Sau khi chiếm lĩnh được thành đô Đông Lâm, một mặt Hà Hiệp cử quân truy bắt những người còn lại trong vương tộc và các tướng lĩnh Đông Lâm, một mặt hạ lệnh thiêu hủy vương cung Đông Lâm.
Những ngọn đuốc của quân lính Vân Thường đã khiến cả thành đô Đông Lâm chìm trong khói lửa, lửa cháy nơi vương cung thiêu đỏ cả một vùng trời.
“Vương cung… vương cung!” Bách tính Đông Lâm còn ở lại thành đô rớt nước mắt nhìn ánh lửa cháy rừng rực và bóng đao sáng lóa.
Mệnh lệnh tàn bạo này của Hà Hiệp đâu chỉ để trút giận. Cả đội quân khổng lồ đã phải hao tâm tổn sức, muốn khống chế bất cứ quốc gia nào, muốn chiếm lĩnh lãnh thổ rộng lớn của họ, thì nhất định phải tốc chiến tốc thắng.
Tiêu hủy một vương quốc, đầu tiên phải phá vỡ lòng tin và hy vọng của dân chúng.
Khi vương cung Đông Lâm huy hoàng sừng sững hàng trăm năm nay bị một mồi lửa của quân Vân Thường đốt thành bãi đất bằng, chút hy vọng ít ỏi còn sót lại của dân chúng Đông Lâm cũng hoàn toàn cháy rụi.
Biểu tượng hàng trăm năm nay của vương tộc Đông Lâm dần biến mất trong biển lửa, tiếp tục giáng một đòn nặng nề xuống trái tim đã trĩu nặng của con dân Đông Lâm.
Trấn Bắc vương từng bảo vệ họ giờ không rõ tung tích. Hy vọng của họ biết gửi gắm cho ai?
Tin tức đau thương này như được chắp thêm đôi cánh bay tới mọi ngõ ngách của Đông Lâm, khiến những người dân khốn cùng càng thêm tuyệt vọng.
“Đại vương, thần thiếp phải làm sao đây?” Nghe xong tin tức từ phương xa, Đông Lâm vương hậu đuổi lui lính truyền tin, buồn rầu ngồi xuống.
Đất đai Đông Lâm đã mất hơn nửa, dân chúng lang thang chẳng chốn nương thân, vương cung hóa thành tro tàn.
Đông Lâm hiển hách một thời, sao lại rơi vào cảnh ngộ này?
Đại tướng quân Thần Mâu chết trên sa trường, Sở Mạc Nhiên và La Thượng liều mạng hộ vệ vương hậu rời khỏi thành đô. Sau lưng tiếng đuổi giết ngút trời, máu của các binh sĩ bắn tung tóe lên trang phục lộng lẫy trên người Vương hậu.
Đến lúc này, Vương hậu mới thực sự hiểu rằng, tại sao một danh tướng như Trấn Bắc vương lại được người trong thiên hạ coi là báu vật ngàn năm khó đổi, tại sao khi tướng sĩ Đông Lâm nhắc đến Trấn Bắc vương, khuôn mặt lại không giấu nổi niềm tự hào.
Không còn là quý phụ an cư chốn thâm cung, nay, Vương hậu phải mặc y phục thô ráp, gột sạch mọi xa hoa, được một số ít tướng sĩ Đông Lâm còn lại hộ vệ, giấu thân nơi đồng hoang hẻo lánh hay trong rừng sâu, chạy trốn sự truy bắt của quân Vân Thường.
Trong bóng đen nặng nề cùng sự lo lắng cho tương lai, Vương hậu thường hồi tưởng lại chuyện trước đây.
Đông Lâm lúc đó sao mà lớn mạnh, có đội quân thiện chiến nhất tứ quốc, có Đại vương, có Trấn Bắc vương.
Tất cả mọi bất hạnh rốt cuộc bắt nguồn từ đâu?
“Bạch Sính Đình…” Vương hậu chậm rãi buông ra cái tên mà bất cứ ai cũng thấy nặng nề.
Khi ấy, Bạch Sính Đình xen vào đại chiến giữa Đông Lâm và Bắc Mạc, để Hà Hiệp có thể lợi dụng thời cơ.
Tiểu Kính An vương nổi danh thiên hạ, sau này là Phò mã Vân Thường, khi bắt tay với Bắc Mạc vương mưu hại vương tử Đông Lâm, cũng chính là bước chuẩn bị để reo rắc bất hạnh cho Đông Lâm ngày hôm nay.
Cái chết của hai vương tử Đông Lâm khiến Sở Bắc Tiệp và Bạch Sính Đình nghi ngờ lẫn nhau, cũng khiến cho tình yêu giữa họ càng thêm sâu đậm.
Khi tình yêu của họ hết mức sau đậm, đại quân Vân Thường đã đến.
Vương hậu lạnh lòng, liên hoàn độc kế này đều do Phò mã Vân Thường, kẻ đang phá hoại Đông Lâm nghĩ ra…
Từng bước từng bước để Sở Bắc Tiệp mất đi Bạch Sính Đình, để Đông Lâm mất đi Sở Bắc Tiệp, cuối cùng, hắn xóa đi mọi dấu tích của Đông Lâm trên bản đồ…
“Nương nương! Nương nương!” Tiếng kêu kinh hãi theo bước chân gấp gáp vang lên, tấm rèm cửa đơn giản được kéo ra, xuất hiện khuôn mặt lo lắng của La Thượng, “Phía trước phát hiện thấy dấu tích của đại quân Vân Thường, hình như chúng đang đến đây. Nương nương, chúng ta phải lập tức đi thôi. Nhanh lên! Nhanh lên!”, La Thượng vừa thở vừa nói.
Lại đến rồi!
Cảm giác sức cùng lực kiệt bủa vây, nhưng vương hậu không thể bị bắt. Vương hậu là tượng trưng cho vương thất Đông Lâm ngày hôm nay.
Vương hậu cắn răng, từ từ đứng dậy.
“Ngựa đã chuẩn bị xong, mời nương nương lập tức lên ngựa, Mạc Nhiên đưa người đi ngăn bọn chúng, sau đó sẽ hợp nhất với chúng ta”
Vương hậu lên ngựa.
Đằng xa, khói lửa ngút trời, đoàn kỵ binh Vân Thường hung hăng đuổi tới.
La Thượng dẫn binh lính bảo vệ Vương hậu, cả đoàn người thúc ngựa quất roi, chạy trốn trong đêm.
Bạch Sính Đình, nếu ngươi ở trên trời có linh thì mở to mắt ra nhìn loạn thế.
Ta nguyện đem cả mười kiếp luân hồi của mình để hứng chịu tất cả những bất hạnh mà ngươi đã phải chịu.
Chỉ mong ngươi mở lòng từ bi, vì dân chúng vô tội mà trả Trấn Bắc Vương lại cho chúng ta.
Trấn Bắc Vương chính là hy vọng duy nhất trong thiên hạ lúc này.
Ngày hôm nay, thôn trang hẻo lánh vùng biên giới Bắc Mạc bỗng trở nên bí hiểm một cách lạ thường.
“Nghe chuyện không?”
“Nghe chuyện?”
“Trên con đường nhỏ… dưới dốc núi… ngoài thôn, có một thuyết thư tiên sinh mới đến.”
Mọi người khẽ thì thầm, rồi lại cẩn thận nhìn quanh, như sợ đám lính cầm kiếm Vân Thường bất ngờ từ dưới đất chui lên.
Thần sắc của mọi người đều vô cùng bí mật, họ cảm nhận được đây không phải là người kể chuyện mua vui bình thường, ai ai cũng vô cùng mong đợi, mạo hiểm đi nghe.
Loạn thế, người ta rất đỗi mong chờ, dù chỉ là một tia hy vọng.
Chập tối, dưới dốc núi đã xuất hiện bóng người, mới đầu còn đơn độc, từng người, từng người một cẩn thận thăm dò, dần dần có thêm hai, ba người đến.
Trên khuôn mặt của họ đều thoáng vẻ sợ sệt, sợ bị người khác phát hiện, nhưng khi bất chợt nhìn thấy người quen cùng đường, ánh mắt sáng lên kinh ngạc xen lẫn vui mừng, hai bên nhìn nhau khích lệ.
Họ tụ tập trên bãi cỏ tối om không có cả ánh trăng, ngoài những nam nhân trẻ tuổi, còn xuất hiện cả nữ nhân.
“Đừng chen nữa.”
“A Hán cũng đến à?” Giọng nói thật khẽ của một người cùng thôn.
Tiếng cười thuần hậu của A Hán vang lên trong đêm đen: “Đương nhiên rồi, cả nữ nhân của ta cũng đến.”
Có người xùy một tiếng: “Đừng ồn nữa, nghe chuyện đi…”
Xung quanh bất chợt yên ắng.
Đây là cảnh kể chuyện vô cùng đặc biệt. Thuyết thư tiên sinh ngồi trên bãi cỏ, tia sáng mờ ảo chỉ cho người ta thấy loáng thoáng những đường nét của người này trong bóng tối. Thuyết thư tiên sinh hồi hộp chờ đợi, nhưng vẫn chưa nói lời nào.
Người đó e hèm lấy giọng, tiếng nói chỉ đủ nghe, lên bổng xuống trầm, tuy không êm tai, nhưng mang một sức mạnh có thể cổ vũ lòng người.
“Các vị hương thân, hôm nay ta muốn kể với các vị một câu chuyện. Ta nói trước, câu chuyện này xảy ra không lâu trước đây, là câu chuyện có thật. Đám người Vân Thường hung hãn đó không muốn cho người trong thiên hạ biết chuyện này, nhưng những người kể chuyện Bắc Mạc lưu lạc khắp nơi vẫn nghe được và sắp xếp lại thành một câu chuyện, rồi đi kể cho mọi người. Ta biết những ngày này, lúc nào cũng có những thuyết thư tiên sinh bị giết, nhưng giết sao hết những người kể chuyện, một người kể cho mười người nghe, mười người lại kể cho trăm người nghe. Ta không sợ chết, cũng giống như những thuyết thư tiên sinh đã bị chặt đầu, chỉ muốn cho tất cả những người Bắc Mạc được biết câu chuyện này…”
Trong bóng tối, thuyết thư tiên sinh bỗng dừng lại, như để chỉnh lại dòng suy nghĩ.
Không biết tại sao, tất cả những người có mặt lúc này bất giác đều nín thở, như hiểu rằng tiếp theo đây sẽ được nghe một câu chuyện khiến người ta kinh hồn bạt vía.
“Những ngày khổ sở của chúng ta đều do một tên đại ma đầu gây ra. Tên đại ma đầu đó chính là Hà Hiệp, trước đây là tiểu Kính An vương của Quy Lạc, sau là Phò mã của Vân Thường. Hắn đã bày tiệc rượu hạ độc đại vương của chúng ta, ép chúng ta giao nộp lương thực, cướp ngựa bò dê của chúng ta, giết hại người thân của chúng ta. Nhược Hàn thượng tướng quân của chúng ta đã dẫn theo đại quân Bắc Mạc chặn đường hắn nhưng bại trận. Hà Hiệp đánh tan đại quân Bắc Mạc, cũng chính là bẻ gãy xương sống của người Bắc Mạc…”
Nói đến tình trạng bi thảm hiện nay, lòng người lại trĩu nặng buồn thương, vừa bi phẫn vừa căm hận, họ buồn bã cúi đầu.
Giọng nói đau thương, thuyết thư tiên sinh hơi dừng lại, rồi bỗng đổi sang giọng điệu vô cùng phấn chấn: “Nhưng mọi người có còn nhớ Tắc Doãn thượng tướng quân của chúng ta không? Khi Tắc Doãn thượng tướng quân ẩn cư lần đầu tiên, Đông Lâm Sở Bắc Tiệp tìm đến, Thượng tướng quân đã xuống núi, đánh đuổi Sở Bắc Tiệp. lần này, Tắc Doãn thượng tướng quân sao có thể khoanh tay ngồi nhìn Hà Hiệp xâm phạm Bắc Mạc ta? Các vị hương thân phụ lão, Thượng tướng quân Tắc Doãn lại xuống núi!”
Đám đông khẽ xôn xao, như thể từng người họ lại được nhìn thấy một tia hy vọng, bóng tối âm u trước mắt như sáng hơn đôi chút.
“Tắc Doãn thượng tướng quân, chúng ta vẫn còn Thượng tướng quân…”
“Thượng tướng quân đang ở đâu?”
“Đừng ồn, nghe ta nói hết đã” Thuyết thư tiên sinh vừa lên tiếng, xung quanh lại yên ắng, mọi người tập trung lắng nghe. “Tắc Doãn thượng tướng quân là vị tướng rất giỏi cầm quân, ông ấy biết với quân lực hiện nay của Bắc Mạc, chúng ta sẽ không đánh nổi Vân Thường, một trận chiến hai quân đối đầu nhau sẽ chỉ hại chết số chiến sĩ ít ỏi còn lại của chúng ta. Thượng tướng quân không thể làm vậy.”
“Thế là, Thượng tướng quân từ biệt gia quyến, rời khỏi nơi ẩn cư. Ông ấy biết, Hà Hiệp là chủ soái của Vân Thường, không có Hà Hiệp, quân Vân Thường sẽ tan rã. Thượng tướng quân đã suy nghĩ rất lâu, cuối cùng quyết định đơn thương độc mã gửi thư giao chiến với Hà Hiệp.”
Trong đoàn người bỗng vang lên tiếng “a” khe khẽ, hình như của một nữ nhân.
Mọi người hồi hộp lắng nghe, A Hán lo lắng, nói luôn: “Trong tay Hà Hiệp bao nhiêu binh lính như thế, nếu chúng xông lên, Thượng tướng quân của chúng ta sẽ gặp nguy hiểm.”
Thuyết thư tiên sinh đáp: “Không đâu. Hà Hiệp tuy là một tên ma đầu, nhưng cũng là bậc kiêu hùng hiếm có trong thiên hạ, là cao thủ kiếm thuật nổi danh. Khi Thượng tướng quân gửi thư giao chiến tới, ông ấy đã cố ý để lộ tin tức với các tướng lĩnh Vân Thường, nếu Hà Hiệp không dám nghênh chiến, hoặc giở thủ đoạn, hắn sẽ bị các tướng lĩnh coi thường. Thượng tướng quân đã ngắm trúng vào tính cách cao ngạo của Hà Hiệp.”
“Thượng tướng quân của chúng ta… có đánh được Hà Hiệp không?” Trong bóng tối, có người lo lắng hỏi.
Thuyết thư tiên sinh bỗng thở dài một tiếng, khiến trái tim của tất cả mọi người bỗng thắt lại.
“Không hề dễ dàng. Thượng tướng quân kiếm thuật cao siêu, nhưng kiếm pháp Hà Hiệp còn có phần hơn, nếu luận thắng bại, khả năng Hà Hiệp có phần cao hơn một chút.”
“Nếu… nếu đã không thể giành chiến thắng, sao Thượng tướng quân vẫn muốn khiêu chiến? Như thế khác nào tìm đến cái chết?”
“Đúng thế… đúng là tìm đến cái chết.” Thuyết thư tiên sinh lại thở dài một tiếng, trầm giọng, “Cũng có người từng hỏi tướng quân như thế. Lúc đó Thượng tướng quân trả lời: May mắn giết được Hà Hiệp, đó là cái phúc của Bắc Mạc, nhưng nếu không giết được Hà Hiệp mà phải mất mạng, thì đó cũng là cái chết có ý nghĩa. Haizzz, anh hùng, Bắc Mạc chúng ta có anh hùng…”.
Thuyết thư tiên sinh lắc đầu cảm thán một hồi, mọi người quan tâm đến sự sống chết của Tắc Doãn, trong lòng như lửa đốt “Tiên sinh kể nốt đi, trận chiến đó thế nào?”.
“Thua rồi.” Tiên sinh ấy buông ra hai tiếng, khiến mọi người như rơi xuống vực sâu.
Thuyết thư tiên sinh thở than: “Hôm đó, Thượng tướng quân một người một ngựa cầm kiếm xông tới. Hà Hiệp nghênh chiến xung quanh là tướng lĩnh và quân sĩ Vân Thường kêu gào trợ uy cho Hà Hiệp . Thượng tướng quân hiểu rằng, dù có giết được Hà Hiệp hôm nay cũng không thể sống mà đi khỏi đây. Hai người đều là cao thủ đương thời, bảo kiếm giao nhau tóe lửa, chiêu thức không hề khoan nhượng, giao đấu hơn trăm chiêu, cuối cùng kiếm thuật của Hà Hiệp cao hơn, nhân lúc Thượng tướng quân sơ hở, đã đâm thẳng một kiếm vào bụng Thượng tướng quân…”.
“A!”
“Trời ơi!”
Người người kinh hãi, ai cũng thấy nhát kiếm của Hà Hiệp như đâm thẳng vào bụng mình.
Mặc kệ đám đông đang sục sôi, thuyết thư tiên sinh tiếp tục chìm vào khúc ca bi tráng lưu truyền đến muôn đời sau: “Thượng tướng quân vốn dĩ có thể ngăn được nhát kiếm đó, nhưng khi kiếm của Hà Hiệp đưa tới, Thượng tướng quân đã không thể đưa kiếm chống trả mà liều chết vung lên, chém thẳng vào cổ họng Hà Hiệp. Hà Hiệp cũng lợi hại, vẫn kịp thời cúi tránh. Nhưng, nhát kiếm liều chết của Thượng tướng quân đâu dễ tránh đến thế, nó không thể lấy mạng Hà Hiệp, song đã chém cho vai phải của hắn bị thương.”
Thuyết thư tiên sinh lại ngừng một lúc, như đang hồi tưởng về cảnh tượng kinh hồn bạt vía ấy, rồi chầm chậm tiếp tục hạ giọng: “Thượng tướng quân trúng một kiếm vào bụng, ngã xuống ngựa. Hà Hiệp ngồi trên lưng ngựa, máu ở vai tuôn xối xả. Người Bắc Mạc chúng ta đáng lẽ đều phải được tận mắt nhìn thấy sắc mặt lúc đó của Hà Hiệp, đáng lẽ phải được nhìn thấy. Tướng lĩnh Vân Thường thấy chủ soái bị thương thì kinh hoàng thất sắc vội vã chạy tới định băng bó vết thương, nhưng Hà Hiệp xua tay ngăn lại, cúi xuống hỏi Thượng tướng quân: ‘Làm thế có đáng không?’ Mọi người có biết Thượng tướng quân trả lời thế nào không?.”.Thuyết thư tiên sinh dừng lại.
Đám đông im lặng, cảm giác như hơi thở không còn là của chính mình, họ như đang đứng tại nơi quyết đấu, chứng kiến cảnh Hà Hiệp cưỡi trên lưng ngựa, từ cao nhìn xuống, còn Thượng tướng quân Tắc Doãn của họ bị thương nặng nằm dưới đất, nhưng vẫn dũng mãnh kiên cường.
Một lúc sau cũng có người hỏi khẽ: “Tiên sinh, Thượng tướng quân trả lời Hà Hiệp ra sao?”.
Trong bóng tối, khuôn mặt của thuyết thư tiên sinh khẽ động, hình như đang mỉm cười, vừa như đang cảm thán lại như kính phục: “Thượng tướng quân ngẩng đầu, cười nói với Hà Hiệp: “Đáng chứ. Bởi vì từ bây giờ, tất cả người Bắc Mạc đều biết Hà Hiệp không hề đáng sợ, Hà Hiệp cũng có thể chảy máu, Hà Hiệp cũng có thể bị thương. Sẽ có một ngày, Hà Hiệp cũng có thể bị thất bại”.
Thuyết thư tiên sinh gằn từng tiếng rõ ràng, từng từ, từng từ ấm áp và chắc chắn thấm sâu vào tai, ăn sâu vào khối óc, hòa cùng nhiệt huyết với những người đang có mặt tại đây.
“Câu chuyện của ta rất ngắn, chỉ đến đây là kết thúc. Để ta uống ngụm nước, ta còn phải lên đường, đến thôn khác” Thuyết thư tiên sinh tìm bình nước dưới chân, đưa lên miệng uống một ngụm, rồi nói tiếp, “Câu chuyện này, ta nghe người khác kể lại, người khác cũng nghe người khác kể lại. Không biết làm thế nào mà câu chuyện được truyền ra ngoài, nhưng tất cả chúng ta đều biết, việc này hoàn toàn là sự thật. Chỉ cần những ai nghe được câu chuyện này hãy cố gắng khắc ghi trong lòng. Được như thế, là Thượng tướng quân đã đổ máu xứng đáng. Đừng quên, chúng ta còn có Nhược Hàn thượng tướng quân. Tuy bây giờ không biết thượng tướng quân đang ở đâu, song sớm muộn gì, Nhược Hàn thượng tướng quân cũng giống như Tắc Doãn thượng tướng quân, xuất hiện để đối kháng với Hà Hiệp ”. Thuyết thư tiên sinh khó khăn chống gậy đứng dậy.
“Tiên sinh…”, có người bỗng lên tiếng gọi, “Thế sau đó Tắc Doãn thượng tướng quân thế nào?” .
Thuyết thư tiên sinh lắc đầu: “Ai mà biết được, câu chuyện này người nọ truyền người kia, ta nghe được bao nhiêu, kể bấy nhiêu”, rồi tiếp tục bước về phía trước.
Trong bóng tối, những thôn dân nhìn theo dáng hình lảo đảo của lão nhân vừa kể chuyện, ánh mắt lấp lánh ngọn lửa nhỏ.
Từ bây giờ, người Bắc Mạc đều biết Hà Hiệp không đáng sợ.
Hà Hiệp cũng có thể bị đổ máu.
Hà Hiệp cũng có thể bị thương.
Sẽ có một ngày, Hà Hiệp có thể bại trận.
“Liệu Nhược Hàn thượng tướng quân có tiếp tục cầm quân?”.
“Chúng ta sao có thể đánh lại được Hà Hiệp ? Hắn là danh tướng lừng danh khắp thiên hạ”
“Không đánh được thì thế nào.”
Trong lòng mỗi người đều cất giữ một ngọn lửa, họ lặng lẽ tản đi, chỉ còn lại hai bóng hình mảnh mai, bất động đứng nguyên chỗ cũ.
“Dương Phượng…”
“Chàng còn sống.” Dương Phượng yên lặng đứng đó hồi lâu, rồi gằn từng tiếng, “Nhất định chàng vẫn còn sống, sống để nhìn Hà Hiệp đổ máu thêm lần nữa, sống để nhìn Hà Hiệp thất bại”. Mỗi lời nàng nói ra, nước mắt lại tuôn rơi.
Sính Đình nắm lấy bàn tay lạnh toát run rẩy của Dương Phượng, không nói gì.
Nàng chẳng còn sức để an ủi, và không có cách nào an ủi. Điều này cũng bởi, Dương Phượng còn kiên cường hơn nàng, hiểu Tắc Doãn hơn nàng, và biết cách yêu hơn nàng.
Thiên hạ có hai danh tướng, một thuộc về Vân Thường, một thuộc về Đông Lâm.
Nhưng, Bắc Mạc cũng có anh hùng, có hảo hán, có những nam nhi tràn đầy nhiệt huyết, không bao giờ khuất phục.
Không chỉ mình Tắc Doãn, mà còn có rất nhiều, rất nhiều người Bắc Mạc khác.
Ngày thứ hai, tin tức truyền về, trước thôn mười lăm dặm phát hiện thấy thuyết thư tiên sinh bị kiếm chém. Nát người, cái đầu với mái tóc bạc phơ bị quân Vân Thường treo lên cây, cảnh cáo tất cả những người Bắc Mạc dám truyền đi câu chuyện có thật này.
A Hán cùng mấy nam nhân trẻ tuổi trong thôn nhân lúc đêm khuya lấy trộm đầu lão nhân đó về, lặng lẽ an táng nơi dốc núi ngoài thôn.
Không có bia mộ, chỉ là một nấm đất vàng, nhưng không ít người đến đó thắp hương cho một thuyết thư tiên sinh vô danh.
Cả Sính Đình và Dương Phượng cũng đưa theo hai hài nhi đến đó.
Đây là một vụ bội thu, quả cây trĩu nặng, dê khỏe ngựa béo.
Nhưng, dân chúng trong thiên hạ vẫn bàng hoàng bất an, kẻ không may thì gặp cảnh chết chóc, bạo ngược, áp bức, người may mắn thì gặp được nhiệt huyết anh hùng.
Sau khi thắp hương trở về, Sính Đình không hề do dự bước vào phòng, lấy Thần uy bảo kiếm trên tường xuống.
“Ta không cần muội xuống núi vì ta.” Dương Phượng ngăn Sính Đình, hai mắt đỏ hoe nhưng vô cùng kiên định, “Sính Đình, đừng vì người khác mà ép bản thân làm những điều mình không muốn”.
“Muội không vì tỷ, mà vì chính bản thân muội.” Sính Đình ôm kiếm vào lòng, chậm rãi quay lại, ánh mắt sáng lấp lánh, nói rõ từng tiếng, “Muội phải vứt bỏ những oán hận ngu ngốc, để đi tìm nam nhân thân yêu của mình, phụ thân của Trường Tiếu. Muội muốn chàng yêu thương, bảo vệ muội, để mẫu tử muội không bao giờ chịu chèn ép và sỉ nhục như thế này, không bao giờ phải chứng kiến những thảm cảnh thế này”.
Làn môi xinh khẽ nhướng lên, nở nụ cười tự tin đẹp đến lạ thường.
“Dương Phượng, cũng giống như Tắc Doãn, việc này muội làm hoàn toàn là cam tâm tình nguyện, là tâm nguyện của muội.”
Nàng nói với A Hán đã gọi đến từ trước: “A Hán, chỗ huynh vẫn còn một con ngựa, đúng không? Cho ta mượn được không?”.
“Cô nương cần ngựa làm gì?”
Sính Đình ôm bảo kiếm, cười dịu dàng: “Ta phải đi tìm một người, nam nhân có thể đánh bại Hà Hiệp. Chặng đường này có thể rất dài, vì thế ta phải mượn ngựa của huynh. Còn nữa, nhờ huynh đỡ đần Dương Phượng, chăm sóc Trường Tiếu”.
Dương Phượng nhìn theo dáng hình tha thướt của hảo hữu, cố nén nỗi đau trong lòng mà gạt nước mắt, ra vẻ ung dung tự tại: “Thời thế loạn lạc, Trấn Bắc vương đã mất tích lâu như vậy, muội một thân một mình biết đi đâu tìm người?”.
“Tỷ đừng lo”. Ánh mắt Sính Đình sáng như sao, giọng nói vô cùng êm ái, lại có phần kiên định, “Chỉ cần chàng còn sống, nhất định muội sẽ tìm thấy chàng”.
Dân chúng thành đô Vân Thường chào đón Phò mã của họ vinh quang trở về với nghi thức long trọng nhất.
Hà Hiệp cưỡi trên lưng con chiến mã to lớn, đi giữa sự chào đón ca ngợi của mọi người. Phi Chiếu Hành cầm dây cương, thúc ngựa theo sau, không dám đi ngang hàng với Hà Hiệp, mà lùi xuống nửa thân ngựa, hạ giọng hỏi: “Phò mã, sau khi vào vương thành, chúng ta có đến vương cung trước không?”
Hà Hiệp lắc đầu, giọng lạnh lùng: “Sao phải đến vương cung trước? Đông Chước đang đợi chúng ta ở phủ phò mã.”
Về đến phủ Phò mã, đúng là Đông Chước đang đợi họ bên trong. Thế lực Hà Hiệp lên như diều gặp gió, khiến vị thế của Đông Chước cũng không ngừng tăng lên, hắn gần như quản lý toàn bộ sự vụ lớn nhỏ ở thành đô.
Ba người Hà Hiệp, Đông Chước, Phi Chiếu Hành vào thư phòng. Lần hội đàm này không có mặt bất cứ vị quan Vân Thường nào, nên họ nói năng cũng không phải kiêng dè.
Hà Hiệp hỏi: “Đám quan Vân Thường đó nói thế nào?”.
“Tạm thời không có vấn đề gì, nhưng họ vẫn rất thương xót vương tộc Vân Thường.” Đông Chước luôn ở lại thành đô giám sát mọi chuyện, nên hắn nắm rõ tình hình các quan Vân Thường như lòng bàn tay.
Phi Chiếu Hành nói: “Nếu để tiểu Kính An vương lên ngôi đại vương là làm trái với pháp luật Vân Thường. Bởi dù tiểu Kính An vương có lập được bao nhiêu công trạng cũng vẫn không phải huyết thống của vương tộc Vân Thường.”
Đông Chước lên tiếng: “Ta đã thăm dò vài vị đại thần đức cao vọng trọng trong thành đô, xem thái độ, họ đều không mấy tán thành việc lập tân quốc, suy tôn tân vương”.
Vẻ mặt không vui, Hà Hiệp cười gằn: “Kẻ thức thời mới là tuấn kiệt. Mấy chục vạn đại quân đang ở trong tay ta, họ dám gây khó dễ cho ta, không lẽ lại muốn đi theo vết xe đổ của Quý Thường Thanh?”.
“Các tướng lĩnh trong quân cũng từng nhận được trọng ân của vương thất Vân Thường, e là cũng sẽ không ủng hộ cách làm của tiểu Kính An vương”, Phi Chiếu Hành an ủi, “Việc này thực ra không khó, chỉ là một vài kẻ trung thành ngu xuẩn gây rối. Đến một ngày vương thất Vân Thường biến mất, họ chẳng còn chỗ dựa, chắc chắn sẽ chạy ngay đến bên tiểu Kính An vương. Tới lúc đó, sẽ chẳng còn ai phản đối tân vương lên ngôi, quốc danh, quốc hiệu có thể đặt lại”.
Nghe ý tứ của Phi Chiếu Hành, rõ ràng là muốn ra tay với Công chúa, Đông Chước cũng không có tình cảm gì với vương thất Vân Thường, nhưng Công chúa đối với Hà Hiệp trước nay không bạc, giết Công chúa thì thật bất nghĩa, sắc mặt hắn trầm hẳn xuống, hạ giọng: “Công chúa đã bị giam lỏng trong cung, sẽ không thể uy hiếp chúng ta, hà tất phải đuổi giết đến cùng? Hơn nữa, trong bụng Công chúa đang mang cốt nhục của thiếu gia.”
Đã phải chứng kiến cảnh đấu đá tranh giành lẫn nhau trong vương triều Quy Lạc, nên hiểu rõ nội tình, hơn nữa bản thân lại là nam nhân thực tế, Phi Chiếu Hành thẳng thắn nói: “Chỉ cần có nữ nhân thì lo gì không có người nối dõi? Bây giờ tiểu Kính An vương nhìn thì vẻ vang là thế nhưng thực chất nền tảng vẫn chưa vững chắc. Xác lập danh hiệu, chính thức lên ngôi sớm ngày nào…”
“Chiếu Hành…”, Hà Hiệp vẫn đứng chắp tay sau lưng bên cửa sổ bỗng lên tiếng, “Đừng tranh luận nữa. Ngươi vừa về, nghỉ ngơi trước đi đã”
Phi Chiếu Hành hơi sững lại, rồi nhìn sang Đông Chước mặt khó đăm đăm, giọng rất biết điều: “Chiếu Hành xin cáo lui.”
Đợi Phi Chiếu Hành ra khỏi thư phòng, Hà Hiệp mệt mỏi thở dài, nói: “Đông Chước, ngươi theo ta từ nhỏ, muốn nói gì cứ nói.”
Đại quân của Hà Hiệp chinh phạt nam bắc, Đông Chước tuy ở lại thành đô nhưng đều nghe và biết mọi hành tung của đội quân Vân Thường. vốn có bao chuyện muốn đợi Hà Hiệp về để nói cho bằng hết, song lúc này Hà Hiệp hỏi đến, Đông Chước chợt thấy lòng mình khựng lại.
Đông Chước từ nhỏ lớn lên trong vương phủ Kính An, chứng kiến thiếu gia từ một nhi tử được phụ mẫu hết lòng cưng chiều thành tội thần bị truy tìm khắp nơi, tận mắt nhìn thiếu gia giày công hoạch định để trở thành Phò mã Vân Thường, rồi bị thế lực ngoan cố trong triều đình Vân Thường chèn ép đến không thể ngẩng đầu, chịu mọi ai oán, lại chứng kiến thiếu gia xoay chuyển tình thế, quét sạch thù nhà.
Bao nhiêu thăng trầm, bao nhiêu vất vả, danh tướng được muôn dân ngưỡng mộ và sợ sệt đang đứng ở đây đã phải trải qua bao lận đận, Đông Chước là người rõ hơn ai hết.
Chắc đã phải chịu quá nhiều vất vả, mọi nỗi uất ức, nên sau khi nắm quyền, tính tình Hà Hiệp ngày càng bạo ngược, thủ đoạn ngày càng tàn độc, ngay cả Đông Chước cũng thấy lạnh lòng.
Đông Chước ngẩng lên nhìn Hà Hiệp .
Thiếu gia vẫn anh tuấn kiệt xuất, vẫn khoáng đạt như thuở ban đầu, nhưng sao càng nhìn càng thấy xa cách, mơ hồ, giống như giữa hai người bị chắn bởi một lớp sương mù, ngăn thêm khoảng cách.
“Thiếu gia…” Giong Đông Chước mang vẻ cầu khẩn, “Nếu tha được thì tha. Quý gia tội đáng phải chịu, nhưng Công chúa không giống thế. Lẽ nào trong lòng thiếu gia lại thật sự không có chút tình cảm nào dành cho Công chúa?”.
Hà Hiệp đứng đó, lặng lẽ nghe những lời của Đông Chước. Vẻ bạo ngược lúc bước vào dần biến mất, ánh mắt Hà Hiệp có thêm vài phần hiền hòa rất đỗi quen thuộc.
Khoảnh khắc đó, dường như Hà Hiệp lại quay về là vị thiếu gia phong lưu đa tình trong phủ Kính An.
“Liên quan đến chính sự và quyền lực, liệu còn chỗ nào cho tình nghĩa dung thân?” Bên cạnh chỉ có mỗi mình Đông Chước, danh tướng Hà Hiệp bất bại, Phò mã đắc chí bỗng nở nụ cười chua chát thoáng chút bất lực, “Đông Chước, ngươi theo ta mười mấy năm, trước đây ta có là một người vô tình vô nghĩa thế này không?”
Dưới một người và trên vạn người chỉ là một ảo ảnh xúc động lòng người.
Vương phủ Kính An nắm giữ quân quyền, gia thế hiển hách, nhưng chỉ một vương lệnh của Quy Lạc vương, trong phút chốc cả vương phủ đã hoàn toàn sụp đổ, người chết nhà tan.
Phò mã thì sao? Diệu Thiên là nữ tử yếu mềm không hiểu việc binh, có thể chẳng để ý đến những nỗ lực mà Hà Hiệp đã phải lao tâm khổ tứ, mà dễ dàng ngăn chặn đại chiến giữa Đông Lâm và Vân Thường tửng chừng như sẽ xảy ra trong thoáng chốc.
Còn Hà Hiệp đã mãi mãi mất đi nụ cười và tiếng đàn của Sính Đình. Khi trở về, hắn chỉ còn lại phòng không lầu trống, lá rụng đầy sân,
Bài học kinh nghiệm đã quá nhiều…
Hà Hiệp nhắm chặt hai mắt, giấu đi sự mệt mỏi và bất lực.
Những ngọn đuốc của quân lính Vân Thường đã khiến cả thành đô Đông Lâm chìm trong khói lửa, lửa cháy nơi vương cung thiêu đỏ cả một vùng trời.
“Vương cung… vương cung!” Bách tính Đông Lâm còn ở lại thành đô rớt nước mắt nhìn ánh lửa cháy rừng rực và bóng đao sáng lóa.
Mệnh lệnh tàn bạo này của Hà Hiệp đâu chỉ để trút giận. Cả đội quân khổng lồ đã phải hao tâm tổn sức, muốn khống chế bất cứ quốc gia nào, muốn chiếm lĩnh lãnh thổ rộng lớn của họ, thì nhất định phải tốc chiến tốc thắng.
Tiêu hủy một vương quốc, đầu tiên phải phá vỡ lòng tin và hy vọng của dân chúng.
Khi vương cung Đông Lâm huy hoàng sừng sững hàng trăm năm nay bị một mồi lửa của quân Vân Thường đốt thành bãi đất bằng, chút hy vọng ít ỏi còn sót lại của dân chúng Đông Lâm cũng hoàn toàn cháy rụi.
Biểu tượng hàng trăm năm nay của vương tộc Đông Lâm dần biến mất trong biển lửa, tiếp tục giáng một đòn nặng nề xuống trái tim đã trĩu nặng của con dân Đông Lâm.
Trấn Bắc vương từng bảo vệ họ giờ không rõ tung tích. Hy vọng của họ biết gửi gắm cho ai?
Tin tức đau thương này như được chắp thêm đôi cánh bay tới mọi ngõ ngách của Đông Lâm, khiến những người dân khốn cùng càng thêm tuyệt vọng.
“Đại vương, thần thiếp phải làm sao đây?” Nghe xong tin tức từ phương xa, Đông Lâm vương hậu đuổi lui lính truyền tin, buồn rầu ngồi xuống.
Đất đai Đông Lâm đã mất hơn nửa, dân chúng lang thang chẳng chốn nương thân, vương cung hóa thành tro tàn.
Đông Lâm hiển hách một thời, sao lại rơi vào cảnh ngộ này?
Đại tướng quân Thần Mâu chết trên sa trường, Sở Mạc Nhiên và La Thượng liều mạng hộ vệ vương hậu rời khỏi thành đô. Sau lưng tiếng đuổi giết ngút trời, máu của các binh sĩ bắn tung tóe lên trang phục lộng lẫy trên người Vương hậu.
Đến lúc này, Vương hậu mới thực sự hiểu rằng, tại sao một danh tướng như Trấn Bắc vương lại được người trong thiên hạ coi là báu vật ngàn năm khó đổi, tại sao khi tướng sĩ Đông Lâm nhắc đến Trấn Bắc vương, khuôn mặt lại không giấu nổi niềm tự hào.
Không còn là quý phụ an cư chốn thâm cung, nay, Vương hậu phải mặc y phục thô ráp, gột sạch mọi xa hoa, được một số ít tướng sĩ Đông Lâm còn lại hộ vệ, giấu thân nơi đồng hoang hẻo lánh hay trong rừng sâu, chạy trốn sự truy bắt của quân Vân Thường.
Trong bóng đen nặng nề cùng sự lo lắng cho tương lai, Vương hậu thường hồi tưởng lại chuyện trước đây.
Đông Lâm lúc đó sao mà lớn mạnh, có đội quân thiện chiến nhất tứ quốc, có Đại vương, có Trấn Bắc vương.
Tất cả mọi bất hạnh rốt cuộc bắt nguồn từ đâu?
“Bạch Sính Đình…” Vương hậu chậm rãi buông ra cái tên mà bất cứ ai cũng thấy nặng nề.
Khi ấy, Bạch Sính Đình xen vào đại chiến giữa Đông Lâm và Bắc Mạc, để Hà Hiệp có thể lợi dụng thời cơ.
Tiểu Kính An vương nổi danh thiên hạ, sau này là Phò mã Vân Thường, khi bắt tay với Bắc Mạc vương mưu hại vương tử Đông Lâm, cũng chính là bước chuẩn bị để reo rắc bất hạnh cho Đông Lâm ngày hôm nay.
Cái chết của hai vương tử Đông Lâm khiến Sở Bắc Tiệp và Bạch Sính Đình nghi ngờ lẫn nhau, cũng khiến cho tình yêu giữa họ càng thêm sâu đậm.
Khi tình yêu của họ hết mức sau đậm, đại quân Vân Thường đã đến.
Vương hậu lạnh lòng, liên hoàn độc kế này đều do Phò mã Vân Thường, kẻ đang phá hoại Đông Lâm nghĩ ra…
Từng bước từng bước để Sở Bắc Tiệp mất đi Bạch Sính Đình, để Đông Lâm mất đi Sở Bắc Tiệp, cuối cùng, hắn xóa đi mọi dấu tích của Đông Lâm trên bản đồ…
“Nương nương! Nương nương!” Tiếng kêu kinh hãi theo bước chân gấp gáp vang lên, tấm rèm cửa đơn giản được kéo ra, xuất hiện khuôn mặt lo lắng của La Thượng, “Phía trước phát hiện thấy dấu tích của đại quân Vân Thường, hình như chúng đang đến đây. Nương nương, chúng ta phải lập tức đi thôi. Nhanh lên! Nhanh lên!”, La Thượng vừa thở vừa nói.
Lại đến rồi!
Cảm giác sức cùng lực kiệt bủa vây, nhưng vương hậu không thể bị bắt. Vương hậu là tượng trưng cho vương thất Đông Lâm ngày hôm nay.
Vương hậu cắn răng, từ từ đứng dậy.
“Ngựa đã chuẩn bị xong, mời nương nương lập tức lên ngựa, Mạc Nhiên đưa người đi ngăn bọn chúng, sau đó sẽ hợp nhất với chúng ta”
Vương hậu lên ngựa.
Đằng xa, khói lửa ngút trời, đoàn kỵ binh Vân Thường hung hăng đuổi tới.
La Thượng dẫn binh lính bảo vệ Vương hậu, cả đoàn người thúc ngựa quất roi, chạy trốn trong đêm.
Bạch Sính Đình, nếu ngươi ở trên trời có linh thì mở to mắt ra nhìn loạn thế.
Ta nguyện đem cả mười kiếp luân hồi của mình để hứng chịu tất cả những bất hạnh mà ngươi đã phải chịu.
Chỉ mong ngươi mở lòng từ bi, vì dân chúng vô tội mà trả Trấn Bắc Vương lại cho chúng ta.
Trấn Bắc Vương chính là hy vọng duy nhất trong thiên hạ lúc này.
Ngày hôm nay, thôn trang hẻo lánh vùng biên giới Bắc Mạc bỗng trở nên bí hiểm một cách lạ thường.
“Nghe chuyện không?”
“Nghe chuyện?”
“Trên con đường nhỏ… dưới dốc núi… ngoài thôn, có một thuyết thư tiên sinh mới đến.”
Mọi người khẽ thì thầm, rồi lại cẩn thận nhìn quanh, như sợ đám lính cầm kiếm Vân Thường bất ngờ từ dưới đất chui lên.
Thần sắc của mọi người đều vô cùng bí mật, họ cảm nhận được đây không phải là người kể chuyện mua vui bình thường, ai ai cũng vô cùng mong đợi, mạo hiểm đi nghe.
Loạn thế, người ta rất đỗi mong chờ, dù chỉ là một tia hy vọng.
Chập tối, dưới dốc núi đã xuất hiện bóng người, mới đầu còn đơn độc, từng người, từng người một cẩn thận thăm dò, dần dần có thêm hai, ba người đến.
Trên khuôn mặt của họ đều thoáng vẻ sợ sệt, sợ bị người khác phát hiện, nhưng khi bất chợt nhìn thấy người quen cùng đường, ánh mắt sáng lên kinh ngạc xen lẫn vui mừng, hai bên nhìn nhau khích lệ.
Họ tụ tập trên bãi cỏ tối om không có cả ánh trăng, ngoài những nam nhân trẻ tuổi, còn xuất hiện cả nữ nhân.
“Đừng chen nữa.”
“A Hán cũng đến à?” Giọng nói thật khẽ của một người cùng thôn.
Tiếng cười thuần hậu của A Hán vang lên trong đêm đen: “Đương nhiên rồi, cả nữ nhân của ta cũng đến.”
Có người xùy một tiếng: “Đừng ồn nữa, nghe chuyện đi…”
Xung quanh bất chợt yên ắng.
Đây là cảnh kể chuyện vô cùng đặc biệt. Thuyết thư tiên sinh ngồi trên bãi cỏ, tia sáng mờ ảo chỉ cho người ta thấy loáng thoáng những đường nét của người này trong bóng tối. Thuyết thư tiên sinh hồi hộp chờ đợi, nhưng vẫn chưa nói lời nào.
Người đó e hèm lấy giọng, tiếng nói chỉ đủ nghe, lên bổng xuống trầm, tuy không êm tai, nhưng mang một sức mạnh có thể cổ vũ lòng người.
“Các vị hương thân, hôm nay ta muốn kể với các vị một câu chuyện. Ta nói trước, câu chuyện này xảy ra không lâu trước đây, là câu chuyện có thật. Đám người Vân Thường hung hãn đó không muốn cho người trong thiên hạ biết chuyện này, nhưng những người kể chuyện Bắc Mạc lưu lạc khắp nơi vẫn nghe được và sắp xếp lại thành một câu chuyện, rồi đi kể cho mọi người. Ta biết những ngày này, lúc nào cũng có những thuyết thư tiên sinh bị giết, nhưng giết sao hết những người kể chuyện, một người kể cho mười người nghe, mười người lại kể cho trăm người nghe. Ta không sợ chết, cũng giống như những thuyết thư tiên sinh đã bị chặt đầu, chỉ muốn cho tất cả những người Bắc Mạc được biết câu chuyện này…”
Trong bóng tối, thuyết thư tiên sinh bỗng dừng lại, như để chỉnh lại dòng suy nghĩ.
Không biết tại sao, tất cả những người có mặt lúc này bất giác đều nín thở, như hiểu rằng tiếp theo đây sẽ được nghe một câu chuyện khiến người ta kinh hồn bạt vía.
“Những ngày khổ sở của chúng ta đều do một tên đại ma đầu gây ra. Tên đại ma đầu đó chính là Hà Hiệp, trước đây là tiểu Kính An vương của Quy Lạc, sau là Phò mã của Vân Thường. Hắn đã bày tiệc rượu hạ độc đại vương của chúng ta, ép chúng ta giao nộp lương thực, cướp ngựa bò dê của chúng ta, giết hại người thân của chúng ta. Nhược Hàn thượng tướng quân của chúng ta đã dẫn theo đại quân Bắc Mạc chặn đường hắn nhưng bại trận. Hà Hiệp đánh tan đại quân Bắc Mạc, cũng chính là bẻ gãy xương sống của người Bắc Mạc…”
Nói đến tình trạng bi thảm hiện nay, lòng người lại trĩu nặng buồn thương, vừa bi phẫn vừa căm hận, họ buồn bã cúi đầu.
Giọng nói đau thương, thuyết thư tiên sinh hơi dừng lại, rồi bỗng đổi sang giọng điệu vô cùng phấn chấn: “Nhưng mọi người có còn nhớ Tắc Doãn thượng tướng quân của chúng ta không? Khi Tắc Doãn thượng tướng quân ẩn cư lần đầu tiên, Đông Lâm Sở Bắc Tiệp tìm đến, Thượng tướng quân đã xuống núi, đánh đuổi Sở Bắc Tiệp. lần này, Tắc Doãn thượng tướng quân sao có thể khoanh tay ngồi nhìn Hà Hiệp xâm phạm Bắc Mạc ta? Các vị hương thân phụ lão, Thượng tướng quân Tắc Doãn lại xuống núi!”
Đám đông khẽ xôn xao, như thể từng người họ lại được nhìn thấy một tia hy vọng, bóng tối âm u trước mắt như sáng hơn đôi chút.
“Tắc Doãn thượng tướng quân, chúng ta vẫn còn Thượng tướng quân…”
“Thượng tướng quân đang ở đâu?”
“Đừng ồn, nghe ta nói hết đã” Thuyết thư tiên sinh vừa lên tiếng, xung quanh lại yên ắng, mọi người tập trung lắng nghe. “Tắc Doãn thượng tướng quân là vị tướng rất giỏi cầm quân, ông ấy biết với quân lực hiện nay của Bắc Mạc, chúng ta sẽ không đánh nổi Vân Thường, một trận chiến hai quân đối đầu nhau sẽ chỉ hại chết số chiến sĩ ít ỏi còn lại của chúng ta. Thượng tướng quân không thể làm vậy.”
“Thế là, Thượng tướng quân từ biệt gia quyến, rời khỏi nơi ẩn cư. Ông ấy biết, Hà Hiệp là chủ soái của Vân Thường, không có Hà Hiệp, quân Vân Thường sẽ tan rã. Thượng tướng quân đã suy nghĩ rất lâu, cuối cùng quyết định đơn thương độc mã gửi thư giao chiến với Hà Hiệp.”
Trong đoàn người bỗng vang lên tiếng “a” khe khẽ, hình như của một nữ nhân.
Mọi người hồi hộp lắng nghe, A Hán lo lắng, nói luôn: “Trong tay Hà Hiệp bao nhiêu binh lính như thế, nếu chúng xông lên, Thượng tướng quân của chúng ta sẽ gặp nguy hiểm.”
Thuyết thư tiên sinh đáp: “Không đâu. Hà Hiệp tuy là một tên ma đầu, nhưng cũng là bậc kiêu hùng hiếm có trong thiên hạ, là cao thủ kiếm thuật nổi danh. Khi Thượng tướng quân gửi thư giao chiến tới, ông ấy đã cố ý để lộ tin tức với các tướng lĩnh Vân Thường, nếu Hà Hiệp không dám nghênh chiến, hoặc giở thủ đoạn, hắn sẽ bị các tướng lĩnh coi thường. Thượng tướng quân đã ngắm trúng vào tính cách cao ngạo của Hà Hiệp.”
“Thượng tướng quân của chúng ta… có đánh được Hà Hiệp không?” Trong bóng tối, có người lo lắng hỏi.
Thuyết thư tiên sinh bỗng thở dài một tiếng, khiến trái tim của tất cả mọi người bỗng thắt lại.
“Không hề dễ dàng. Thượng tướng quân kiếm thuật cao siêu, nhưng kiếm pháp Hà Hiệp còn có phần hơn, nếu luận thắng bại, khả năng Hà Hiệp có phần cao hơn một chút.”
“Nếu… nếu đã không thể giành chiến thắng, sao Thượng tướng quân vẫn muốn khiêu chiến? Như thế khác nào tìm đến cái chết?”
“Đúng thế… đúng là tìm đến cái chết.” Thuyết thư tiên sinh lại thở dài một tiếng, trầm giọng, “Cũng có người từng hỏi tướng quân như thế. Lúc đó Thượng tướng quân trả lời: May mắn giết được Hà Hiệp, đó là cái phúc của Bắc Mạc, nhưng nếu không giết được Hà Hiệp mà phải mất mạng, thì đó cũng là cái chết có ý nghĩa. Haizzz, anh hùng, Bắc Mạc chúng ta có anh hùng…”.
Thuyết thư tiên sinh lắc đầu cảm thán một hồi, mọi người quan tâm đến sự sống chết của Tắc Doãn, trong lòng như lửa đốt “Tiên sinh kể nốt đi, trận chiến đó thế nào?”.
“Thua rồi.” Tiên sinh ấy buông ra hai tiếng, khiến mọi người như rơi xuống vực sâu.
Thuyết thư tiên sinh thở than: “Hôm đó, Thượng tướng quân một người một ngựa cầm kiếm xông tới. Hà Hiệp nghênh chiến xung quanh là tướng lĩnh và quân sĩ Vân Thường kêu gào trợ uy cho Hà Hiệp . Thượng tướng quân hiểu rằng, dù có giết được Hà Hiệp hôm nay cũng không thể sống mà đi khỏi đây. Hai người đều là cao thủ đương thời, bảo kiếm giao nhau tóe lửa, chiêu thức không hề khoan nhượng, giao đấu hơn trăm chiêu, cuối cùng kiếm thuật của Hà Hiệp cao hơn, nhân lúc Thượng tướng quân sơ hở, đã đâm thẳng một kiếm vào bụng Thượng tướng quân…”.
“A!”
“Trời ơi!”
Người người kinh hãi, ai cũng thấy nhát kiếm của Hà Hiệp như đâm thẳng vào bụng mình.
Mặc kệ đám đông đang sục sôi, thuyết thư tiên sinh tiếp tục chìm vào khúc ca bi tráng lưu truyền đến muôn đời sau: “Thượng tướng quân vốn dĩ có thể ngăn được nhát kiếm đó, nhưng khi kiếm của Hà Hiệp đưa tới, Thượng tướng quân đã không thể đưa kiếm chống trả mà liều chết vung lên, chém thẳng vào cổ họng Hà Hiệp. Hà Hiệp cũng lợi hại, vẫn kịp thời cúi tránh. Nhưng, nhát kiếm liều chết của Thượng tướng quân đâu dễ tránh đến thế, nó không thể lấy mạng Hà Hiệp, song đã chém cho vai phải của hắn bị thương.”
Thuyết thư tiên sinh lại ngừng một lúc, như đang hồi tưởng về cảnh tượng kinh hồn bạt vía ấy, rồi chầm chậm tiếp tục hạ giọng: “Thượng tướng quân trúng một kiếm vào bụng, ngã xuống ngựa. Hà Hiệp ngồi trên lưng ngựa, máu ở vai tuôn xối xả. Người Bắc Mạc chúng ta đáng lẽ đều phải được tận mắt nhìn thấy sắc mặt lúc đó của Hà Hiệp, đáng lẽ phải được nhìn thấy. Tướng lĩnh Vân Thường thấy chủ soái bị thương thì kinh hoàng thất sắc vội vã chạy tới định băng bó vết thương, nhưng Hà Hiệp xua tay ngăn lại, cúi xuống hỏi Thượng tướng quân: ‘Làm thế có đáng không?’ Mọi người có biết Thượng tướng quân trả lời thế nào không?.”.Thuyết thư tiên sinh dừng lại.
Đám đông im lặng, cảm giác như hơi thở không còn là của chính mình, họ như đang đứng tại nơi quyết đấu, chứng kiến cảnh Hà Hiệp cưỡi trên lưng ngựa, từ cao nhìn xuống, còn Thượng tướng quân Tắc Doãn của họ bị thương nặng nằm dưới đất, nhưng vẫn dũng mãnh kiên cường.
Một lúc sau cũng có người hỏi khẽ: “Tiên sinh, Thượng tướng quân trả lời Hà Hiệp ra sao?”.
Trong bóng tối, khuôn mặt của thuyết thư tiên sinh khẽ động, hình như đang mỉm cười, vừa như đang cảm thán lại như kính phục: “Thượng tướng quân ngẩng đầu, cười nói với Hà Hiệp: “Đáng chứ. Bởi vì từ bây giờ, tất cả người Bắc Mạc đều biết Hà Hiệp không hề đáng sợ, Hà Hiệp cũng có thể chảy máu, Hà Hiệp cũng có thể bị thương. Sẽ có một ngày, Hà Hiệp cũng có thể bị thất bại”.
Thuyết thư tiên sinh gằn từng tiếng rõ ràng, từng từ, từng từ ấm áp và chắc chắn thấm sâu vào tai, ăn sâu vào khối óc, hòa cùng nhiệt huyết với những người đang có mặt tại đây.
“Câu chuyện của ta rất ngắn, chỉ đến đây là kết thúc. Để ta uống ngụm nước, ta còn phải lên đường, đến thôn khác” Thuyết thư tiên sinh tìm bình nước dưới chân, đưa lên miệng uống một ngụm, rồi nói tiếp, “Câu chuyện này, ta nghe người khác kể lại, người khác cũng nghe người khác kể lại. Không biết làm thế nào mà câu chuyện được truyền ra ngoài, nhưng tất cả chúng ta đều biết, việc này hoàn toàn là sự thật. Chỉ cần những ai nghe được câu chuyện này hãy cố gắng khắc ghi trong lòng. Được như thế, là Thượng tướng quân đã đổ máu xứng đáng. Đừng quên, chúng ta còn có Nhược Hàn thượng tướng quân. Tuy bây giờ không biết thượng tướng quân đang ở đâu, song sớm muộn gì, Nhược Hàn thượng tướng quân cũng giống như Tắc Doãn thượng tướng quân, xuất hiện để đối kháng với Hà Hiệp ”. Thuyết thư tiên sinh khó khăn chống gậy đứng dậy.
“Tiên sinh…”, có người bỗng lên tiếng gọi, “Thế sau đó Tắc Doãn thượng tướng quân thế nào?” .
Thuyết thư tiên sinh lắc đầu: “Ai mà biết được, câu chuyện này người nọ truyền người kia, ta nghe được bao nhiêu, kể bấy nhiêu”, rồi tiếp tục bước về phía trước.
Trong bóng tối, những thôn dân nhìn theo dáng hình lảo đảo của lão nhân vừa kể chuyện, ánh mắt lấp lánh ngọn lửa nhỏ.
Từ bây giờ, người Bắc Mạc đều biết Hà Hiệp không đáng sợ.
Hà Hiệp cũng có thể bị đổ máu.
Hà Hiệp cũng có thể bị thương.
Sẽ có một ngày, Hà Hiệp có thể bại trận.
“Liệu Nhược Hàn thượng tướng quân có tiếp tục cầm quân?”.
“Chúng ta sao có thể đánh lại được Hà Hiệp ? Hắn là danh tướng lừng danh khắp thiên hạ”
“Không đánh được thì thế nào.”
Trong lòng mỗi người đều cất giữ một ngọn lửa, họ lặng lẽ tản đi, chỉ còn lại hai bóng hình mảnh mai, bất động đứng nguyên chỗ cũ.
“Dương Phượng…”
“Chàng còn sống.” Dương Phượng yên lặng đứng đó hồi lâu, rồi gằn từng tiếng, “Nhất định chàng vẫn còn sống, sống để nhìn Hà Hiệp đổ máu thêm lần nữa, sống để nhìn Hà Hiệp thất bại”. Mỗi lời nàng nói ra, nước mắt lại tuôn rơi.
Sính Đình nắm lấy bàn tay lạnh toát run rẩy của Dương Phượng, không nói gì.
Nàng chẳng còn sức để an ủi, và không có cách nào an ủi. Điều này cũng bởi, Dương Phượng còn kiên cường hơn nàng, hiểu Tắc Doãn hơn nàng, và biết cách yêu hơn nàng.
Thiên hạ có hai danh tướng, một thuộc về Vân Thường, một thuộc về Đông Lâm.
Nhưng, Bắc Mạc cũng có anh hùng, có hảo hán, có những nam nhi tràn đầy nhiệt huyết, không bao giờ khuất phục.
Không chỉ mình Tắc Doãn, mà còn có rất nhiều, rất nhiều người Bắc Mạc khác.
Ngày thứ hai, tin tức truyền về, trước thôn mười lăm dặm phát hiện thấy thuyết thư tiên sinh bị kiếm chém. Nát người, cái đầu với mái tóc bạc phơ bị quân Vân Thường treo lên cây, cảnh cáo tất cả những người Bắc Mạc dám truyền đi câu chuyện có thật này.
A Hán cùng mấy nam nhân trẻ tuổi trong thôn nhân lúc đêm khuya lấy trộm đầu lão nhân đó về, lặng lẽ an táng nơi dốc núi ngoài thôn.
Không có bia mộ, chỉ là một nấm đất vàng, nhưng không ít người đến đó thắp hương cho một thuyết thư tiên sinh vô danh.
Cả Sính Đình và Dương Phượng cũng đưa theo hai hài nhi đến đó.
Đây là một vụ bội thu, quả cây trĩu nặng, dê khỏe ngựa béo.
Nhưng, dân chúng trong thiên hạ vẫn bàng hoàng bất an, kẻ không may thì gặp cảnh chết chóc, bạo ngược, áp bức, người may mắn thì gặp được nhiệt huyết anh hùng.
Sau khi thắp hương trở về, Sính Đình không hề do dự bước vào phòng, lấy Thần uy bảo kiếm trên tường xuống.
“Ta không cần muội xuống núi vì ta.” Dương Phượng ngăn Sính Đình, hai mắt đỏ hoe nhưng vô cùng kiên định, “Sính Đình, đừng vì người khác mà ép bản thân làm những điều mình không muốn”.
“Muội không vì tỷ, mà vì chính bản thân muội.” Sính Đình ôm kiếm vào lòng, chậm rãi quay lại, ánh mắt sáng lấp lánh, nói rõ từng tiếng, “Muội phải vứt bỏ những oán hận ngu ngốc, để đi tìm nam nhân thân yêu của mình, phụ thân của Trường Tiếu. Muội muốn chàng yêu thương, bảo vệ muội, để mẫu tử muội không bao giờ chịu chèn ép và sỉ nhục như thế này, không bao giờ phải chứng kiến những thảm cảnh thế này”.
Làn môi xinh khẽ nhướng lên, nở nụ cười tự tin đẹp đến lạ thường.
“Dương Phượng, cũng giống như Tắc Doãn, việc này muội làm hoàn toàn là cam tâm tình nguyện, là tâm nguyện của muội.”
Nàng nói với A Hán đã gọi đến từ trước: “A Hán, chỗ huynh vẫn còn một con ngựa, đúng không? Cho ta mượn được không?”.
“Cô nương cần ngựa làm gì?”
Sính Đình ôm bảo kiếm, cười dịu dàng: “Ta phải đi tìm một người, nam nhân có thể đánh bại Hà Hiệp. Chặng đường này có thể rất dài, vì thế ta phải mượn ngựa của huynh. Còn nữa, nhờ huynh đỡ đần Dương Phượng, chăm sóc Trường Tiếu”.
Dương Phượng nhìn theo dáng hình tha thướt của hảo hữu, cố nén nỗi đau trong lòng mà gạt nước mắt, ra vẻ ung dung tự tại: “Thời thế loạn lạc, Trấn Bắc vương đã mất tích lâu như vậy, muội một thân một mình biết đi đâu tìm người?”.
“Tỷ đừng lo”. Ánh mắt Sính Đình sáng như sao, giọng nói vô cùng êm ái, lại có phần kiên định, “Chỉ cần chàng còn sống, nhất định muội sẽ tìm thấy chàng”.
Dân chúng thành đô Vân Thường chào đón Phò mã của họ vinh quang trở về với nghi thức long trọng nhất.
Hà Hiệp cưỡi trên lưng con chiến mã to lớn, đi giữa sự chào đón ca ngợi của mọi người. Phi Chiếu Hành cầm dây cương, thúc ngựa theo sau, không dám đi ngang hàng với Hà Hiệp, mà lùi xuống nửa thân ngựa, hạ giọng hỏi: “Phò mã, sau khi vào vương thành, chúng ta có đến vương cung trước không?”
Hà Hiệp lắc đầu, giọng lạnh lùng: “Sao phải đến vương cung trước? Đông Chước đang đợi chúng ta ở phủ phò mã.”
Về đến phủ Phò mã, đúng là Đông Chước đang đợi họ bên trong. Thế lực Hà Hiệp lên như diều gặp gió, khiến vị thế của Đông Chước cũng không ngừng tăng lên, hắn gần như quản lý toàn bộ sự vụ lớn nhỏ ở thành đô.
Ba người Hà Hiệp, Đông Chước, Phi Chiếu Hành vào thư phòng. Lần hội đàm này không có mặt bất cứ vị quan Vân Thường nào, nên họ nói năng cũng không phải kiêng dè.
Hà Hiệp hỏi: “Đám quan Vân Thường đó nói thế nào?”.
“Tạm thời không có vấn đề gì, nhưng họ vẫn rất thương xót vương tộc Vân Thường.” Đông Chước luôn ở lại thành đô giám sát mọi chuyện, nên hắn nắm rõ tình hình các quan Vân Thường như lòng bàn tay.
Phi Chiếu Hành nói: “Nếu để tiểu Kính An vương lên ngôi đại vương là làm trái với pháp luật Vân Thường. Bởi dù tiểu Kính An vương có lập được bao nhiêu công trạng cũng vẫn không phải huyết thống của vương tộc Vân Thường.”
Đông Chước lên tiếng: “Ta đã thăm dò vài vị đại thần đức cao vọng trọng trong thành đô, xem thái độ, họ đều không mấy tán thành việc lập tân quốc, suy tôn tân vương”.
Vẻ mặt không vui, Hà Hiệp cười gằn: “Kẻ thức thời mới là tuấn kiệt. Mấy chục vạn đại quân đang ở trong tay ta, họ dám gây khó dễ cho ta, không lẽ lại muốn đi theo vết xe đổ của Quý Thường Thanh?”.
“Các tướng lĩnh trong quân cũng từng nhận được trọng ân của vương thất Vân Thường, e là cũng sẽ không ủng hộ cách làm của tiểu Kính An vương”, Phi Chiếu Hành an ủi, “Việc này thực ra không khó, chỉ là một vài kẻ trung thành ngu xuẩn gây rối. Đến một ngày vương thất Vân Thường biến mất, họ chẳng còn chỗ dựa, chắc chắn sẽ chạy ngay đến bên tiểu Kính An vương. Tới lúc đó, sẽ chẳng còn ai phản đối tân vương lên ngôi, quốc danh, quốc hiệu có thể đặt lại”.
Nghe ý tứ của Phi Chiếu Hành, rõ ràng là muốn ra tay với Công chúa, Đông Chước cũng không có tình cảm gì với vương thất Vân Thường, nhưng Công chúa đối với Hà Hiệp trước nay không bạc, giết Công chúa thì thật bất nghĩa, sắc mặt hắn trầm hẳn xuống, hạ giọng: “Công chúa đã bị giam lỏng trong cung, sẽ không thể uy hiếp chúng ta, hà tất phải đuổi giết đến cùng? Hơn nữa, trong bụng Công chúa đang mang cốt nhục của thiếu gia.”
Đã phải chứng kiến cảnh đấu đá tranh giành lẫn nhau trong vương triều Quy Lạc, nên hiểu rõ nội tình, hơn nữa bản thân lại là nam nhân thực tế, Phi Chiếu Hành thẳng thắn nói: “Chỉ cần có nữ nhân thì lo gì không có người nối dõi? Bây giờ tiểu Kính An vương nhìn thì vẻ vang là thế nhưng thực chất nền tảng vẫn chưa vững chắc. Xác lập danh hiệu, chính thức lên ngôi sớm ngày nào…”
“Chiếu Hành…”, Hà Hiệp vẫn đứng chắp tay sau lưng bên cửa sổ bỗng lên tiếng, “Đừng tranh luận nữa. Ngươi vừa về, nghỉ ngơi trước đi đã”
Phi Chiếu Hành hơi sững lại, rồi nhìn sang Đông Chước mặt khó đăm đăm, giọng rất biết điều: “Chiếu Hành xin cáo lui.”
Đợi Phi Chiếu Hành ra khỏi thư phòng, Hà Hiệp mệt mỏi thở dài, nói: “Đông Chước, ngươi theo ta từ nhỏ, muốn nói gì cứ nói.”
Đại quân của Hà Hiệp chinh phạt nam bắc, Đông Chước tuy ở lại thành đô nhưng đều nghe và biết mọi hành tung của đội quân Vân Thường. vốn có bao chuyện muốn đợi Hà Hiệp về để nói cho bằng hết, song lúc này Hà Hiệp hỏi đến, Đông Chước chợt thấy lòng mình khựng lại.
Đông Chước từ nhỏ lớn lên trong vương phủ Kính An, chứng kiến thiếu gia từ một nhi tử được phụ mẫu hết lòng cưng chiều thành tội thần bị truy tìm khắp nơi, tận mắt nhìn thiếu gia giày công hoạch định để trở thành Phò mã Vân Thường, rồi bị thế lực ngoan cố trong triều đình Vân Thường chèn ép đến không thể ngẩng đầu, chịu mọi ai oán, lại chứng kiến thiếu gia xoay chuyển tình thế, quét sạch thù nhà.
Bao nhiêu thăng trầm, bao nhiêu vất vả, danh tướng được muôn dân ngưỡng mộ và sợ sệt đang đứng ở đây đã phải trải qua bao lận đận, Đông Chước là người rõ hơn ai hết.
Chắc đã phải chịu quá nhiều vất vả, mọi nỗi uất ức, nên sau khi nắm quyền, tính tình Hà Hiệp ngày càng bạo ngược, thủ đoạn ngày càng tàn độc, ngay cả Đông Chước cũng thấy lạnh lòng.
Đông Chước ngẩng lên nhìn Hà Hiệp .
Thiếu gia vẫn anh tuấn kiệt xuất, vẫn khoáng đạt như thuở ban đầu, nhưng sao càng nhìn càng thấy xa cách, mơ hồ, giống như giữa hai người bị chắn bởi một lớp sương mù, ngăn thêm khoảng cách.
“Thiếu gia…” Giong Đông Chước mang vẻ cầu khẩn, “Nếu tha được thì tha. Quý gia tội đáng phải chịu, nhưng Công chúa không giống thế. Lẽ nào trong lòng thiếu gia lại thật sự không có chút tình cảm nào dành cho Công chúa?”.
Hà Hiệp đứng đó, lặng lẽ nghe những lời của Đông Chước. Vẻ bạo ngược lúc bước vào dần biến mất, ánh mắt Hà Hiệp có thêm vài phần hiền hòa rất đỗi quen thuộc.
Khoảnh khắc đó, dường như Hà Hiệp lại quay về là vị thiếu gia phong lưu đa tình trong phủ Kính An.
“Liên quan đến chính sự và quyền lực, liệu còn chỗ nào cho tình nghĩa dung thân?” Bên cạnh chỉ có mỗi mình Đông Chước, danh tướng Hà Hiệp bất bại, Phò mã đắc chí bỗng nở nụ cười chua chát thoáng chút bất lực, “Đông Chước, ngươi theo ta mười mấy năm, trước đây ta có là một người vô tình vô nghĩa thế này không?”
Dưới một người và trên vạn người chỉ là một ảo ảnh xúc động lòng người.
Vương phủ Kính An nắm giữ quân quyền, gia thế hiển hách, nhưng chỉ một vương lệnh của Quy Lạc vương, trong phút chốc cả vương phủ đã hoàn toàn sụp đổ, người chết nhà tan.
Phò mã thì sao? Diệu Thiên là nữ tử yếu mềm không hiểu việc binh, có thể chẳng để ý đến những nỗ lực mà Hà Hiệp đã phải lao tâm khổ tứ, mà dễ dàng ngăn chặn đại chiến giữa Đông Lâm và Vân Thường tửng chừng như sẽ xảy ra trong thoáng chốc.
Còn Hà Hiệp đã mãi mãi mất đi nụ cười và tiếng đàn của Sính Đình. Khi trở về, hắn chỉ còn lại phòng không lầu trống, lá rụng đầy sân,
Bài học kinh nghiệm đã quá nhiều…
Hà Hiệp nhắm chặt hai mắt, giấu đi sự mệt mỏi và bất lực.
/67
|