông vào doanh trại Bắc Mạc, dụ Nhược Hàn liên lạc với Tắc Doãn. Vốn là người kế vị, Nhược Hàn chắc chắn sẽ biết nơi ẩn cư của Tắc Doãn.
Sính Đình, xin nàng hãy dừng bước, đừng tiếp tục phiêu dạt một mình nữa. Ta xin nàng đừng quên hảo hữu Dương Phượng của mình, hãy đến gặp nàng ấy.
Ta sẽ ở đó đợi nàng, ngăn nàng lại, ôm lấy nàng, hôn nàng, và cầu xin nàng tha thứ.
Vì nỗi tương tư thanh khiết như nước giữa hai ta, vì mùi hương còn vấn vương quyến luyến, vì những đợi chờ, và vì tình yêu kiên định như núi của hai ta.
Ta đã hiểu, thế nào là biển cạn đá mòn, là bãi bể nương dâu, và thế nào là cả đời không phụ bạc.
Thành đô Vân Thường, tiếng ca hát thâu đêm suốt sáng. Pháo hoa đủ màu sắc mặc sức bung tỏa trên bầu trời đêm, bụp một tiếng, soi rọi những nụ cười rạng rỡ trên khuôn mặt chúng dân trong thành.
Công chúa cùng Phò mã trở về.
Trên chiếc xe ngựa hoa lệ, tấm rèm từ từ được vén lên. Diệu Thiên cười rạng rỡ, hạnh phúc dựa vào Hà Hiệp. Cảnh tượng khiến người ta cảm động mà hân hoan này như khắc sâu vào lòng dân chúng Vân Thường.
Làm nền cho đôi trai tài gái sắc là hàng vạn binh lính Vân Thường bình yên trở về đoàn tụ cùng với gia đình. Họ mang theo tinh thần quyết tử khi ra trận, nhưng may mắn được ông Trời đoái thương nên không phải trải qua khói lửa chiến tranh.
Tưng bừng chào đón họ là tiếng reo vui hòa lẫn pháo hoa khắp trời.
Và có cả rượu ngon.
Các ca vũ cơ diễm lệ thướt tha qua lại nơi đại điện. Trăm quan sảng khoái thưởng rượu. Hà Hiệp tươi cười nhận rượu các quan kính lên, rồi xua tay tạm thời ngăn dòng người mời rượu, tự mình bưng một chén, ngồi xuống trước mặt Quý Thường Thanh vẫn đang mỉm cười bên cạnh.
“Chén rượu này, ta muốn mời Thừa tướng.”
Quý Thường Thanh có chút ngạc nhiên, vội vàng nâng chén: “Thần không dám, rượu này phải mời Phò mã. Phò mã dẫn binh viễn chinh, vất vả rồi”.
Hà Hiệp đã uống không ít, khuôn mặt tuấn tú ửng đỏ, ánh mắt thoáng chút say: “Thừa tướng khiêm tốn quá. Dẫn binh đánh trận là việc dùng sức. Thừa tướng trấn giữ thành đô mới thực hao tâm tổn trí”.
Quý Thường Thanh vốn trước nay không uống rượu, nhưng vào lúc đại chiến được hóa giải, người không uống rượu cũng hào hứng uống lấy mấy chén chúc mừng. Lòng hăng hái, Quý Thường Thanh giơ chén, nói: “Được, thần và Phò mã cạn chén này, chúc cho Công chúa điện hạ phúc thọ vô biên, sớm sinh quý tử”.
Hà Hiệp cười ha hả: “Ước nguyện này rất thực tế, đa tạ Thừa tướng!”. Dứt lời, Hà Hiệp ngẩng đầu uống cạn.
“Phò mã…”
“Lục Y?” Quay lại, thấy cung nữ tâm phúc bên cạnh Diệu Thiên, Hà Hiệp nhìn một vòng các quan đang huyên náo chúc tụng, rồi gọi Lục Y sang một bên, hạ giọng, “Công chúa muốn triệu kiến?”.
Lục Y lắc đầu, dí dỏm cắn môi dưới, cười bảo: “Không phải. Công chúa sai nô tỳ đến nói với Phò mã, Công chúa đi cả chặng đường dài mệt mỏi, tắm gội xong muốn đi nghỉ, mời Phò mã đến mai hãy gặp. Công chúa còn nói, Phò mã giữ gìn sức khỏe, đừng uống quá nhiều rượu. Phò mã đi đường vất vả, uống nhiều rượu sẽ rất có hại”.
Hà Hiệp cười vang: “Ta còn đang lo không dễ ứng phó với trăm quan đang háo hức kính rượu ở đây, có vương lệnh này của Công chúa, vừa hay ta có thể cáo từ họ, về nghỉ ngơi”.
Ngay lập tức, Hà Hiệp lấy lời công chúa để ngăn những quan viên vẫn muốn kính rượu, rồi rời khỏi vương cung, trở về phủ phò mã.
Trước cổng phủ phò mã, bao nhiêu thị vệ đã đứng chờ sẵn. Đông Chước dẫn đầu bọn họ, nghển cổ trông ngóng về phía dòng người qua lại. Tiếng vó ngựa lộp cộp bất chợt vang lên, đội binh mã đang lại gần.
“Cung nghênh Phò mã!”
Ngựa dừng, Đông Chước vội vàng tiến đến, đón dây cương, ngẩng đầu nói: “Thiếu gia đã về”.
“Ừ”, Hà Hiệp đáp một tiếng, nhảy xuống ngựa, bước nhanh về phía đại môn. Thấy bao nhiêu thị vệ, thị nữ cung kính nghênh đón mình, hắn khẽ cau mày: “Nhiều người đứng ở cổng thế này làm gì? Giải tán”.
Đông Chước ném dây cương cho thị vệ bên cạnh, xua tay ra hiệu tất cả lui về, một mình bước theo Hà Hiệp.
Hà Hiệp bước nhanh, không hề dừng lại, Đông Chước phải vội vã đuổi theo.
Chỉ đến khi vào hậu viện, vòng hai, ba ngã rẽ, trước mặt là phòng của Sính Đình, Hà Hiệp mới dừng bước, ngẩn người đứng bên ngoài.
Đông Chước nhìn Hà Hiệp không rời mắt khỏi phòng Sính Đình, ngây người như bức tượng gỗ. Tình cảnh này thật khiến người ta cảm thấy thê lương.
Ban đầu cứ ngỡ Hà Hiệp vô tình, nên lúc Diệu Thiên làm khó, Đông Chước cũng mắt nhắm mắt mở mà thả Sính Đình đi. Nay nhìn Hà Hiệp như vậy, hắn lại thấy thiếu gia mình thật đáng thương.
Lo lắng xen lẫn buồn bã, Đông Chước không ngăn được bước đến bên cạnh, khẽ gọi: “Thiếu gia…”.
Hà Hiệp sực tỉnh, lơ đãng quay lại nhìn Đông Chước, rồi chậm rãi bước lên trước, đẩy cửa.
Kẹt…
Cánh cửa chuyển động, phát ra tiếng kêu thật khẽ. Bài trí trong căn phòng dần lọt vào tầm mắt hai người.
Chậu cảnh trên bệ cửa sổ đã héo khô, trên giường thu dọn rất gọn gàng, dây tua hai bên rũ xuống. Dưới gầm giường đặt đôi giày thêu hoa.
Nơi bàn trang điểm vẫn chiếc gương đồng, bên cạnh là hộp trang sức mạ vàng mà Hà Hiệp đã đặt làm cho Sính Đình.
Đàn vẫn yên lặng nằm đó, phủ lớp bụi mờ mờ.
Hà Hiệp tiến vào phòng, bước chân rất khẽ, như sợ làm kinh động đến điều gì, rồi ngồi xuống chiếc ghế lạnh lẽo, đặt bảo kiếm lên bàn.
Hà Hiệp đã từng múa thanh bảo kiếm này.
Ngay tại phủ phò mã này.
Kiếm dịu dàng ra khỏi vỏ, như giao long gặp nước, mặc sức vẫy vùng, lại như thân mây cuốn quanh cành cây, biến ảo khôn lường.
Sính Đình cũng ở đó, ngồi dựa người vào trụ đình. Họ lặng lẽ nhìn nhau.
Ánh mắt Sính Đình như khói, như nước, ngón tay linh hoạt dệt nên khúc Cửu thiên.Khoảnh khắc tiếng đàn vang lên, suýt chút nữa Hà Hiệp tưởng rằng, tất cả vẫn chưa hề đổi thay.
Suýt chút nữa Hà Hiệp tưởng rằng, những năm tháng kiêu ngạo, phong hoa tuyết nguyệt chưa từng mất đi.
Hà Hiệp đã sai.
Lúc này, trong sâu thẳm ánh mắt Hà Hiệp như đang ngưng tụ những tia lạnh lẽo. Hà Hiệp đã sai, năm tháng kiêu ngạo xưa giờ đã chẳng còn nữa, phong hoa tuyết nguyệt cũng không còn tồn tại.
Mưu lược và võ công đấu không lại quyền thế hiển hách.
Chỉ cần một vương lệnh của Diệu Thiên cũng đủ phá nát mộng cảnh đẹp đến hư ảo mà Hà Hiệp đã bao năm hao tâm tổn sức, cố gắng lưu giữ lại.
Diệu Thiên, thê tử của Hà Hiệp, chủ nhân của Vân Thường.
Đối diện với căn phòng vắng bóng Sính Đình, với phủ phò mã không còn hơi ấm, Hà Hiệp sực tỉnh trước sự thực phũ phàng.
Một ngày còn sự tồn tại của Diệu Thiên, Hà Hiệp sẽ chỉ có thể là phò mã.
Một phò mã không thể bảo vệ được cả thị nữ của mình.
“Thiếu gia, cây đàn cổ này… có cất đi không?”
“Cứ để đấy.” Hà Hiệp nhìn chăm chăm về phía cây đàn cổ, môi khẽ nhếch, “Cứ để đấy, chờ Sính Đình quay về”.
Sính Đình sẽ quay về, về bên cạnh ta.
Ta sẽ không cho phép bất cứ kẻ nào tiếp tục lấy đi những thứ của riêng ta.
Ta sẽ không cho phép bất cứ một ai làm ô nhục bốn chữ “Vương phủ Kính An”.
Ta sẽ không để vương tộc Vân Thường cùng lão già dối trá Quý Thường Thanh kia trói buộc tay chân mình.
Ta sẽ không để hùng tâm tráng chí phải khuất phục trước vẻ dịu dàng và vương uy của Diệu Thiên.
Sẽ không còn kẻ nào dám đối xử với ta như thế.
Cả chặng đường dài bám theo dấu vết lính đưa thư, Sở Bắc Tiệp dừng ngựa trước sơn mạch Tùng Sâm, ngẩng đầu nhìn lên.
Dãy núi hùng vĩ chìm trong tuyết trắng đẹp một cách thần bí.
Dương Phượng ẩn cư trong núi này.
Sính Đình, chắc nàng cũng đang ở đây.
Có thể nàng đang gảy đàn, đang đọc sách, cũng có thể đang hát khúc anh hùng giai nhân, dùng binh không ngại dối lừa.
Ngẩng đầu nhìn dãy núi hùng vĩ trước mắt, Sở Bắc Tiệp không sao ngăn nổi nhịp đập thình thịch của con tim.
Chàng khát khao được nhìn thấy Sính Đình.
Bao nhớ nhung không ngừng gào thét trong đêm đen, giày vò chàng cả trong những giấc mộng… nhưng tất thảy vẫn không đủ để ngăn nỗi sốt ruột này.
Theo lời dặn dò của Nhược Hàn, lính đưa thư cẩn trọng lên đường, liên tục kiểm tra xem có ai bám theo không. Nhưng, dù hắn có khôn ngoan tài giỏi đến mức nào cũng không thể là đối thủ của Sở Bắc Tiệp.
Lặng lẽ theo sau hắn, khi đến được ngọn núi Tắc Doãn ẩn cư, chàng mới thúc ngựa đi lên con đường núi, cuối cùng cũng nhìn mấy mười mấy gian nhà gỗ ẩn mình trong núi rừng. Sở Bắc Tiệp hiên ngang tiến tới, chưa đến cổng, bên đường bỗng xuất hiện mấy đại hán ngáng đường, hét lên: “Đứng lại! Có biết đây là nơi nào không, mà dám tự ý xông vào?”. Ánh kiếm loang loáng trong tay mấy người vung lên, có thể thấy thân thủ của họ cũng không tồi.
Mấy thứ dọa dẫm này đối với Sở Bắc Tiệp thật chẳng khác nào trò đùa. Chàng chẳng buồn tránh né, vẫn ung dung ngồi trên ngựa, nhìn quanh một vòng, rồi hạ giọng: “Nói với Tắc Doãn, Sở Bắc Tiệp đến rồi”.
“Sở Bắc Tiệp?”
“Đông Lâm Sở Bắc Tiệp?”
“Trấn Bắc Vương?”
“Chính ta.” Khóe môi nhếch lên một nụ cười, Sở Bắc Tiệp nói, “Ta đến đón vương phi của ta, Bạch Sính Đình”.
Thống lĩnh đại quân Đông Lâm chinh chiến bốn phương, vị ma vương thần chết khiến mọi người kinh sợ lại xuất hiện ngay trước mắt họ.
Một người cánh tay run rẩy, suýt chút nữa đánh rơi thanh kiếm.
“Còn ngẩn ra đó làm gì? Mau đi thông báo.” Con ngựa của Sở Bắc Tiệp phì một tiếng, tiến về phía trước.
Đám đông vội vã lùi ra sau, vẻ mặt vô cùng cảnh giác. Trong trận chiến Kham Bố, vị danh tướng đương thời này đã làm cho Thượng tướng quân Tắc Doãn của bọn họ hoàn toàn bó tay, suýt chút nữa hủy cả Bắc Mạc.
Kẻ nhanh nhạy nhất gào lên một tiếng rồi quay người chạy đi báo tin. Mấy tên còn lại cố nén nỗi sợ hãi, giương đao bao vây Sở Bắc Tiệp, mọi ánh mắt dồn cả vào bảo kiếm của chàng.
Tương truyền, mỗi khi bảo kiếm này rút ra khỏi bao, máu lại chảy thành sông.
Sở Bắc Tiệp ngồi trên lưng ngựa, tựa như thần tướng từ trên trời xuống chốn trần gian. Đứng trước vòng vây hung dữ, thần thái chàng vẫn vô cùng an nhàn tự tại, mang theo niềm hân hoan chờ đợi.
Sính Đình, ta đến rồi.
Nàng đang làm gì?
Có phải nàng đang đánh cờ với Dương Phượng?
Nàng từng nói, Dương Phượng tinh thông thuật đánh cờ. Có thể cho phép Sở Bắc Tiệp ta đứng cạnh quan sát không? Cho ta ngồi cạnh nàng, ngắm ngón tay thon nhỏ của nàng nhặt từng quân đen trắng đặt lên bàn cờ. Cảnh tượng ấy chắc chắn sẽ khiến người ta vui lòng, nhìn cả đời không thấy chán.
Người đi báo tin nhanh chóng quay lại, vẻ mặt vô cùng lạ lùng, không dám đứng quá gần Sở Bắc Tiệp, chắp tay nói: “Trấn Bắc vương, Thượng tướng quân có lời mời”.
Sở Bắc Tiệp vui vẻ gật đầu, đi theo tên thị vệ dẫn đường đến trước đại môn. Trước cổng yên tĩnh, chẳng một bóng người, không thấy Dương Phượng hay Sính Đình, cũng chẳng thấy Tắc Doãn đâu. Vốn võ nghệ cao cường, gan dạ hơn người, một thân một mình quyết chiến với đội ngũ thị vệ trong vương cung Đông Lâm, Sở Bắc Tiệp còn không sợ, huống hồ là mấy gian nhà gỗ bé này.
Xuống ngựa, tay đặt vào bảo kiếm, chàng ngẩng đầu, đi thẳng vào trong.
Bước vào trong phòng, Sở Bắc Tiệp bỗng sững lại. Đập vào mắt chàng là một màu tang thương, rèm rủ, màn che màu trắng, cả khách sảnh rộng lớn không một chỗ ngồi, chỉ có chiếc quan tài gỗ cô độc nằm ngay chính giữa.
Sở Bắc Tiệp đang bước vào một linh đường.
Trong phòng chỉ có một nam nhân vẻ mặt trầm buồn, hai hàng mày đậm, ánh mắt lấp lánh: “Trấn Bắc Vương?”.
Sở Bắc Tiệp ung dung đón ánh nhìn sắc bén của người kia: “Bắc Mạc thượng tướng quân?”.
Bỗng tiếng nữ nhân thất thanh vang lên: “Sở Bắc Tiệp! Sở Bắc Tiệp ở đâu?”.
Trong lòng đang nghĩ về Sính Đình, nghe thấy giọng nữ, Sở Bắc Tiệp đoán là Thượng tướng quân phu nhân Dương Phượng, bèn cất tiếng, sang sảng đáp: “Bản vương Sở Bắc Tiệp ở đây”.
Lời còn chưa dứt, bất chợt có ai kéo mạnh tấm rèm che phòng bên, một bóng dáng nhỏ nhắn chạy ra ngoài. Sắc mặt Dương Phượng trắng bệch, đâm thẳng vào ngực Sở Bắc Tiệp như một kẻ điên.
Dương Phượng xuất hiện bất ngờ, nhưng sao có thể làm Sở Bắc Tiệp bị thương. Kiếm chưa kịp đâm vào ngực, Sở Bắc Tiệp đã giơ tay, nắm ngay lấy cổ tay Dương Phượng.
Tắc Doãn không ngờ Dương Phượng lại xách kiếm lao tới từ bên trong, lúc phát hiện ra thì đã muộn, khuôn mặt biến sắc: “Ngươi dám làm bị thương thê tử ta?”, rồi tung người nhào tới.
Sở Bắc Tiệp chỉ một chiêu đã giữ được tay Dương Phượng, nhưng nghĩ đây là hảo hữu của Sính Đình nên chẳng dám làm gì, ngón tay chỉ ấn mạnh lên cổ tay trắng nõn của Dương Phượng, rồi theo đà đẩy một cái, Dương Phượng lảo đảo ngã về phía sau.
Tắc Doãn kịp thời lao đến, đỡ lấy Dương Phượng. Biết Sở Bắc Tiệp lợi hại thế nào nên Tắc Doãn chỉ lo Dương Phượng bị thương, vội hỏi: “Nàng có bị thương không?”.
Dương Phượng lắc đầu. Tóc nàng rối tung, hai mắt đỏ ngầu, không còn chút điệu bộ an nhàn trấn tĩnh thường ngày. Nàng quay sang trừng mắt nhìn Sở Bắc Tiệp, rồi lại khóc rống lên, nắm tay áo Tắc Doãn khẩn cầu: “Chàng hãy giết hắn giúp thiếp! Chàng hãy giết hắn đi!”.
Sở Bắc Tiệp đã nghe Sính Đình kể Dương Phượng là người dịu dàng lễ độ, không ngờ lần đầu tiên gặp, nàng ấy lại điên loạn thế này. Trong lòng sinh nghi, đôi mắt quét qua cỗ quan tài đặt giữa sảnh, Sở Bắc Tiệp bỗng cảm thấy không hay, trái tim thắt lại, hạ giọng: “Sính Đình đâu?”.
Dương Phượng như không nghe thấy câu hỏi của Sở Bắc Tiệp, cứ liên tục đánh mạnh vào ngực Tắc Doãn, khóc lóc khẩn cầu: “Phu quân, hãy giúp thiếp giết hắn! Hắn hại chết Sính Đình, chính hắn đã hại chết Sính Đình!”.
Như bị sét đánh trúng, Sở Bắc Tiệp bật lên trước mấy bước, hét lên: “Ngươi nói gì? Người vừa nói gì?”.
Tiếng hét như hổ gầm, khiến Dương Phượng sực tỉnh. Nàng không còn đánh Tắc Doãn đang an ủi mình nữa, sững sờ quay lại nhìn Sở Bắc Tiệp, đôi mắt đỏ ngầu như đang nhỏ máu, gằn từng tiếng: “Ngươi hại chết Sính Đình, ngươi hận Sính Đình, đẩy muội ấy vào tay Hà Hiệp, khiến muội ấy phải cô độc chết nơi đất tuyết”. Từng từ rít qua kẽ răng, giọng nói âm u, như vọng lên từ nơi sâu thẳm của quỷ vực.
Sở Bắc Tiệp lùi lại một bước, quay sang nhìn cỗ quan tài giữa sảnh, cố cười thành tiếng: “Không thể nào, việc này không thể nào. Các người đang lừa ta, vì Sính Đình không cam lòng nên các người nghĩ kế lừa ta”. Tuy miệng nói như vậy, nhưng cả người Sở Bắc Tiệp vẫn lạnh như rơi xuống động băng.
Dương Phượng là hảo hữu của Sính Đình, cùng lớn lên với Sính Đình. Sở Bắc Tiệp đi nhiều hiểu rộng, tất nhiên biết rõ nỗi đau lúc này đây của Dương Phượng không thể là giả.
Cả cuộc đời, chàng chưa từng trải qua cảm giác lạnh toát thế này, cái lạnh cắt nát thịt da, tàn phá gân cốt.
“Các người lừa ta, Sính Đình đang ở đây, đang trốn ở đây.” Sở Bắc Tiệp cười lớn, khuôn mặt nhăn nhúm, ánh mắt lướt tới Tắc Doãn đang ôm Dương Phượng trong lòng.
Cánh tay vẫn đặt trên kiếm, như thể chỉ cần Tắc Doãn nói sai một từ, Sở Bắc Tiệp sẽ lập tức rút kiếm, băm vằm hắn ra thành trăm mảnh.
Tắc Doãn không nói gì, vẫn lặng lẽ an ủi ái thê đang nức nở, thẳng thắn đón nhận ánh nhìn của Sở Bắc Tiệp.
Trong ánh mắt Sở Bắc Tiệp, ngoài sự kiên nghị, cương trực, cố chấp, ngang ngược, còn ẩn chứa cả tia sợ hãi xen lẫn chờ đợi khẩn cầu.
Nơi sâu thẳm đôi mắt ấy đang trào dâng cơn sóng dữ, dần nhấn chìm nỗi tuyệt vọng không dám tin.
Sở Bắc Tiệp bỗng thấy trên khuôn mặt Tắc Doãn – kẻ địch trước đây của mình – thấp thoáng sự cảm thông.
“Không thể nào, không thể nào…” Như bị đao sắc đâm thẳng vào tim, Sở Bắc Tiệp gầm lên, loạng choạng lùi về sau mấy bước, gọi lớn. “Sính Đình, Sính Đình! Nàng mau ra đây! Ta đến rồi, Sở Bắc Tiệp đến rồi!”.
“Ta đến để đền tội với nàng! Tùy nàng trách phạt! Sính Đình, nàng ra đây!”
Sở Bắc Tiệp gầm lên như con mãnh thú bị thương, chấn động cả núi rừng, khiến những bông tuyết đang đậu trên cành cây cũng kinh hãi rơi xuống. Cả sơn mạch Tùng Sâm trầm mặc trong tiếng gào thét bi thương của Sở Bắc Tiệp.
Sao có thể? Điều này sao có thể xảy ra?
Những ngón tay khéo léo ấy, nụ cười tuyệt thế ấy, hương thơm ngây ngất lòng người và cả dáng hình mềm mại ấy, sao có thể mất đi?
Chàng nghe rất rõ, nàng đang đánh đàn, hát khúc anh hùng giai nhân, hỗn loạn làm sao, thành làm vua bại làm giặc, dùng binh không ngại dối lừa, hát khúc đa tình tương tư, vừa gặp đã vui.
Rõ ràng nàng đang ở đây, ngay trong gió, trong sương, trong mây, trong tuyết, với nụ cười nhàn nhã, đôi mắt đen lặng lẽ nhìn chàng như muốn dốc bầu tâm sự.
Ở đâu? Sính Đình đang ở đâu?
Sở Bắc Tiệp đờ đẫn quay người, nhìn về phía cỗ quan tài cô độc đằng kia.
“Nàng ấy đã đến được chân núi, nhưng gặp bầy sói dữ, chỉ còn cách một đoạn”, Tắc Doãn trầm giọng, “Chỉ còn cách một đoạn đường…”.
Dương Phượng dần bình tĩnh, nhìn Sở Bắc Tiệp bằng đôi mắt vằn những tia máu, giọng thê thảm: “Muội ấy đến tìm ta, ta biết muội ấy sẽ đến tìm ta. Muội ấy vẫn cài cây trâm dạ minh châu ta tặng, vượt qua sơn mạch Tùng Sâm, vượt qua ngàn dặm xa xôi để đến đây tìm ta. Sao ta lại không sớm sai người xuống núi? Tại sao? Tại sao…”. Gục đầu vào Tắc Doãn, hai vai Dương Phượng run lên bần bật.
Sở Bắc Tiệp vẫn nhìn chằm chằm vào cỗ quan tài, không còn hồn phách.
Chàng tiến đến bên cỗ quan tài, từng bước chân như giẫm lên mây, hư ảo, không chút thực tại.
Tất cả tựa một giấc mộng, có lúc cỗ quan tài ở ngay trước mắt, có lúc lại như ở rất xa. Chỉ cách mấy bước chân mà chàng phải dốc hết sức lực mới có thể đi đến.
Cuối cùng, Sở Bắc Tiệp cũng chạm được vào cỗ quan tài, khí lạnh từ đầu ngón tay lan tới tận tim, khiến một Sở Bắc Tiệp uy danh lẫy lừng khắp thiên hạ cũng phải rùng mình.
“Sính Đình, nàng ở đây…”, Sở Bắc Tiệp dịu dàng thì thầm với cỗ quan tài.
Chàng muốn mở nắp quan tài, ôm lấy ái thê, vương phi của chàng, Bạch Sính Đình của chàng.
Nhưng, khi mười ngón tay chạm vào nắp quan tài, Trấn Bắc vương hùng dũng ngày nào giờ lại chẳng còn chút sức lực. Bàn tay chai sần run rẩy, cố gắng thế nào cũng không thể ngừng run.
“Nàng ấy gặp phải bầy sói, chỉ còn lại cây trâm dạ minh châu, bộ y phục rách nát, và cả…”, nắm tay thật chặt, Tắc Doãn hạ giọng, “Và cả mấy khúc xương”.
Từng tiếng nặng tựa ngàn cân, đập thẳng vào tim, hai đầu gối không còn sức lực, Sở Bắc Tiệp khuỵu xuống.
Chàng vẫn khẽ khàng mân mê cỗ quan tài vừa lạnh vừa cứng.
Sính Đình đâu có thế này. Nàng nhỏ nhắn, hoạt bát. Những ngày đông, má nàng phớt hồng như áng mây. Nàng thích ngắm sao trong đêm tuyết, lúc ấy nàng hệt như con mèo tìm đến lồng ngực ấm áp và vững chãi của chàng, thoải mái tựa đầu vào đó.
“Sính Đình…” Sở Bắc Tiệp mở rộng vòng tay, dốc hết sức ôm nàng vào lòng.
Chàng đến muộn rồi, muộn đến thảm hại.
Đáng lẽ chàng phải về vào đêm mồng Sáu, mở rộng vòng tay ôm lấy Sính Đình đang tựa cửa ngóng trông. Chàng phải ôm lấy nàng, không cho bất cứ việc gì có thể làm tổn thương nàng, để tất cả nguy hiểm rời xa, để nàng mỉm cười, để nàng uể oải đọc sách trong những ngày đông ấm áp, để nàng tự do tự tại, vô lo vô nghĩ mà thai nén hài nhi của họ.
“Gả cho ta nhé?”
“Tại sao?”
“Nàng giỏi đàn, giỏi ca hát, có cốt cách, lại khéo léo”, nụ cười tuấn tú khôi ngô của chàng tựa như thuốc độc ăn mòn trái tim nàng, “So với những nữ nhân kia, ta bằng lòng lấy nàng”.
“Thiếp…”
“Chúng ta thề với ánh trăng, không bao giờ phụ bạc.”
Không phụ bạc? Không bao giờ phụ bạc ở đâu?
“Chàng sống, thiếp cũng sống. Chàng chết, thiếp nguyện chết cùng chàng.”
Nụ cười của nàng, cái nhíu mày của nàng như vẫn đang trong không trung, trong hương hoa.
Ở bất cứ nơi đâu.
“Vương gia đi đánh trận sao?”
“Vương gia không cần giải thích với Sính Đình. Ngoài Vương gia, hiện giờ Sính Đình không muốn có bất cứ vướng bận nào.”
“Sính Đình một thân đón sinh thần của mình, sinh thần của Vương gia, chúng ta có thể ở bên nhau không?”
Chàng không làm được, chàng đã phụ nàng.
Để nàng giẫm lên từng mảnh tim vỡ, dưới ánh đao sắc bén, bước lên xe ngựa tiến về nơi xa.
Để nàng mang trong mình cốt nhục của chàng lưu lạc đến Vân Thường, vượt qua núi tuyết, nếm đủ nỗi thống khổ chốn nhân gian.
Để nàng bị bầy sói dữ bao vây, giằng xé thịt da, cắn hết gân cốt.
“Không!” Sở Bắc Tiệp điên cuồng thét dài một tiếng, rồi dứt khoát rút bảo kiếm.
Bảo kiếm uy chấn thiên hạ bị Trấn Bắc vương vứt xuống đất, lưỡi kiếm chạm tới nền đá, “keng” một tiếng, tóe lửa.
Sở Bắc Tiệp chậm rãi quay lại nhìn Dương Phượng: “Ta đã phụ Sính Đình, ngươi ra tay đi”. Không nhiều lời, chàng ngẩng đầu, nhắm mắt.
Im lặng hồi lâu, Dương Phượng bỗng vùng khỏi vòng tay Tắc Doãn, tiến tới nhặt bảo kiếm trên đất. Thanh kiếm rất nặng, dù Dương Phượng đã bê bằng hai tay, nhưng vẫn vô cùng run rẩy.
Mũi kiếm chĩa thẳng vào cổ họng Sở Bắc Tiệp. Chỉ cần chạm nhẹ, danh tướng đương thời, Trấn Bắc vương mà quân vương các nước đều muốn diệt trừ cho hết hậu họa sẽ mãi mãi biến mất khỏi cõi đời này.
Tách, tách…
Linh đường vô cùng yên ắng, chỉ còn lại tiếng giọt nước mắt của Dương Phượng đang nhỏ từng giọt, từng giọt xuống đất.
Vừa rồi còn hận nam nhân này đến thế, hận đến nỗi sẵn sàng cùng hắn tìm đến cái chết, nhưng lúc này đây, khi đang cầm kiếm chĩa thẳng vào cổ họng hắn, nàng lại run rẩy.
Sính Đình, Sở Bắc Tiệp khiến muội đau lòng rơi lệ, khiến muội tuyệt vọng đến tan nát cõi lòng đang ở dưới kiếm của ta.
Liệu hắn có từng làm nàng mỉm cười hạnh phúc?
“Thiên hạ mênh mông, muội có thể đi đâu?”
“Muội phải về nhà.”
“Về nhà?”
“Có người đang đợi muội.” Sính Đình cười nhẹ, trong mắt ánh lên vẻ dịu dàng và khao khát, khẽ đưa tay vuốt lại những sợi tóc bị gió thổi bay.
Dương Phượng nhớ rất rõ, Sính Đình đứng bên cửa sổ, ánh mắt tha thiết hướng về phía Đông Lâm xa xôi, nơi có Sở Bắc Tiệp.
Cánh tay cầm kiếm của nàng run rẩy, những ngón tay vẫn nắm chặt dần buông ra, bảo kiếm rơi xuống chân Dương Phượng.
Sở Bắc Tiệp ngạc nhiên, mở mắt.
Dương Phượng lạnh lùng: “Ta không cho phép ngươi xuống suối vàng làm phiền Sính Đình. Muội ấy không muốn gặp lại ngươi”. Dương Phượng đờ đẫn vỗ về cỗ quan tài, nhẹ giọng, “Sính Đình, ta biết muội mệt rồi. Muội hãy nghỉ đi, từ nay về sau muội sẽ không còn phải đau lòng vì ai nữa”.
Ở ngay kia, đang nằm đó là nữ nhân thân yêu trong lòng Sở Bắc Tiệp, vương phi của chàng, mẫu thân của con chàng. Sở Bắc Tiệp còn sống hay đã chết đều không còn mặt mũi nào gặp lại Sính Đình.
Đúng thế, đúng là chàng đã hại chết nàng.
Sính Đình sẽ không bao giờ tha thứ cho chàng, dù cho chốn nhân gian hay xuống tận suối vàng.
Chết, chàng chẳng còn mặt mũi nào mà xin nàng tha thứ. Sống, chàng không còn mặt mũi nào tìm kiếm thi thể của nàng.
Tuyệt thế giai nhân mà chàng dốc lòng theo đuổi đã bị chính chàng đẩy vào chỗ chết.
“Ngươi nói đúng…” Ánh mắt trống rỗng, Sở Bắc Tiệp như bức tượng bùn, chầm chậm đứng dậy, “Ngươi nói đúng…”. Chàng lưu luyến nhìn cỗ quan tài, nhưng không đủ dũng khí để chạm tay thêm lần nữa.
Chàng có tư cách gì mà chạm vào đó?
Sở Bắc Tiệp quay đi, trong mắt chàng không còn bất cứ ai, không có Dương Phượng, không có Tắc Doãn, cũng chẳng thấy cả con đường.
Chàng quên bảo kiếm, quên tất cả, bước ra đại môn, đờ đẫn nhìn đằng trước, đi về phía rừng sâu. Tuấn mã đang gặm cỏ khô ngoài cổng hí vang một tiếng, chạy theo sau Sở Bắc Tiệp.
Nó không thể hiểu, tại sao chủ nhân đi vào căn nhà gỗ, sau khi bước ra lại không còn hồn phách.
Thuộc hạ của Tắc Doãn nhìn thấy một người một ngựa rời đi, hạ giọng hỏi: “Thượng tướng quân, người này là kẻ địch lớn nhất của Bắc Mạc, chúng ta có nên nhân cơ hội…”.
Tắc Doãn chăm chú dõi theo bóng hình Sở Bắc Tiệp, lắc đầu thở dài: “Người ấy không còn là cường địch của bất cứ ai”.
Trấn Bắc vương uy danh hiển hách đã không còn nữa.
Trái tim chàng cũng đã chết.
/67
|