Tác giả: Thịnh Nhan
Người dịch: Michelle Yip
Triệu Phù Phong cáo biệt Liệt Áo, cất bước lên đường. Lão ưng mỏi cảnh trải bao phen nắng mưa, khi rời Giang Nam y vẫn là một thiếu niên mười chín tuổi, khi trở về đã không còn nhớ tuổi tác.
Khoảnh khắc tiến vào thành Lâm An, chuyện xưa chợt ùa về, làm Triệu Phù Phong mê muội. Gió xuân mang theo không khí ẩm ướt của Tây Hồ, quấn quýt da thịt, y xuyên qua Kim Môn, vào đến khu vực phú quý phong lưu nhất hồng trần. Dọc đường đi, y chỉ mong mau chóng đến nơi, trao ‘để dã già’ đến tận tay nàng, khi thực sự đến rồi, bỗng nảy sinh một chút cảm giác e sợ, không biết làm thế nào con người của hai mươi năm sau đối mặt với tình cảm hai mươi năm trước.
Triệu Phù Phong bước vào ngõ hẹp Liên gia, hàng trúc chạy dọc hai bên tiểu lâu, bụi này nối bụi kia, vươn thân rậm rạp từ đầu đến cúi ngõ. Thiếu nữ quấn mũ xanh xách theo một cái làn trúc, nhẹ nhàng bước ngang qua y, lưu lại hương thược dược, tiếng rao bán hoa dịu dàng ngân lên xa dần. Mùi vị hấp dẫn tỏa ra từ hiệu bánh nướng, mấy đứa trẻ bô ba đứng đợi ngoài cửa, bị mẫu thân giục đi.
Vẫn là một ngõ hẹp không bắt mắt, ẩn sâu giữa thành Lâm An phồn hoa. Thuở niên thiếu, mỗi ngày dù người không đến, trong mộng cũng ghé vào vài lần, Triệu Phù Phong quen thuộc với nó như chỉ tay trong lòng bàn tay, nhưng không hiểu vì sao, hiện tại y nảy sinh cảm giác lạ lẫm. Đi đến giữa ngõ, bước chân y chậm lại, phát hiện mấu chốt: ngõ hẹp có lịch sử trăm năm, bây giờ xem ra mới tinh, một vài nhà không nói, mà hộ hộ đều như thế, thực rất kì quặc.
Triệu Phù Phong cố nén cảm giác khác lạ, bước nhanh đến cuối ngõ, hiện ra trước mắt là một mảnh đất hoang dường như đã bị lửa lớn quét qua. Y đảo một vòng trong đống tàn tích, dấu vết ngày xưa chẳng lưu lại một chút gì. Trời xanh sáng tỏ, tất thảy chung quanh đều hóa thành ảo ảnh, Triệu Phù Phong vươn tay gọi khẽ:
“Khoái Tuyết.”
Y chỉ nắm vào hư không, tiếng tiêu văng vẳng bên tại đột nhiên biến mất.
Triệu Phù Phong chỉ nghe Giang Khoái Tuyết thổi tiêu đúng một lần, vào ngày xuân, khi Liên gia bị tận diệt không lâu. Giai điệu hoa lệ tự tại, biểu hiện thiếu nữ kiêu ngạo ấy có tấm lòng quảng đại. Nàng chưa tấu hết khúc, lệ đã ướt đẫm thân tiêu.
Y ôm nàng vào lòng, đợi cho dược lực hộ tâm đang phát tán. Tịch dương trên đỉnh núi chiếu rọi tia sáng huy hoàng cuối cùng trong ngày, y vẫn ôm lấy nàng, mãi đến khi cái lạnh từ rừng sâu phủ lấy hai người, trăng non trên đỉnh đầu tựa hồ mỉm cười. Cái ôm bình yên như thế, có cả ngọt ngào lẫn bi thương, dường như chỉ một lần trong suốt cuộc đời, mà nàng vĩnh viễn không biết. Nàng đã hôn mê rất lâu, y chờ đến độ cổ họng bỏng rát, âm thầm phát thệ: Nếu nàng có thể tỉnh lại, ắt ta sẽ tận lực tìm kiếm để dã già, giải trừ độc hàn nha giam cầm nàng.
Triệu Phù Phong đứng giữa vùng đất hoang, một lần nữa nhớ lại tình cảnh hôm đó, cách lớp y phục là một thiếu nữ mềm mại, không có hơi ấm, hương thơm thoang thoảng thuần khiết, tựa đóa sen mới nở. Thời khắc đó, nếu có thể dùng trái tim mạnh mẽ của y đổi cho nàng, y không hề tiếc. Y đứng rất lâu mới từng bước từng bước rời khỏi, hướng đến khu vực dân cư lân cận dò hỏi.
Bên cạnh Liên phủ có một tửu quán nhỏ, hiện tại đã biến thành một hàng trà. Ngày xuân ấm áp, khiến con người cảm giác buồn ngủ, trên nét mặt chưởng quỹ và khách uống trà đều biểu lộ vẻ ủ rũ, Triệu Phù Phong đến khiến xuân vị vây khốn căn phòng bỗng hóa thành vô hình. Nam tử hào sảng, nhìn không ra niên kỉ, vỏ đao và đao đeo bên hông y đã tả tơi mà vẫn tỏa sáng. Chưởng quỹ Nhị Phúc bước tới hỏi:
“Khách quan cần gì ạ?”
“Tùy tiện.”, Triệu Phù Phong nói, “Tử Quy Cư kế bên … vì sao phát lửa? Chuyện về sau thế nào?”
Y hỏi quá đột ngột, Nhị Phúc trơ ra một hồi mới phản ứng:
“A, để tôi nghĩ, cũng mười một năm rồi,”
Hắn gập ngón tay đếm, nói tiếp:
“Là chuyện xảy ra vào Gia Thái Nguyên niên. Lửa do ngự sử đài Bảo Liên Sơn khơi lên, lửa bị gió thổi, thiêu đốt hơn mười dặm, bầu trời đỏ rực, hơn năm vạn hộ dân bị thiêu thành bình địa. Tôi sống trên thuyền hết một năm, đến khi nhà cửa được tu bổ lại mới dọn về.”
Triệu Phù Phong đứng bật dậy, lại từ từ ngồi xuống:
“Chưởng quỹ biết người của Liên gia thế nào rồi không? Tại sao không trở về?”
Nhị Phúc xoa tay, hạ thấp giọng:
“Hai mươi năm trước, Liên gia xảy ra thảm họa, mười mấy nhân khẩu chỉ trong đêm chết không còn một ai, ở cửa nhà tôi vẫn nghe được mùi máu tanh. Về sau tiểu thư Liên gia được gả cho người, tòa nhà bỏ hoang từ đó. Tai họa hỏa hoạn qua đi, cũng không ai dám xây nhà trên mảnh đất dữ, bỏ không tới giờ.
Triệu Phù Phong chần chừ hỏi:
“Ngươi nói gì? Tiểu thư Liên gia đã gả đi sao?”
“Phải rồi, gả cho chủ nhân Kiếm Hoa Đường.”
Triệu Phù Phong vừa vào Kim quốc đã nghe nói về danh tiếng Kiếm Hoa Đường, lãnh tụ Giang Nam bạch đạo, so với võ lâm phương bắc quần long vô thủ, rất có sức ảnh hưởng. Y nghĩ: Phương Giai mộc là người đạm bạc như thế, sáng tạo cơ nghiệp tất nhiên là … y buồn bả thốt:
“Từ Huy Dạ.”
Nhị Phúc gật đầu:
“Chính là Từ gia.”
Triệu Phù Phong đặt một mẩu bạc vụn lên bàn, đi thẳng ra cửa. Nhị Phúc buồn bực, không ăn uống thì trả tiền gì chứ, bèn đuổi theo gọi:
“Khách quan này …”
Triệu Phù Phong quay đầu nhìn hắn:
“Chưởng quỹ này, đa tạ.”
Nhị Phúc ngẩn ngơ nhìn y bỏ đi xa, đột nhiên nhớ đến hai mươi năm trước, trong đêm Liên gia phát sinh biến cố, có một thiếu niên cũng quay đầu nhìn hắn như thế, còn nói:
“Chưởng quỹ, ban đêm đừng buôn bán, đóng cửa sớm một chút.”
Ánh mắt trong suốt đó, hắn không thể nhớ nhầm.
Trong Dung Hòa phường, Kiếm Hoa Đường nằm dưới chân Quá Phế Lĩnh, vốn là nơi những người trẻ tuổi mê võ công gặp gỡ nhau, chỉ bốn năm gian nhà cỏ thôi, bây giờ đã là một đại phái nguy nga. Kiến trúc dựa núi trông rất khí thế, tường trát ngói đen, thạch sư giương nanh, đứng trước đại môn đỏ sẫm là hai kiếm sĩ thanh y.
Triệu Phù Phong sải bước lên bậc tam cấp, một gã kiếm sĩ giơ tay ngăn cản:
“Muốn làm gì?”
“Ta muốn gặp …”, Triệu Phù Phong nén lại hai chữ “Khoái Tuyết”, sửa miệng đổi thành, “đường chủ phu nhân của các ngươi.”
“Gặp đường chủ phu nhân hả?”, kiếm sĩ ngạc nhiên, nghi ngờ, nhìn dò xét bộ dạng rách rưới của Triệu Phù Phong.
Tiếng vó sắc sảo, có người phóng ngựa lên thềm, Triệu Phù Phong hơi nghiêng người, hai bóng dáng một đen một trắng lước qua tầm mắt, người ngồi đầu cầm roi san hô múa như lưu tinh, ngựa phi nhanh kinh nhân. Ngựa vượt qua ngưỡng cửa thì dừng lại, người trên ngựa quay đầu hỏi:
“Ai muốn gặp phu nhân?”
Thì ra là một thanh niên hai mươi bảy, hai mươi tám tuổi, thân mặc hắc ý, thanh tú sáng sủa.
“Nhờ báo với phu nhân các vị, cố nhân Triệu Phù Phong đến thăm.”
Thiếu niên đứng sau đang tháo cương ngựa, kinh ngạc thốt:
“Ôi, ngươi tên Triệu Phù Phong à?”
Thiếu niên mặc trường sam trắng, đai lưng tê giác, búi tóc bằng ngọc, phong tư tuấn tú, mi mắt rất giống Từ Huy Dạ.
“A!”, hắc y thanh niên phấn khởi nhảy xuống ngựa, phóng qua kéo tay Triệu Phù Phong, “Phù Phong ca, huynh về thật rồi, đệ nhận không ra huynh! Ôi, huynh không nhớ đệ sao? Đệ là Thanh Nguyễn.”
Triệu Phù Phong bị Liên Thanh Nguyễn lôi kéo, băng qua trùng trùng sân viện. Thiếu niên nọ theo ngay phía sau, không ngừng nhìn dò xét Triệu Phù Phong, ánh mắt trong sáng, tuyệt không khiến người chán ghét. Thân thể Triệu Phù Phong vừa nóng vừa lạnh, nghĩ: Nàng có con lớn thế này rồi sao! Lẽ nào độc hàn nha đã được giải? Lẽ nào đi vạn dặm đường tìm giải dược cho nàng, kì thực chỉ là uổng phí?
Đến hậu đình dưới lầu chính, Liên Thanh Nguyễn reo lên:
“A tỉ, a tỉ, tỉ xem là ai đây?”
Rèm châu trên lầu được vén nhẹ, một nữ tử hơn ba mươi tuổi bước ra, nắm lan can hướng xuống cười nói:
“Cái tên Thanh Nguyễn hấp tấp này …”
Nàng nói giữa chừng đột nhiên ngừng lại, nắm tay trên lan can siết đến nổi gân xanh, từ trên lầu nhảy xuống. Xiêm váy lộng lẫy tung hoành trong gió xuân, tựa một ngọn hoa đăng đang nở rộ.
Triệu Phù Phong thốt lên tiếng gọi “Tú Nhân”, nét mặt rạng rỡ, ngước nhìn rèm châu trên lầu đang lay động, hỏi:
“Khoái Tuyết đâu? Khoái Tuyết đang ở trong đó sao?”
Không nghe trả lời, y quay đầu thấy Tú Nhân đang trừng trừng nhìn mình, ánh mắt mông lung. Triệu Phù Phong nhịn không được, nôn nóng hỏi:
“Khoái Tuyết không chịu gặp ta sao?”
“Ngươi không gặp được tiểu thư đâu.”, Liên Tú Nhân gắt gao đáp, “Thể trạng tiểu thư, ngươi cũng không phải không biết, lại nhẫn tâm vứt bỏ nàng ở lại, đi tìm thứ gì đó. Ngươi vừa đi không lâu, tiểu thư đã bệnh triền miên, không xuống giường nổi, kéo dài cả mùa thu … Ta còn nhớ hôm đó là ngày mười hai tháng chín, tiểu thư vừa ăn chén cháo, tinh thần cũng tốt lên, sai ta chuyển trường kỉ ra vườn, tiểu thư muốn hít thở khí trời.”
Liên Tú Nhân nghẹn ngào:
“Lúc đó tiểu thư đã gầy trơ xương, được cả sân hoa cúc bao phủ, trông càng đáng thương. Tiểu thư nằm rất lâu, ta tưởng rằng nàng đang ngủ, muốn đưa nàng về phòng. Nàng đột nhiên mở mắt nhìn ta nói, Tú Nhân, tận tâm tận lực trông đợi một người, ta cảm giác mình thật trống rỗng. Nếu lúc đầu ta khẩn cầu y ở lại, y sẽ đáp ứng lời ta chứ?”
Đôi mắt Liên Tú Nhân đã ngấn lệ, thiếu niên bên cạnh lúng túng tay chân, dùng tay áo lau nước mắt cho nàng, nhẹ nhàng an ủi:
“Mẫu thân, đừng khóc mà.”
Khóe miệng Liên Tú Nhân khẽ nhếch lên, muốn cười mà không cười nổi, tiếp tục nói:
“Tiểu thư kiêu ngạo như thế, lại chịu nói ra những lời đó. Ngươi nghĩ xem nàng khổ sở đến độ nào. Nói xong, nàng không mở miệng nữa. Nửa đêm hôm ấy, ta mang chăn đến cho tiểu thư, phát hiện toàn thân nàng lạnh thấu tâm cốt. Ta dùng mọi biện pháp vẫn không thuyên giảm.”
Nàng hung hăn trừng mắt với Triệu Phù Phong:
“Ngươi, ngươi không gặp được nữa rồi.”
Bi ai tựa sóng lớn cuồn cuộn tận đáy lòng Triệu Phù Phong, dâng lên lồng ngực. Cả nửa ngày y không nói được lời nào, cuối cùng chỉ thốt được một câu:
“Đa tạ nàng chiếu cố nàng ấy, chăm sóc nàng ấy.”
“Phụng sự tiểu thư vốn là bổn phận của ta.”, Liên Tú Nhân dừng một chút, “Mộ tiểu thư nằm ở Bảo Thạch Sơn, ngươi tự đến báo với nàng đi, người nàng đợi đã về rồi.”
Triệu Phù Phong trầm mặc rất lâu, lên tiếng:
“Ta đến gặp nàng.”
Vừa cất bước, y mới cảm giác xương cốt tứ chi đều đau nhói, thân thể loạng choạng, không quay đầu mà đi thẳng.
Liên Tú Nhân gọi theo:
“Sớm biết hôm nay, ban đầu hà tất …”
Từ Cẩm Chi nắm tay mẫu thân an ủi, rồi cùng Liên Thanh Nguyễn đuổi theo. Triệu Phù Phong không đợi họ, càng đi càng nhanh, sau cùng đã chạy như điên loạn. Từ Cẩm Chi chưa từng thấy khinh công như vậy, người như mũi tên bắn giữa không trung, xuyên qua những dãy ngói đen, chớp mắt đã chẳng thấy người đâu.
Liên Thanh Nguyễn đứng ở Quán Phế Lĩnh, trông lại đô thành rộng lớn, chỉ thấy tình cảnh nó có thâm sâu bi lụy đến dường nào, cũng không thể rung chuyển đất trời, nhất thời tâm trạng buồn bả.
Triệu Phù Phong tìm đến mộ phần Liên thị trên Bảo Thạch Sơn. Bóng tùng chậm rãi phủ lên tấm bia, chỉ còn tia nắng chiều rọi nghiêng nghiêng bên mộ bia. Y tìm kiếm trong rừng mộ bia, tìm được một phiến đá trắng, mấy chữ “Giang Khoái Tuyết” đập vào mắt. Y quỳ phục xuống ôm lấy mộ bia của nàng, ôm mãi đến khi thân thể ướt đẫm mồ hôi, bắt đầu cảm nhận được phiến đá lạnh lẽo. Trăng quạnh quẻ, rải ánh sáng trên mặt đất.
Triệu Phù Phong nằm trước mộ bia, không tỏ ra mệt mỏi chút nào. Gió đêm phần phật, bóng cây lay động trong gió, giống như có người đi qua, y rất hy vọng là nàng từ mộ bước ra. Mặt trời mấy bận mọc rồi lặn, y đã quên đi thời gian, thủ bên mộ nàng, tim như bị sương mù vây lấp giữa chiến trận, trong mênh mông ẩn ước âm thanh sát phạt.
Thời gian càng xa, dung nhan của nàng dần dần trở nên mơ hồ, suy nghĩ của y cũng không còn dầy đặc. Y mang ‘để dã già’ quay về, nàng đã qua đời, tựa hồ đang ở trong ngôi nhà quen thuộc, một bước hụt chân đã rơi xuống vực thẳm. Y bỗng dưng phát hiện, thì ra tình cảm mà dứt bỏ, nhân gian chẳng còn chỗ an thân.
Giữa trưa ngày thứ ba, ngoài rừng đột nhiên vọng tới tiếng bước chân gấp rút. Liên Thanh Nguyễn chạy đến đầu tiên, theo sau là một nam tử trung niên vóc người cao gầy. Nhìn thấy Triệu Phù Phong trước mộ Giang Khoái Tuyết, Liên Thanh Nguyễn mừng rỡ:
“Phương đại ca, huynh đoán không sai, hai ngày rồi vẫn ở đây.”
Triệu Phù Phong không còn là thiếu niên sáng láng thuở đầu. Phương Giai Mộc vẫn nhìn qua là nhận ra ngay. Y nắm cổ áo Triệu Phù Phong, một chưởng tát thẳng mặt y, quát:
“A Phong, người đã chết rồi, ngươi làm ra bộ dạng này để ai xem đây?”
Triệu Phù Phong lắc đầu, nhìn rõ người trước mặt, hoảng hốt hỏi:
“Huynh bảo ai chết?”
Y trừng mắt với Phương Giai Mộc, hai người đối diện rất lâu. Triệu Phù Phong trông thấy hình ảnh mình dần dần hiện ra trong đồng tử Phương Giai Mộc, trái tim đột nhiên đau thắt, thống khổ như bị đao cứa vào. Triệu Phù Phong rủ đầu, thốt:
“Huynh nói không sai, nàng … đã chết rồi, bất luận ta ở cạnh nàng bao lâu, đều không vãn hồi được.”
Y không để ý đến Phương Giai Mộc nữa, từng bước từng bước rời khu rừng. Hai ngày không ăn uống, bước chân Triệu Phù Phong nhẹ hẫng, bước đi không hề quay đầu.
Phương Giai Mộc muốn đuổi theo, chợt nghe Liên Thanh Nguyễn hỏi:
“Phương đại ca, huynh xem đây là ý gì?”
Hắn quay đầu nhìn mộ bia Giang Khoái Tuyết, có mấy chữ mới được khắc vào, chỉ lực sâu đến ba phân, mỗi nét rướm máu, thực sự trông thấy mà kinh ngạc, đọc lên từng chữ:
“Bi kết sinh tật, một mệnh hoàng lư.
Mệnh chi bất tạo, oan như chi hà!
Vũ tộc chi trường, danh vi phượng hoàng.
Nhất nhật thất hùng, tam niên cảm thương.
Tuy hữu chúng điểu, bất vi thất song.
Cố kiến bỉ tư, phùng quân huy quang.
Thân viễn tâm cận, hà đương tạm vong.”
Phương Giai Mộc dụi mắt, trầm giọng giải thích:
“Đây là bài Tiểu nữ nhi Tử Ngọc xướng của Ngô Vương Phù Sai. Ngày xưa Tử Ngọc ái mộ Hàn Trọng, Ngô Vương không ưng thuận, Tử Ngọc uất ức mà chết. Hàn Trọng đến mộ Tử Ngọc viếng, hồn Tử Ngọc xướng lên khúc ca này, còn mời Hàn Trọng vào mộ ba ngày ba đêm, thành lễ phu phụ.”
Liên Thanh Nguyễn hít hơi sâu:
“Đệ biết ý tứ của Phù Phong ca, y hi vọng tiểu thư giống Tử Ngọc, mời y vào mộ.”
Phương Giai Mộc chua xót trong lòng, lắc đầu:
“Hồ đồ.”
Hai người đuổi theo Triệu Phù Phong, thấy y thần thái như gỗ, mơ hồ chẳng biết đi đông tây nam bắc. Phương Giai Mộc nâng đỡ y:
“Thanh Nguyễn, chúng ta đưa hắn về.”
Thế là hai người không nói năng, đưa y về một tòa tiểu viện bên Tây Hồ. Cuối cùng Triệu Phù Phong đã động dung, nhìn chằm chằm những ròng rọc và đá mài trong viện, khẽ thốt:
“Kiếm Hoa Xã.”
Phương Giai Mộc vỗ vai y, cao hứng nói:
“Ngươi còn nhớ câu chuyện kết xã của chúng ta à, ta chuyển sang nguyên dạng đó.”
Vài gian nhà cỏ đơn sơ, gió lùa mang theo không khí thanh mát của khu rừng, tiếng én rì rầm, kiếm treo trên vách cũng đóng bụi dầy. Phương Giai Mộc múc một chén cháo, đưa cho Triệu Phù Phong, nói:
“Huy Dạ thích náo nhiệt, ta thích đạm bạc. Nếu y có Kiếm Hoa Đường, ta có Kiếm Hoa Xã, để những lão bằng hữu có nơi dừng chân. Tháng trước họ giống trống khua chiêng đến Quế Lâm, may ta không đi, bằng không đã bỏ qua ngươi rồi. Khà, ta trông râu ria ngươi thật không thuận mắt.”
Y tìm một con dao nhỏ, múa vài đường đã cắt gọn bộ râu của Triệu Phù Phong, để lộ gương mặt xanh xao tiều tụy.
Liên Thanh Nguyễn đứng bên cạnh, xem thấy hứng thú, cười nói:
“Phương đại ca, huynh dùng thủ pháp Tích Hoa kiếm cạo râu, thực là sắt bén dứt khoát, chẳng lưu dấu vết.”
Phương Giai Mộc cũng cười theo:
“Vậy à? A Nguyễn ngươi nhàn rỗi quá, đi đi, xuống bếp mang nước nóng lên, xú nhân này cũng nên tắm rửa rồi.”
Hai người chân tay bận rộn, quyết tẩy rửa Triệu Phù Phong đến độ tinh tươm sạch sẽ.
Triệu Phù Phong để mặt bọn họ an bài, đến khi cả hai hứng trí muốn tắm dùm y, mới chịu lên tiếng:
“Mộc đầu, Thanh Nguyễn, hai bà cô các người muốn làm gì đây?”
Phương Giai Mộc dừng lại, cười:
“Đúng rồi, đây mới là A Phong ta quen chứ, trời sập lấy làm mền.”
Nói rồi y kéo Liên Thanh Nguyễn đi ra ngoài, thì thầm:
“Cái bộ dạng thất hồn lạc phách kia, con mẹ nó, ta thực nhìn không quen mắt.”
Trong làn hơi nước mù mịt, mắt Triệu Phù Phong ướt đẫm. Y đưa tay xoa mặt, không phân biệt rõ là nước hay nước mắt. Nghĩ người yêu thương hết dạ đã biến thành khô cốt, không còn khả năng cười nói cùng nàng, cuộc đời hoang liêu sau này phải an bài thế nào, nước mắt y cuối cùng đã rơi.
Nghe xoạt một tiếng, nóc nhà bị thủng một lỗ to, bốn kẻ che mặt xông vào. Ba thanh đao bao vây Triệu Phù Phong trong bồn nước, phong kín mọi góc độ phản kích của y, kẻ còn lại lật qua giở lại đống y phục vừa cởi ra của Triệu Phù Phong, tìm thấy một bình nhỏ bằng men xanh, mở ra xem thử, hai mắt sáng rực. Cất tràng cười lớn, hắn phóng người lên định rút lui.
Không lỡ thời cơ, Triệu Phù Phong vươn tay chộp lấy cổ tay phải một tên. Động tác y không hoa mỹ, bình thản như nâng chung uống trà. Kẻ đó hoa mắt, cổ tay đau không chịu thấu, đao trong tay đã trượt qua tay Triệu Phù Phong. Đao vừa đổi chủ, bốn kẻ bịt mặt đều rùng mình, cảm giác đao khí sát nhân cuồn cuộn dâng lên, tựa bão tuyết mùa đông, đâm thẳng tròng mắt, chấn vỡ phế phủ.
Thân hình Triệu Phù Phong bốc lên như cơn lốc, cương đao chém trúng hông kẻ thứ nhất, lướt qua ngực kẻ thứ hai, cắt vào cổ kẻ thứ ba, đao thế liên tục không ngừng. Trung tâm cơn lốc, đao quang lóa mắt, lăng lệ vô bì, xuyên qua nóc nhà công kích mạn sườn kẻ thứ tư. Bình thuốc liền rơi xuống, Triệu Phù Phong nhẹ nhàng đón lấy, nắm trong lòng bàn tay.
Bốn kẻ bịt mặt không kịp phản ứng, đã la liệt dưới đất, kinh hãi nhìn nam tử trước mặt. Dương quang phủ trên da thịt thô ráp của y, trên những giọt nước trong suốt, tỏa sáng lấp lánh, cơ thể gầy gò mà sức lực không ngờ. Bi thương và tuyệt vọng khiến Triệu Phù Phong quên mất giới điều của Thần Đao Môn. Quỹ đạo cong kinh ngạc, phóng túng sức mạnh, một đao hơn người này của y đã đạt đến cực hạn. Đao tầm thường trong tay y cũng trở thành thần khí.
Một tên bị thương nhẹ, lấy lại tinh thần, phóng mình qua cửa sổ tẩu thoát, bị Liên Thanh Nguyễn bắt lại. Hắn ẩn nấp ở song cửa, kinh ngạc tán thưởng:
“Phương đại ca nói một mình huynh lo liệu được, ban đầu đệ còn không tin.”
Phương Giai Mộc cười nói:
“Ta biết ngươi không cần bọn ta viện trợ, nhưng không ngờ ngươi tiến bộ bất ngờ như thế.”
Triệu Phù Phong lắc đầu đáp:
“Vừa rồi xuất thủ, sức mạnh đó không nằm trong khống chế của ta, như vầy thật không hay.”
Y cúi xuống, nhấc một tấm khăn bịt mặt lên, gương mặt hoàn toàn xa lạ. Y hỏi:
“Các ngươi làm sao biết ta mang theo để dã già? Tại sao các ngươi muốn cướp nó?”
Kẻ đó cười lạnh:
“Môn hạ Thần Đao Môn, quả nhiên không giết người, đáng tiếc giữ bọn ta cũng chẳng hỏi được gì.”
Gã rạch tay lên vết thương ở cổ, máu tuôn như suối, tức thì tuyệt khí. Ba kẻ còn lại đều cầm đao, cùng lúc tự vẫn. Triệu Phù Phong nghẹn thắt lồng ngực, không ngờ thế gian có kẻ xem nhẹ sinh mạng đến vậy, quyết tìm đường chết.
Phương Giai Mộc kiểm tra toàn thân chúng, thở dài:
“Chẳng để lại dấu hiệu gì, phần lớn chính là bang phái hắc đạo.”
Liên Thanh Nguyễn nói:
“Để dã già là thánh dược giải độc, có thể giải được kì độc như hàn nha, lưu tô, có người thèm muốn cũng không lạ. Kì lạ là, chuyện năm xưa Phù Phong ca lên đường tìm thuốc chỉ có mấy người biết, vừa mới về chưa đến ba ngày, làm sao có kẻ bô bô mò đến cửa rồi?”
Phương Giai Mộc nhận xét:
“Cái này khó nói, trên giang hồ có rất nhiều cặp mắt dòm ngó Kiếm Hoa Đường các ngươi, bất kể chuyện lớn chuyện nhỏ, qua một ngày đã truyền đi khá xa. Cả ta vốn không màng thế sự, hôm qua cũng ngồi trong tiệm trà nghe được có người đến Kiếm Hoa Đường, được Cẩm Chi thiếu gia và công tử Thanh Nguyễn ngươi đích thân nghênh đón, dẫn vào trong nhà. Còn có lời đồn buồn cười hơn, bảo A Phong là tình nhân cũ của đường chủ phu nhân. Huy Dạ và Tú Nhân vợ chồng tình thâm, không ngờ cũng truyền ra lời đồn nhảm nhí.”
Y nói câu này, vốn đã điều tiết khẩu khí, sợ Triệu Phù Phong đang tâm sự trùng trùng, khổ sở nhịn cười, so với gương mặt khi mếu còn khó coi hơi. Liên Thanh Nguyễn cười lạnh:
“Chưa chắc đã vậy. A tỉ gần đây nghi ngờ đường chủ có ngoại thất, nhưng không tiện nói, dặn dò đệ lưu ý. Phương đại ca, đệ biết đường chủ và huynh là sinh tử chi giao, huynh không cần thanh minh cho y, đệ đã nghi ngờ rồi.”
Phương Giai Mộc kiên trì đáp:
“Ta biết Huy Dạ, hắn nhất định không phải hạng người đó.”
Đêm đó ba người kê ghế nằm ngủ, không trò chuyện nhiều. Nóc nhà bị thủng, nhìn thấu bầu trời cao vợi, sao đêm nơi thôn dã thật sáng. Nếu không phải có người chết, đây chính là buổi trùng phùng hoan hỉ.
Người dịch: Michelle Yip
Triệu Phù Phong cáo biệt Liệt Áo, cất bước lên đường. Lão ưng mỏi cảnh trải bao phen nắng mưa, khi rời Giang Nam y vẫn là một thiếu niên mười chín tuổi, khi trở về đã không còn nhớ tuổi tác.
Khoảnh khắc tiến vào thành Lâm An, chuyện xưa chợt ùa về, làm Triệu Phù Phong mê muội. Gió xuân mang theo không khí ẩm ướt của Tây Hồ, quấn quýt da thịt, y xuyên qua Kim Môn, vào đến khu vực phú quý phong lưu nhất hồng trần. Dọc đường đi, y chỉ mong mau chóng đến nơi, trao ‘để dã già’ đến tận tay nàng, khi thực sự đến rồi, bỗng nảy sinh một chút cảm giác e sợ, không biết làm thế nào con người của hai mươi năm sau đối mặt với tình cảm hai mươi năm trước.
Triệu Phù Phong bước vào ngõ hẹp Liên gia, hàng trúc chạy dọc hai bên tiểu lâu, bụi này nối bụi kia, vươn thân rậm rạp từ đầu đến cúi ngõ. Thiếu nữ quấn mũ xanh xách theo một cái làn trúc, nhẹ nhàng bước ngang qua y, lưu lại hương thược dược, tiếng rao bán hoa dịu dàng ngân lên xa dần. Mùi vị hấp dẫn tỏa ra từ hiệu bánh nướng, mấy đứa trẻ bô ba đứng đợi ngoài cửa, bị mẫu thân giục đi.
Vẫn là một ngõ hẹp không bắt mắt, ẩn sâu giữa thành Lâm An phồn hoa. Thuở niên thiếu, mỗi ngày dù người không đến, trong mộng cũng ghé vào vài lần, Triệu Phù Phong quen thuộc với nó như chỉ tay trong lòng bàn tay, nhưng không hiểu vì sao, hiện tại y nảy sinh cảm giác lạ lẫm. Đi đến giữa ngõ, bước chân y chậm lại, phát hiện mấu chốt: ngõ hẹp có lịch sử trăm năm, bây giờ xem ra mới tinh, một vài nhà không nói, mà hộ hộ đều như thế, thực rất kì quặc.
Triệu Phù Phong cố nén cảm giác khác lạ, bước nhanh đến cuối ngõ, hiện ra trước mắt là một mảnh đất hoang dường như đã bị lửa lớn quét qua. Y đảo một vòng trong đống tàn tích, dấu vết ngày xưa chẳng lưu lại một chút gì. Trời xanh sáng tỏ, tất thảy chung quanh đều hóa thành ảo ảnh, Triệu Phù Phong vươn tay gọi khẽ:
“Khoái Tuyết.”
Y chỉ nắm vào hư không, tiếng tiêu văng vẳng bên tại đột nhiên biến mất.
Triệu Phù Phong chỉ nghe Giang Khoái Tuyết thổi tiêu đúng một lần, vào ngày xuân, khi Liên gia bị tận diệt không lâu. Giai điệu hoa lệ tự tại, biểu hiện thiếu nữ kiêu ngạo ấy có tấm lòng quảng đại. Nàng chưa tấu hết khúc, lệ đã ướt đẫm thân tiêu.
Y ôm nàng vào lòng, đợi cho dược lực hộ tâm đang phát tán. Tịch dương trên đỉnh núi chiếu rọi tia sáng huy hoàng cuối cùng trong ngày, y vẫn ôm lấy nàng, mãi đến khi cái lạnh từ rừng sâu phủ lấy hai người, trăng non trên đỉnh đầu tựa hồ mỉm cười. Cái ôm bình yên như thế, có cả ngọt ngào lẫn bi thương, dường như chỉ một lần trong suốt cuộc đời, mà nàng vĩnh viễn không biết. Nàng đã hôn mê rất lâu, y chờ đến độ cổ họng bỏng rát, âm thầm phát thệ: Nếu nàng có thể tỉnh lại, ắt ta sẽ tận lực tìm kiếm để dã già, giải trừ độc hàn nha giam cầm nàng.
Triệu Phù Phong đứng giữa vùng đất hoang, một lần nữa nhớ lại tình cảnh hôm đó, cách lớp y phục là một thiếu nữ mềm mại, không có hơi ấm, hương thơm thoang thoảng thuần khiết, tựa đóa sen mới nở. Thời khắc đó, nếu có thể dùng trái tim mạnh mẽ của y đổi cho nàng, y không hề tiếc. Y đứng rất lâu mới từng bước từng bước rời khỏi, hướng đến khu vực dân cư lân cận dò hỏi.
Bên cạnh Liên phủ có một tửu quán nhỏ, hiện tại đã biến thành một hàng trà. Ngày xuân ấm áp, khiến con người cảm giác buồn ngủ, trên nét mặt chưởng quỹ và khách uống trà đều biểu lộ vẻ ủ rũ, Triệu Phù Phong đến khiến xuân vị vây khốn căn phòng bỗng hóa thành vô hình. Nam tử hào sảng, nhìn không ra niên kỉ, vỏ đao và đao đeo bên hông y đã tả tơi mà vẫn tỏa sáng. Chưởng quỹ Nhị Phúc bước tới hỏi:
“Khách quan cần gì ạ?”
“Tùy tiện.”, Triệu Phù Phong nói, “Tử Quy Cư kế bên … vì sao phát lửa? Chuyện về sau thế nào?”
Y hỏi quá đột ngột, Nhị Phúc trơ ra một hồi mới phản ứng:
“A, để tôi nghĩ, cũng mười một năm rồi,”
Hắn gập ngón tay đếm, nói tiếp:
“Là chuyện xảy ra vào Gia Thái Nguyên niên. Lửa do ngự sử đài Bảo Liên Sơn khơi lên, lửa bị gió thổi, thiêu đốt hơn mười dặm, bầu trời đỏ rực, hơn năm vạn hộ dân bị thiêu thành bình địa. Tôi sống trên thuyền hết một năm, đến khi nhà cửa được tu bổ lại mới dọn về.”
Triệu Phù Phong đứng bật dậy, lại từ từ ngồi xuống:
“Chưởng quỹ biết người của Liên gia thế nào rồi không? Tại sao không trở về?”
Nhị Phúc xoa tay, hạ thấp giọng:
“Hai mươi năm trước, Liên gia xảy ra thảm họa, mười mấy nhân khẩu chỉ trong đêm chết không còn một ai, ở cửa nhà tôi vẫn nghe được mùi máu tanh. Về sau tiểu thư Liên gia được gả cho người, tòa nhà bỏ hoang từ đó. Tai họa hỏa hoạn qua đi, cũng không ai dám xây nhà trên mảnh đất dữ, bỏ không tới giờ.
Triệu Phù Phong chần chừ hỏi:
“Ngươi nói gì? Tiểu thư Liên gia đã gả đi sao?”
“Phải rồi, gả cho chủ nhân Kiếm Hoa Đường.”
Triệu Phù Phong vừa vào Kim quốc đã nghe nói về danh tiếng Kiếm Hoa Đường, lãnh tụ Giang Nam bạch đạo, so với võ lâm phương bắc quần long vô thủ, rất có sức ảnh hưởng. Y nghĩ: Phương Giai mộc là người đạm bạc như thế, sáng tạo cơ nghiệp tất nhiên là … y buồn bả thốt:
“Từ Huy Dạ.”
Nhị Phúc gật đầu:
“Chính là Từ gia.”
Triệu Phù Phong đặt một mẩu bạc vụn lên bàn, đi thẳng ra cửa. Nhị Phúc buồn bực, không ăn uống thì trả tiền gì chứ, bèn đuổi theo gọi:
“Khách quan này …”
Triệu Phù Phong quay đầu nhìn hắn:
“Chưởng quỹ này, đa tạ.”
Nhị Phúc ngẩn ngơ nhìn y bỏ đi xa, đột nhiên nhớ đến hai mươi năm trước, trong đêm Liên gia phát sinh biến cố, có một thiếu niên cũng quay đầu nhìn hắn như thế, còn nói:
“Chưởng quỹ, ban đêm đừng buôn bán, đóng cửa sớm một chút.”
Ánh mắt trong suốt đó, hắn không thể nhớ nhầm.
Trong Dung Hòa phường, Kiếm Hoa Đường nằm dưới chân Quá Phế Lĩnh, vốn là nơi những người trẻ tuổi mê võ công gặp gỡ nhau, chỉ bốn năm gian nhà cỏ thôi, bây giờ đã là một đại phái nguy nga. Kiến trúc dựa núi trông rất khí thế, tường trát ngói đen, thạch sư giương nanh, đứng trước đại môn đỏ sẫm là hai kiếm sĩ thanh y.
Triệu Phù Phong sải bước lên bậc tam cấp, một gã kiếm sĩ giơ tay ngăn cản:
“Muốn làm gì?”
“Ta muốn gặp …”, Triệu Phù Phong nén lại hai chữ “Khoái Tuyết”, sửa miệng đổi thành, “đường chủ phu nhân của các ngươi.”
“Gặp đường chủ phu nhân hả?”, kiếm sĩ ngạc nhiên, nghi ngờ, nhìn dò xét bộ dạng rách rưới của Triệu Phù Phong.
Tiếng vó sắc sảo, có người phóng ngựa lên thềm, Triệu Phù Phong hơi nghiêng người, hai bóng dáng một đen một trắng lước qua tầm mắt, người ngồi đầu cầm roi san hô múa như lưu tinh, ngựa phi nhanh kinh nhân. Ngựa vượt qua ngưỡng cửa thì dừng lại, người trên ngựa quay đầu hỏi:
“Ai muốn gặp phu nhân?”
Thì ra là một thanh niên hai mươi bảy, hai mươi tám tuổi, thân mặc hắc ý, thanh tú sáng sủa.
“Nhờ báo với phu nhân các vị, cố nhân Triệu Phù Phong đến thăm.”
Thiếu niên đứng sau đang tháo cương ngựa, kinh ngạc thốt:
“Ôi, ngươi tên Triệu Phù Phong à?”
Thiếu niên mặc trường sam trắng, đai lưng tê giác, búi tóc bằng ngọc, phong tư tuấn tú, mi mắt rất giống Từ Huy Dạ.
“A!”, hắc y thanh niên phấn khởi nhảy xuống ngựa, phóng qua kéo tay Triệu Phù Phong, “Phù Phong ca, huynh về thật rồi, đệ nhận không ra huynh! Ôi, huynh không nhớ đệ sao? Đệ là Thanh Nguyễn.”
Triệu Phù Phong bị Liên Thanh Nguyễn lôi kéo, băng qua trùng trùng sân viện. Thiếu niên nọ theo ngay phía sau, không ngừng nhìn dò xét Triệu Phù Phong, ánh mắt trong sáng, tuyệt không khiến người chán ghét. Thân thể Triệu Phù Phong vừa nóng vừa lạnh, nghĩ: Nàng có con lớn thế này rồi sao! Lẽ nào độc hàn nha đã được giải? Lẽ nào đi vạn dặm đường tìm giải dược cho nàng, kì thực chỉ là uổng phí?
Đến hậu đình dưới lầu chính, Liên Thanh Nguyễn reo lên:
“A tỉ, a tỉ, tỉ xem là ai đây?”
Rèm châu trên lầu được vén nhẹ, một nữ tử hơn ba mươi tuổi bước ra, nắm lan can hướng xuống cười nói:
“Cái tên Thanh Nguyễn hấp tấp này …”
Nàng nói giữa chừng đột nhiên ngừng lại, nắm tay trên lan can siết đến nổi gân xanh, từ trên lầu nhảy xuống. Xiêm váy lộng lẫy tung hoành trong gió xuân, tựa một ngọn hoa đăng đang nở rộ.
Triệu Phù Phong thốt lên tiếng gọi “Tú Nhân”, nét mặt rạng rỡ, ngước nhìn rèm châu trên lầu đang lay động, hỏi:
“Khoái Tuyết đâu? Khoái Tuyết đang ở trong đó sao?”
Không nghe trả lời, y quay đầu thấy Tú Nhân đang trừng trừng nhìn mình, ánh mắt mông lung. Triệu Phù Phong nhịn không được, nôn nóng hỏi:
“Khoái Tuyết không chịu gặp ta sao?”
“Ngươi không gặp được tiểu thư đâu.”, Liên Tú Nhân gắt gao đáp, “Thể trạng tiểu thư, ngươi cũng không phải không biết, lại nhẫn tâm vứt bỏ nàng ở lại, đi tìm thứ gì đó. Ngươi vừa đi không lâu, tiểu thư đã bệnh triền miên, không xuống giường nổi, kéo dài cả mùa thu … Ta còn nhớ hôm đó là ngày mười hai tháng chín, tiểu thư vừa ăn chén cháo, tinh thần cũng tốt lên, sai ta chuyển trường kỉ ra vườn, tiểu thư muốn hít thở khí trời.”
Liên Tú Nhân nghẹn ngào:
“Lúc đó tiểu thư đã gầy trơ xương, được cả sân hoa cúc bao phủ, trông càng đáng thương. Tiểu thư nằm rất lâu, ta tưởng rằng nàng đang ngủ, muốn đưa nàng về phòng. Nàng đột nhiên mở mắt nhìn ta nói, Tú Nhân, tận tâm tận lực trông đợi một người, ta cảm giác mình thật trống rỗng. Nếu lúc đầu ta khẩn cầu y ở lại, y sẽ đáp ứng lời ta chứ?”
Đôi mắt Liên Tú Nhân đã ngấn lệ, thiếu niên bên cạnh lúng túng tay chân, dùng tay áo lau nước mắt cho nàng, nhẹ nhàng an ủi:
“Mẫu thân, đừng khóc mà.”
Khóe miệng Liên Tú Nhân khẽ nhếch lên, muốn cười mà không cười nổi, tiếp tục nói:
“Tiểu thư kiêu ngạo như thế, lại chịu nói ra những lời đó. Ngươi nghĩ xem nàng khổ sở đến độ nào. Nói xong, nàng không mở miệng nữa. Nửa đêm hôm ấy, ta mang chăn đến cho tiểu thư, phát hiện toàn thân nàng lạnh thấu tâm cốt. Ta dùng mọi biện pháp vẫn không thuyên giảm.”
Nàng hung hăn trừng mắt với Triệu Phù Phong:
“Ngươi, ngươi không gặp được nữa rồi.”
Bi ai tựa sóng lớn cuồn cuộn tận đáy lòng Triệu Phù Phong, dâng lên lồng ngực. Cả nửa ngày y không nói được lời nào, cuối cùng chỉ thốt được một câu:
“Đa tạ nàng chiếu cố nàng ấy, chăm sóc nàng ấy.”
“Phụng sự tiểu thư vốn là bổn phận của ta.”, Liên Tú Nhân dừng một chút, “Mộ tiểu thư nằm ở Bảo Thạch Sơn, ngươi tự đến báo với nàng đi, người nàng đợi đã về rồi.”
Triệu Phù Phong trầm mặc rất lâu, lên tiếng:
“Ta đến gặp nàng.”
Vừa cất bước, y mới cảm giác xương cốt tứ chi đều đau nhói, thân thể loạng choạng, không quay đầu mà đi thẳng.
Liên Tú Nhân gọi theo:
“Sớm biết hôm nay, ban đầu hà tất …”
Từ Cẩm Chi nắm tay mẫu thân an ủi, rồi cùng Liên Thanh Nguyễn đuổi theo. Triệu Phù Phong không đợi họ, càng đi càng nhanh, sau cùng đã chạy như điên loạn. Từ Cẩm Chi chưa từng thấy khinh công như vậy, người như mũi tên bắn giữa không trung, xuyên qua những dãy ngói đen, chớp mắt đã chẳng thấy người đâu.
Liên Thanh Nguyễn đứng ở Quán Phế Lĩnh, trông lại đô thành rộng lớn, chỉ thấy tình cảnh nó có thâm sâu bi lụy đến dường nào, cũng không thể rung chuyển đất trời, nhất thời tâm trạng buồn bả.
Triệu Phù Phong tìm đến mộ phần Liên thị trên Bảo Thạch Sơn. Bóng tùng chậm rãi phủ lên tấm bia, chỉ còn tia nắng chiều rọi nghiêng nghiêng bên mộ bia. Y tìm kiếm trong rừng mộ bia, tìm được một phiến đá trắng, mấy chữ “Giang Khoái Tuyết” đập vào mắt. Y quỳ phục xuống ôm lấy mộ bia của nàng, ôm mãi đến khi thân thể ướt đẫm mồ hôi, bắt đầu cảm nhận được phiến đá lạnh lẽo. Trăng quạnh quẻ, rải ánh sáng trên mặt đất.
Triệu Phù Phong nằm trước mộ bia, không tỏ ra mệt mỏi chút nào. Gió đêm phần phật, bóng cây lay động trong gió, giống như có người đi qua, y rất hy vọng là nàng từ mộ bước ra. Mặt trời mấy bận mọc rồi lặn, y đã quên đi thời gian, thủ bên mộ nàng, tim như bị sương mù vây lấp giữa chiến trận, trong mênh mông ẩn ước âm thanh sát phạt.
Thời gian càng xa, dung nhan của nàng dần dần trở nên mơ hồ, suy nghĩ của y cũng không còn dầy đặc. Y mang ‘để dã già’ quay về, nàng đã qua đời, tựa hồ đang ở trong ngôi nhà quen thuộc, một bước hụt chân đã rơi xuống vực thẳm. Y bỗng dưng phát hiện, thì ra tình cảm mà dứt bỏ, nhân gian chẳng còn chỗ an thân.
Giữa trưa ngày thứ ba, ngoài rừng đột nhiên vọng tới tiếng bước chân gấp rút. Liên Thanh Nguyễn chạy đến đầu tiên, theo sau là một nam tử trung niên vóc người cao gầy. Nhìn thấy Triệu Phù Phong trước mộ Giang Khoái Tuyết, Liên Thanh Nguyễn mừng rỡ:
“Phương đại ca, huynh đoán không sai, hai ngày rồi vẫn ở đây.”
Triệu Phù Phong không còn là thiếu niên sáng láng thuở đầu. Phương Giai Mộc vẫn nhìn qua là nhận ra ngay. Y nắm cổ áo Triệu Phù Phong, một chưởng tát thẳng mặt y, quát:
“A Phong, người đã chết rồi, ngươi làm ra bộ dạng này để ai xem đây?”
Triệu Phù Phong lắc đầu, nhìn rõ người trước mặt, hoảng hốt hỏi:
“Huynh bảo ai chết?”
Y trừng mắt với Phương Giai Mộc, hai người đối diện rất lâu. Triệu Phù Phong trông thấy hình ảnh mình dần dần hiện ra trong đồng tử Phương Giai Mộc, trái tim đột nhiên đau thắt, thống khổ như bị đao cứa vào. Triệu Phù Phong rủ đầu, thốt:
“Huynh nói không sai, nàng … đã chết rồi, bất luận ta ở cạnh nàng bao lâu, đều không vãn hồi được.”
Y không để ý đến Phương Giai Mộc nữa, từng bước từng bước rời khu rừng. Hai ngày không ăn uống, bước chân Triệu Phù Phong nhẹ hẫng, bước đi không hề quay đầu.
Phương Giai Mộc muốn đuổi theo, chợt nghe Liên Thanh Nguyễn hỏi:
“Phương đại ca, huynh xem đây là ý gì?”
Hắn quay đầu nhìn mộ bia Giang Khoái Tuyết, có mấy chữ mới được khắc vào, chỉ lực sâu đến ba phân, mỗi nét rướm máu, thực sự trông thấy mà kinh ngạc, đọc lên từng chữ:
“Bi kết sinh tật, một mệnh hoàng lư.
Mệnh chi bất tạo, oan như chi hà!
Vũ tộc chi trường, danh vi phượng hoàng.
Nhất nhật thất hùng, tam niên cảm thương.
Tuy hữu chúng điểu, bất vi thất song.
Cố kiến bỉ tư, phùng quân huy quang.
Thân viễn tâm cận, hà đương tạm vong.”
Phương Giai Mộc dụi mắt, trầm giọng giải thích:
“Đây là bài Tiểu nữ nhi Tử Ngọc xướng của Ngô Vương Phù Sai. Ngày xưa Tử Ngọc ái mộ Hàn Trọng, Ngô Vương không ưng thuận, Tử Ngọc uất ức mà chết. Hàn Trọng đến mộ Tử Ngọc viếng, hồn Tử Ngọc xướng lên khúc ca này, còn mời Hàn Trọng vào mộ ba ngày ba đêm, thành lễ phu phụ.”
Liên Thanh Nguyễn hít hơi sâu:
“Đệ biết ý tứ của Phù Phong ca, y hi vọng tiểu thư giống Tử Ngọc, mời y vào mộ.”
Phương Giai Mộc chua xót trong lòng, lắc đầu:
“Hồ đồ.”
Hai người đuổi theo Triệu Phù Phong, thấy y thần thái như gỗ, mơ hồ chẳng biết đi đông tây nam bắc. Phương Giai Mộc nâng đỡ y:
“Thanh Nguyễn, chúng ta đưa hắn về.”
Thế là hai người không nói năng, đưa y về một tòa tiểu viện bên Tây Hồ. Cuối cùng Triệu Phù Phong đã động dung, nhìn chằm chằm những ròng rọc và đá mài trong viện, khẽ thốt:
“Kiếm Hoa Xã.”
Phương Giai Mộc vỗ vai y, cao hứng nói:
“Ngươi còn nhớ câu chuyện kết xã của chúng ta à, ta chuyển sang nguyên dạng đó.”
Vài gian nhà cỏ đơn sơ, gió lùa mang theo không khí thanh mát của khu rừng, tiếng én rì rầm, kiếm treo trên vách cũng đóng bụi dầy. Phương Giai Mộc múc một chén cháo, đưa cho Triệu Phù Phong, nói:
“Huy Dạ thích náo nhiệt, ta thích đạm bạc. Nếu y có Kiếm Hoa Đường, ta có Kiếm Hoa Xã, để những lão bằng hữu có nơi dừng chân. Tháng trước họ giống trống khua chiêng đến Quế Lâm, may ta không đi, bằng không đã bỏ qua ngươi rồi. Khà, ta trông râu ria ngươi thật không thuận mắt.”
Y tìm một con dao nhỏ, múa vài đường đã cắt gọn bộ râu của Triệu Phù Phong, để lộ gương mặt xanh xao tiều tụy.
Liên Thanh Nguyễn đứng bên cạnh, xem thấy hứng thú, cười nói:
“Phương đại ca, huynh dùng thủ pháp Tích Hoa kiếm cạo râu, thực là sắt bén dứt khoát, chẳng lưu dấu vết.”
Phương Giai Mộc cũng cười theo:
“Vậy à? A Nguyễn ngươi nhàn rỗi quá, đi đi, xuống bếp mang nước nóng lên, xú nhân này cũng nên tắm rửa rồi.”
Hai người chân tay bận rộn, quyết tẩy rửa Triệu Phù Phong đến độ tinh tươm sạch sẽ.
Triệu Phù Phong để mặt bọn họ an bài, đến khi cả hai hứng trí muốn tắm dùm y, mới chịu lên tiếng:
“Mộc đầu, Thanh Nguyễn, hai bà cô các người muốn làm gì đây?”
Phương Giai Mộc dừng lại, cười:
“Đúng rồi, đây mới là A Phong ta quen chứ, trời sập lấy làm mền.”
Nói rồi y kéo Liên Thanh Nguyễn đi ra ngoài, thì thầm:
“Cái bộ dạng thất hồn lạc phách kia, con mẹ nó, ta thực nhìn không quen mắt.”
Trong làn hơi nước mù mịt, mắt Triệu Phù Phong ướt đẫm. Y đưa tay xoa mặt, không phân biệt rõ là nước hay nước mắt. Nghĩ người yêu thương hết dạ đã biến thành khô cốt, không còn khả năng cười nói cùng nàng, cuộc đời hoang liêu sau này phải an bài thế nào, nước mắt y cuối cùng đã rơi.
Nghe xoạt một tiếng, nóc nhà bị thủng một lỗ to, bốn kẻ che mặt xông vào. Ba thanh đao bao vây Triệu Phù Phong trong bồn nước, phong kín mọi góc độ phản kích của y, kẻ còn lại lật qua giở lại đống y phục vừa cởi ra của Triệu Phù Phong, tìm thấy một bình nhỏ bằng men xanh, mở ra xem thử, hai mắt sáng rực. Cất tràng cười lớn, hắn phóng người lên định rút lui.
Không lỡ thời cơ, Triệu Phù Phong vươn tay chộp lấy cổ tay phải một tên. Động tác y không hoa mỹ, bình thản như nâng chung uống trà. Kẻ đó hoa mắt, cổ tay đau không chịu thấu, đao trong tay đã trượt qua tay Triệu Phù Phong. Đao vừa đổi chủ, bốn kẻ bịt mặt đều rùng mình, cảm giác đao khí sát nhân cuồn cuộn dâng lên, tựa bão tuyết mùa đông, đâm thẳng tròng mắt, chấn vỡ phế phủ.
Thân hình Triệu Phù Phong bốc lên như cơn lốc, cương đao chém trúng hông kẻ thứ nhất, lướt qua ngực kẻ thứ hai, cắt vào cổ kẻ thứ ba, đao thế liên tục không ngừng. Trung tâm cơn lốc, đao quang lóa mắt, lăng lệ vô bì, xuyên qua nóc nhà công kích mạn sườn kẻ thứ tư. Bình thuốc liền rơi xuống, Triệu Phù Phong nhẹ nhàng đón lấy, nắm trong lòng bàn tay.
Bốn kẻ bịt mặt không kịp phản ứng, đã la liệt dưới đất, kinh hãi nhìn nam tử trước mặt. Dương quang phủ trên da thịt thô ráp của y, trên những giọt nước trong suốt, tỏa sáng lấp lánh, cơ thể gầy gò mà sức lực không ngờ. Bi thương và tuyệt vọng khiến Triệu Phù Phong quên mất giới điều của Thần Đao Môn. Quỹ đạo cong kinh ngạc, phóng túng sức mạnh, một đao hơn người này của y đã đạt đến cực hạn. Đao tầm thường trong tay y cũng trở thành thần khí.
Một tên bị thương nhẹ, lấy lại tinh thần, phóng mình qua cửa sổ tẩu thoát, bị Liên Thanh Nguyễn bắt lại. Hắn ẩn nấp ở song cửa, kinh ngạc tán thưởng:
“Phương đại ca nói một mình huynh lo liệu được, ban đầu đệ còn không tin.”
Phương Giai Mộc cười nói:
“Ta biết ngươi không cần bọn ta viện trợ, nhưng không ngờ ngươi tiến bộ bất ngờ như thế.”
Triệu Phù Phong lắc đầu đáp:
“Vừa rồi xuất thủ, sức mạnh đó không nằm trong khống chế của ta, như vầy thật không hay.”
Y cúi xuống, nhấc một tấm khăn bịt mặt lên, gương mặt hoàn toàn xa lạ. Y hỏi:
“Các ngươi làm sao biết ta mang theo để dã già? Tại sao các ngươi muốn cướp nó?”
Kẻ đó cười lạnh:
“Môn hạ Thần Đao Môn, quả nhiên không giết người, đáng tiếc giữ bọn ta cũng chẳng hỏi được gì.”
Gã rạch tay lên vết thương ở cổ, máu tuôn như suối, tức thì tuyệt khí. Ba kẻ còn lại đều cầm đao, cùng lúc tự vẫn. Triệu Phù Phong nghẹn thắt lồng ngực, không ngờ thế gian có kẻ xem nhẹ sinh mạng đến vậy, quyết tìm đường chết.
Phương Giai Mộc kiểm tra toàn thân chúng, thở dài:
“Chẳng để lại dấu hiệu gì, phần lớn chính là bang phái hắc đạo.”
Liên Thanh Nguyễn nói:
“Để dã già là thánh dược giải độc, có thể giải được kì độc như hàn nha, lưu tô, có người thèm muốn cũng không lạ. Kì lạ là, chuyện năm xưa Phù Phong ca lên đường tìm thuốc chỉ có mấy người biết, vừa mới về chưa đến ba ngày, làm sao có kẻ bô bô mò đến cửa rồi?”
Phương Giai Mộc nhận xét:
“Cái này khó nói, trên giang hồ có rất nhiều cặp mắt dòm ngó Kiếm Hoa Đường các ngươi, bất kể chuyện lớn chuyện nhỏ, qua một ngày đã truyền đi khá xa. Cả ta vốn không màng thế sự, hôm qua cũng ngồi trong tiệm trà nghe được có người đến Kiếm Hoa Đường, được Cẩm Chi thiếu gia và công tử Thanh Nguyễn ngươi đích thân nghênh đón, dẫn vào trong nhà. Còn có lời đồn buồn cười hơn, bảo A Phong là tình nhân cũ của đường chủ phu nhân. Huy Dạ và Tú Nhân vợ chồng tình thâm, không ngờ cũng truyền ra lời đồn nhảm nhí.”
Y nói câu này, vốn đã điều tiết khẩu khí, sợ Triệu Phù Phong đang tâm sự trùng trùng, khổ sở nhịn cười, so với gương mặt khi mếu còn khó coi hơi. Liên Thanh Nguyễn cười lạnh:
“Chưa chắc đã vậy. A tỉ gần đây nghi ngờ đường chủ có ngoại thất, nhưng không tiện nói, dặn dò đệ lưu ý. Phương đại ca, đệ biết đường chủ và huynh là sinh tử chi giao, huynh không cần thanh minh cho y, đệ đã nghi ngờ rồi.”
Phương Giai Mộc kiên trì đáp:
“Ta biết Huy Dạ, hắn nhất định không phải hạng người đó.”
Đêm đó ba người kê ghế nằm ngủ, không trò chuyện nhiều. Nóc nhà bị thủng, nhìn thấu bầu trời cao vợi, sao đêm nơi thôn dã thật sáng. Nếu không phải có người chết, đây chính là buổi trùng phùng hoan hỉ.
/9
|