Lâm Tướng quân ngoại truyện
Thác duyên (duyên nhầm)
Muôn ngàn cây xanh rợp trời, cổng chùa rộng mở.
Tiếng tụng Phật rầm rầm rì rì dồn vào tai, lẫn trong đó là tiếng người ồn ào huyên náo, ngược lại có phần tĩnh lặng đến xa xôi.
“Thụy Ân, đừng có bày mãi ra cái bộ mặt như vậy nữa, có tuấn tú đến mấy cũng vô ích thôi!” Tà áo vàng lay động chập chờn, gương mặt thoáng chút giận dỗi của Lâm Nhiễm Y trở đi trở lại trước mặt hắn, “Mấy ngày nữa đệ phải trở về Ngọc Hiệp quan rồi, hôm nay lên chùa cầu phúc, mặt mũi đệ lạnh te như cục băng thế này là sao chứ, định dọa cả Phật tổ chắc!”
Ậm ừ vài tiếng trầm trầm, Lâm Thụy Ân đành nhếch môi nở nụ cười nhàn nhạt, có phần bất đắc dĩ. Lâm Nhiễm Y có vẻ vừa lòng, mím môi cười, rồi thật nhanh chen chân vào giữa dòng người đang cuồn cuộn kéo tới trong nội điện.
Chùa Hồng Phúc luôn nghi ngút nhang khói, hôm nay cơ hồ có thể dùng một từ náo nhiệt để miêu tả, Lâm Thụy Ân khoan thai bước từng bước, vòng một lượt qua La Hán đường, Đông Nhạc điện(1), Quan Âm điện, Nhiên Đăng điện(2), lướt qua xem xét tất cả, mắt thấy nơi nơi đều là người, từ những vị quan lớn vinh hiển quyền quý đến thương nhân, bá tính tầm thường, hôm nay lại có nhiều người như vậy đến chốn này cầu Phật. Tinh mắt trông theo một bóng người áo màu vàng nhạt đi thẳng vào Đại hùng bảo điện(3), bước chân chợt ngưng. Ngẩng đầu trông lên, tượng Di đà tam tôn(4) uy đức trang nghiêm đập thẳng vào mắt, đầu óc hắn choáng váng, bên tai còn văng vẳng tiếng người niệm Phật rì rầm, tựa như cõi Sa Bà(5) lắm mối phiền não đang bày ra trước mắt.
(1) Nơi thờ Đông Nhạc Đại Đế phong là "Đông Nhạc Thái Sơn Thiên Trai Nhân Thánh Đại Đế" cai quản bảy mươi hai tầng Địa phủ (Đông Nhạc cung – một trong ba cung lớn giúp cai quản khắp cõi đất trời) theo giáo lý Đạo giáo.
(2) Nơi thờ Nhiên Đăng Cổ Phật (Dipankara hay Đính Quang Phật), vị Phật thứ tư trong danh sách hai mươi tám vị Phật. Trong Đại Trí Độ Luận viết khi đức Nhiên Đăng Cổ Phật đản sinh, chung quanh thân sáng như đèn, cho nên gọi là Nhiên Đăng Thái Tử (Nhiên Đăng có nghĩa là đốt đèn), sau này thành Phật cũng dùng chữ ấy mà gọi.
(3) Điện báu thờ đấng Đại hùng (tức đức Phật có đại hùng, đại lực, đại từ bi), là cách gọi thành kính, tôn nghiêm của "chính điện" – nơi tôn trí, thờ phụng hình tượng Phật, Bồ Tát thường được xây ở gian giữa của các ngôi chùa.
(4) Di Đà tam tôn hay Tây Phương Tam Thánh là ba vị Thánh được coi là những đấng tiếp dẫn chúng sinh ở mười phương Phật, cùng được tôn thờ, bằng tranh hay tượng tại nhà hoặc các chùa chiền theo hàng ngang, bao gồm Phật A Di Đà ở giữa và hai vị Quan Thế Âm Đại Thế Chỉ ở hai bên.
(5) Hay còn gọi là "đại nhẫn, kham nhẫn". Cõi Sa Bà là cõi được Phật Thích Ca giáo hóa, là nơi có người ở, có nhiều điều khổ sở, phiền muộn, đòi hỏi chúng sinh ở đó phải chịu đựng nhiều, phải nhẫn nhục lớn.
“Đại hùng bảo điện, đại bao hàm vạn hữu; hùng nhiếp phục quần ma.” Thấy Lâm Thụy Ân sửng sốt ngây người, Lâm Nhiễm Y tươi cười giải thích.
Nhiếp phục quần ma ư?
Bất giác trong đầu hiện lên quang cảnh huyết chiến chốn sa trường, Lâm Thụy Ân nhếch môi nở một nụ cười hiếm thấy, ngồi trên cao vời vợi như vậy, có thể nhiếp phục quần ma được ư? Phật tổ à Phật tổ, rốt cuộc là người khờ dại hay là thế nhân ngây ngô đây?
Bắt gặp nụ cười của Lâm Thụy Ân, Nhiễm Y ghé sát lại gần, hé miệng cười hi hi: “Đệ cũng nghe nói rồi phải không?”
“Nghe nói gì cơ?” Lâm Thụy Ân nghi hoặc hỏi lại.
“Hai đại mỹ nhân nức danh kinh thành đến đây dâng hương ấy!”, ra vẻ biết tỏng, Lâm Nhiễm Y có vẻ vô cùng hưng phấn, “Nghe danh kinh kỳ 'Xuân Huỳnh Văn Nguyệt' từ lâu, thật cũng muốn được mở rộng tầm mắt.”
Nếu là người khác nói mấy lời như vậy, hắn đã sớm quay lưng bỏ đi thẳng, có điều trước mắt chính là chị gái ruột, hắn ngoại trừ bất đắc dĩ ra, chỉ còn bất đắc dĩ. Nhìn cái vẻ không đồng tình của em trai, Nhiễm Y bĩu môi: “Đệ cũng quá hai mươi rồi, cũng đến tuổi phải kiếm lấy một cô vợ là vừa, khuê tú kinh thành nhiều vô số kể, chẳng biết ai mới vừa nổi mắt đệ, đệ cứ dây dưa mãi như vậy, hương hỏa Lâm gia sau này tính sao đây? Chi bằng hôm nay đi xem mắt hai vị đại mỹ nhân này đi, mỹ nhân vạn người có một, nếu đệ vẫn còn thấy không hợp nhãn, xem ra đời này chỉ còn nước cạo đầu làm sư mà thôi.” Nói rồi liền kéo Lâm Thụy Ân hướng thẳng vào trong.
Lâm Thụy Ân cau mày, chỉ đành lẽo đẽo theo vào nội điện phía sau. Lâm Nhiễm Y lôi lôi kéo kéo mấy vị tăng nhân, hỏi thăm một loạt, cuối cùng còn đem cả thân phận thật ra đe dọa mới biết tin, hai vị mỹ nhân kia ghé chùa từ cửa sau. Nàng nuối tiếc thở dài, bỏ lỡ mất cơ hội. Nhưng rồi lại nghe rằng hai người đẹp vẫn chưa rời đi, liền mừng thầm trong dạ.
“Tỷ tỷ, đó là rình trộm.” Cảm nhận rõ ý đồ của Lâm Nhiễm Y, Lâm Thụy Ân lạnh giọng nhắc nhở.
“Ta chỉ ngắm hoa thôi.” Trâng tráo đốp lại, Lâm Nhiễm Y đi vòng đến Quảng Lực điện, quay ngoắt lại ném cho Lâm Thụy Ân một cái nhìn với hàm ý rõ ràng “ đứng đây chờ ta”, rồi hướng thẳng về phía chính điện.
Thầm thở dài một tiếng, đứng chờ một hồi, thấy một đàn tiểu sa di chạy tới, sợ bịn họ hỏi han phiền nhiễu, sẽ gặp thêm rắc rối, hắn bèn chậm rãi đi quanh, tiến bước mà vô mục đích. Đi qua thiên điện, liền nghe được tiếng nữ nhân dịu dàng truyền tới: “Tiểu thư, nghe kể tích xưa như vậy, thẻ này là điềm xấu quá đỗi, hay là ném đi đi.”
Ánh ngọc trắng xẹt qua trước mắt, thanh thúy chạm đất, rơi xuống ngay trước chân hắn, Lâm Thụy Ân cúi đầu, thấy một thẻ xăm bằng ngọc nằm yên trên đất. Cúi người nhặt lên, trên thẻ xăm khắc rành rành hai chữ sắc nét “Đế Vương Yến”.
“Linh Lung, muốn ném cũng đâu thể ném ở đây chứ, mau đi nhặt quẻ lại đây chớ để kẻ khác chê cười.” Tiếng ngân nga như gió thoảng, ý cười hòa nhã ấm áp, giọng nói ấy êm ái đến cực điểm, ngọt ngào cảm động, rót vào tai khiến Lâm Thụy Ân thất thần giây lát. Có tiếng người chạy lại, bóng một tiểu tì áo xanh vọt ra khỏi điện, ngược sáng, khó mà trông rõ dung mạo của nàng. Nha hoàn tên gọi Linh Lung kia tựa hồ không ngờ ngoài điện còn có người khác, ngây ngốc sững người, cúi chào, nhận lấy thẻ bài, nói lời cảm ơn, rồi lại rảo bước chạy vào trong điện.
Gió lạnh ùa qua thân mình, trong điện đã vắng tiếng người, nghĩ tới chuyện nơi đây là chốn thâm nghiêm tĩnh mịch, trong điện vẫn còn nhiều nữ quyến, hắn không dám lưu lại lâu, liền xoay người rời đi, trước khi đi còn mơ hồ thoáng thấy, la y vụ sa, y phục phiêu diêu.
Quay lại Quảng Lực chính điện, Lâm Nhiễm Y uể oải đón hắn: “Cả hai đi mất tiêu rồi.” Bật cười một tiếng an ủi, Lâm Thụy Ân nói: “Đã vô duyên thì cần gì phải cưỡng cầu?”
Ba ngày sau, Lâm phủ nhận được thư từ bộ Binh, Nỗ quân cậy mạnh liên tiếp xâm lấn các thành trấn biên cảnh quanh ải Ngọc Hiệp, Lâm Thụy Ân lập tức rời kinh, tiến thẳng tới ải Ngọc Hiệp. Mà thống soái Nỗ quân khi đó, là con trai thứ hai được Nỗ vương vô cùng yêu thương, Gia Lịch.
* * *
Gió chiều nổi lên, gầm rú cuồng nộ, mây cuối chân trời tan tác như tơ, bầu trời như quyện thành một khối với bình nguyên rậm rạp, phân không rõ đâu là trời, đâu là đất.
“Tướng quân!”
Lâm Thụy Ân quay đầu lại, sườn gương mặt sắc như đao cắt, góc cạnh rõ ràng, đường nét tinh tế, không hề nhuốm chút xù xì thô ráp nào của máu lửa chinh chiến sa trường. Người vừa đến thoáng giật mình, rồi bật cười sang sảng, đưa tới một chén canh, tỏa ra hương thơm ngào ngạt quyến rũ.
“Đây là canh thịt đầu bếp nấu, tối nay Tướng quân còn chưa ăn gì đúng không?”
Đưa tay nhận lấy chén canh, hơi nóng hầm hập có phần bỏng rát tay, hắn thoáng chớp mắt vài cái không ai nhận ra, đưa canh lên miệng, nóng rực như cụm lửa tràn vào cuống họng, cứ thế xộc thẳng vào ngực. Bao nhiêu hơi lạnh lẽo hòa lẫn trong gió theo hơi nóng đang cuộn trong lòng mà tiêu tan.
“Cảm ơn!”
“Ấy… a?” Người vừa tới kia mở trừng mắt, hệt như bị kinh hãi vì câu nói vừa rồi, khoát khoát tay rất không tự nhiên, “Tướng quân à… Sao Tướng quân lại khách khí đến thế chứ… Đây là đầu bếp đưa cho tôi… Tôi, tôi là Lý Dũng, trong quân còn gọi tôi là Đại Dũng…” Đột nhiên phát hiện ra không biết mình đang lắp bắp luyên thuyên những gì, mặt hắn chợt đỏ lựng lên, đưa tay gãi đầu. Rất lâu sau vẫn không thấy tiếng đáp lại, hắn mới len lén ngước mắt, liếc trộm Lâm Thụy Ân một cái, trên gương mặt lạnh lùng kia, bờ môi nhếch cong cong như vầng trăng non, tựa như mỉm cười.
Hóa ra vị Tướng quân này cũng chẳng lãnh mạc lạnh lùng như vẻ ngoài, rốt cuộc vẫn chỉ là một thiếu niên mà thôi! Đại Dũng vừa nghĩ vậy, liền mạnh dạn lên gấp mấy lần, khẽ nói: “Tướng quân, chốn này đến cây cỏ cũng chẳng mấy thứ mọc nổi, người nhìn mãi suốt ba ngày nay, rốt cuộc đang nhìn gì vậy?”
Lâm Thụy Ân quay đầu trông về chân trời xa mịt mờ gió cát, nói: "Ta đang xem xét gió bụi nơi này.”
“Gió bụi?”
“Nơi này lạnh lẽo khủng khiếp, gió bụi cũng như bão cuộn, thế nhưng Nỗ quân lại có thể tôi luyện trên mảnh đất như vậy nên ý chí và sức chiến đấu mới càng kiên định hơn chúng ta rất nhiều…” Lâm Thụy Ân không hề quay đầu lại, nhẹ giọng thở dài, như thể đang tự nói với chính mình.
Đại Dũng lặng thinh không lên tiếng, nghe được những lời ấy, hắn chợt có cảm giác bản thân như một dây cung bị khơi lên, nhưng không có cách gì tả lại được. Ngẫm ngợi nửa ngày, hắn mới mở miệng: “Nỗ quân quả thực rất mạnh mẽ, giao tranh triền miên suốt ba tháng ở đây với chúng ta, có điều… có điều, nơi này rất lớn, thuận lợi cho ngựa chiến rong ruổi, ở đây có thể bất lợi cho chúng ta, nếu, nếu mà có thể chuyển sang chốn khác…”
Lâm Thụy Ân vụt quay đầu, có phần bất ngờ liếc mắt nhìn đối phương.
Trong lòng Đại Dũng phát run, chạm phải ánh mắt của vị thiếu niên Tướng quân này, trong lạnh lẽo có kiên định, giống như bảo kiếm vừa rút ra khỏi vỏ. Hắn từng gặp vô số người chốn sa trường, nhưng chưa từng thấy ánh mắt không hề giấu giếm mà lại rất mực đẹp đẽ như thế. Ánh mắt trong trẻo lạnh lùng ấy đảo một vòng trên người hắn, hắn bất giác căng thẳng lên tiếng: “Tướng, Tướng quân, tôi nói sai gì hay sao?”
“Không phải!” Lâm Thụy Ân đáp, “Cách nghĩ của ngươi không hẹn mà hợp với ý ta.”
Đại Dũng tròn mắt líu lưỡi nhìn Lâm Thụy Ân, cũng không để ý đến thân phận khác biệt nữa: “Ý Tướng quân là vừa rồi tôi đã nói đúng ư?”
Lâm Thụy Ân gật đầu: “Nơi này đất đai rộng lớn, rất thích hợp kỵ binh tác chiến, vòng quanh, bọc đánh đều có được sự yểm hộ rất lớn về địa lý. Kỵ binh quân ta không bằng Nỗ quân, mà ưu thế của bộ binh lại không phát huy được, tuy binh lực trội hơn, nhưng trên chiến trường luôn rơi vào thế hạ phong. Nếu dụ Nỗ quân đến dãy núi nhỏ quanh co, kỵ binh bị hạn chế, Nỗ quân tất bại.”
Đại Dũng liên tục gật đầu đồng tình. Phía sau lại vang thêm một giọng nói dịu dàng: “Theo Tướng quân thấy, nên dùng cách gì để kéo Nỗ quân về phía dãy núi ấy đây?” Nghe tiếng ấy, Đại Dũng cơ hồ nhảy dựng lên. Ngoảnh đầu trông lại, quả nhiên là một văn sĩ trung niên áo vải, diện mạo tao nhã. Trong quân đội này, y thậm chí còn đáng sợ hơn cả Tướng quân. Chấp pháp nghiêm minh không hề chùn tay khoan nhượng, hơn nữa còn cơ trí giảo hoạt, sau lưng người ta gọi y là "hồ ly quân sư".
Lâm Thụy Ân không hề có vẻ gì là ngạc nhiên, chỉ bình thản hỏi: “Quân sư chuyến này đi thuận lợi chứ?”
Quân sư mỉm cười ôn hòa: “Lần này đi thực rất thuận lợi, hơn nữa hết thảy đều như dự liệu của Tướng quân!” Y nhìn nhìn Đại Dũng đang căng thẳng gần bên, lại hỏi, “Vừa rồi Tướng quân nói, cần phải dẫn dụ được Nỗ binh đến dãy núi, có phải có liên quan với nhiệm vụ phái ta đi lần này không?”
“Đúng thế.” Lâm Thụy Ân thản nhiên thừa nhận, “Quân sư lần này đi xác định đường sá, chính là điểm mấu chốt để dẫn dụ Nỗ binh vào tròng.” Hắn đặt chiếc bát không trên tay xuống, lấy trong tay áo một tấm da dê rất mỏng, bày trên mặt đất, dùng bát chặn một góc, ngón tay chỉ vào những đường dọc ngang đan chéo trên mảnh địa đồ: “Đường quân sư đi lần này, tổng cộng qua mấy thị trấn?”
“Năm.”
“Thống soái Nỗ binh hiện giờ là ai?”
“Nhị vương tử Nỗ tộc, Gia Lịch.”
Quân sư và Đại Dũng thay nhau trả lời, một trước một sau. Lâm Thụy Ân thoáng trầm ngâm, nói: “Thời cơ đến rồi! Ngày mai khởi binh chia hai lộ, một lộ tiếp tục dây dưa với Nỗ binh, đồng thời dẫn dụ chúng sang phía Tây…’
Đại Dũng kinh hô: “Nhưng dãy núi ở sườn Bắc, sao lại dụ chúng về phía Tây chứ?”
Quân sư lãnh đạm liếc mắt nhìn hắn một cái, hắn lập tức thấy luống cuống, những lời sau đó lập tức nghẹn lại trong họng.
Lâm Thụy Ân ngược lại không hề phật ý, nói: “Một lộ khác tiến thẳng đến dải núi kia mai phục tại đó. Lộ thứ nhất dẫn dụ quân Nỗ xuôi về phía Tây, băng qua liền năm thị trấn, dọc đường chỉ được phép bại không được phép thắng. Dựa vào ba tháng hành quân đánh trận vừa qua của Nỗ binh, có thể thấy Gia Lịch tuyệt không phải loại vô năng, một đường xuôi về phía Tây, liên tiếp thắng liền năm trận, hắn há có thể không sinh lòng nghi ngờ sao. Đến lúc ấy gieo rắc lời đồn trong quân, nói mục đích thực sự của quân ta lần này là đánh thắng Đốc Thành, hắn vốn đã có lòng ngờ vực chuyện bại liền năm trận ấy chỉ là trò tung hỏa mù che mắt thiên hạ, đến khi đó tất sẽ mắc mưu. Đến lúc ấy, hắn chỉ còn cách ra roi thúc ngựa, dẫn quân ngược về Đốc Thành, trên đường Bắc thượng, ngay trên đường vào núi đã có phục binh. Còn một lộ binh khác, có thể đuổi sau chừng ba mươi dặm đường, chặn sau quân đội của Gia Lịch. Như vậy, khi đến dãy núi kia, nơi đó núi non trùng trùng, ưu thế của kỵ binh hoàn toàn không còn, hơn nữa Nỗ binh bôn ba suốt dọc đường, tất nhiên mệt mỏi không chịu nổi, lúc này quân ta hai mặt trước sau giáp kích, thắng bại ngay trước mắt.’
Nghe xong tất cả những lời ấy, rất lâu sau quân sư vẫn không nói một lời, tiếng gió ào ào vẫn rít gào lướt qua. Đại Dũng há hốc miệng, mãi vẫn không ngậm lại được.
‘Ngài thành tài rồi!” Quân sư thở dài, “Lần này dẫu ta biết ngài có lòng muốn dẫn dụ Nỗ quân vào núi, nhưng ta nghĩ tới nghĩ lui, thật nghĩ không ra một biện pháp chu toàn đến thế, kế sách này của ngài, lấy tâm lý chiến làm đầu, hơn nữa còn dĩ dật đãi lao, dùng sở trường của ta đánh vào sở đoản của địch. Cao minh hơn ta rất nhiều!” Nói đến câu cuối cùng, quân sư dường như có chút âu sầu. Ánh mắt ấm áp hiền hậu chăm chú nhìn Lâm Thụy Ân, thầm nhớ lại năm xưa khi hắn còn nhỏ dại, chính y từng câu từng chữ tay bắt tay nắn nót dạy cho hắn binh thư kế sách, vậy mà mới chớp mắt đó, hắn đã có thể tự mình bày kế sách, phân định thắng bại từ ngoài ngàn dặm.
Thời gian thấm thoắt thoi đưa, suy cho cùng cũng chỉ như một nháy mắt mà thôi. Chuyện thế gian này, nói dài, chẳng qua cũng chỉ vài chục năm, kỳ thực, không phải chỉ là một chớp mắt hay sao?
Lâm Thụy Ân nhìn quân sư, cảm thấy thật nhiều thật nhiều xúc cảm trong ánh mắt của con người giống như vị cha hiền kia, nét dịu dàng ôn hòa thoáng quan khuôn mặt lạnh lẽo và kính cẩn. Ngược lại, thấy sắc mặt Đại Dũng vừa mừng vừa lo pha lẫn kính sợ. Sau lưng hắn, một tòa thành sáng choang đèn đuốc… Thuở nhỏ học binh pháp, sư trưởng gửi gắm biết bao kỳ vọng, không gì khác là bảo vệ núi sông này, nghĩ đến đây, lồng ngực không khỏi nóng rực lên, vươn vai đứng thẳng tắp, trông về phía chân trời xa.
Trên ngọn Yên Sơn, trăng non như lưỡi câu.
Ba ngày sau, tất cả đều theo đúng kế hoạch của Lâm Thụy Ân. Do Du kỵ Tướng quân dẫn binh giao chiến với Nỗ quân cách ngoài ải Ngọc Hiệp chừng năm mươi dặm. Trận chiến kéo dài nửa ngày, quân Khải Lăng bại trận, rút quân về Đàm Thành ở phía Tây, Nỗ tộc quyết đuổi dồn sang Tây. Xế chiều hôm sau, quân hai phe lại giao chiến ngoài thành, quân đội Khải Lăng tiếp tục bại, lùi tiếp ba mươi dặm, liền như vậy suốt tám ngày, quân Khải Lăng thua mất năm thành, Nỗ quân đại thắng.
Trận này thống soái Nỗ binh là Gia Lịch, Nhị vương tử của Nỗ vương, kẻ này trời sinh tính tình cuồng ngạo, từ nhỏ đã thông minh hơn người, được Nỗ vương cưng chiều, mấy ngày liền giao chiến với quân đội Khải Lăng, liên tục đại thắng, lòng quân phấn chấn vô cùng. Thế nhưng, dẫu cho cao ngạo đến mấy, hắn vẫn là người cẩn trọng. Lòng không khỏi nảy sinh nghi hoặc. Ngưng chiến hai ngày, dần dần có lời đồn gieo rắc trong lòng quân, còn cả tin trinh thám báo về, nói quân Khải Lăng chạy về phía Tây chỉ là đòn giương đông kích tây, thực chất quân chủ lực đã ngược lên phương Bắc đánh chiếm Đốc Thành. Gia Lịch vốn đã ngờ vực trong lòng, đến nay thấy quân Khải Lăng cố tình trì hoãn không giao chiến, không tránh khỏi nghi ngờ với tình hình hiện tại. Đêm vừa buông xuống, lập tức truyền cho quân lính nhổ trại, ruổi ngựa hết tốc lực, chạy ngược về phía Bắc. Chạy suốt một ngày một đêm, đến được vùng núi non. Lâm Thụy Ân thúc quân mai phục trong núi đánh ra. Phía sau lưng, quân kỵ binh của Du kỵ Tướng quân cũng bén gót tìm tới, hai mặt giáp công Nỗ quân giữa vùng núi non hiểm trở.
Trận chiến ấy sau này đi vào sách sử với tên gọi "cuộc chiến tiểu quần sơn". Nỗ quân chinh chiến liền mấy ngày, lại thêm dặm trường bôn ba suốt một ngày một đêm, quân sĩ vốn đã mệt mỏi, hơn nữa vùng núi non này trùng điệp quanh co, ưu thế của kị binh không thể phát huy, Gia Lịch dũng mãnh vô song, dẫn đầu binh lính xông lên đánh phá ác liệt, khổ chiến suốt một đêm ròng, máu chảy thành sông, Nỗ binh thiệt hại quá nửa, Gia Lịch bị thương, bị bắt dưới chân núi. Lúc bị bắt giữ, phần lớn tướng lĩnh kề cận của Gia Lịch đã chết trong cuộc loạn chiến. Gia Lịch vô cùng hối hận, đồng thời lại kinh ngạc trước kế dụ địch của Khải Lăng, đã dò la tên thống soái của đối phương. Hay tin Lâm Thụy Ân kia tuổi mới hai mươi hai, thậm chí còn trẻ hơn mình hai tuổi, lòng vừa kinh hãi vừa u sầu, trầm mặc thật lâu mới ngửa mặt lên trời, buông tiếng thở dài, mà rằng: “Ta tự cho mình anh hùng xuất thiếu niên, hôm nay đại bại, mới hay thiên hạ rộng lớn nhường ấy, anh hùng há đâu chỉ mình ta.” Qua cơn cảm thán, lại tiếp: “Rồi sẽ có một ngày, kẻ tên Lâm Thụy Ân phải bại trong tay ta.”
Quân sư nghe tướng lĩnh bẩm lại những lời ấy, chỉ cười trừ, không rảnh bận tâm tới.
Đại quân chấn chỉnh một chút, Lâm Thụy Ân dẫn bộ hạ đem quân về kinh thành. Đi đường hết một tháng trời, lúc tới được kinh thành vừa hay chính giữa mùa thu, rừng phong nhuốm đỏ tầng tầng lớp lớp, bóng chiều rớt xuống lòng sông lăn tăn ánh lên hào quang vàng óng.
Một đêm trước lúc vào kinh, quân sư bước vào phòng Lâm Thụy Ân, mặt mày hớn hở.
“Tướng quân, lần này đối đầu với Nỗ quân thắng lợi lớn, ngài có công lớn nhất, Hoàng thượng vừa xuống chiếu, phong ngài làm Phụ quốc Đại tướng quân, từ nay về sau, ngài và Lâu thừa tướng bên văn bên võ ngang hàng nhau rồi.”
Lâm Thụy Ân ngồi bên cửa sổ, gió thu hiu hiu, cuốn theo một làn hương dịu dịu đưa vào phòng, hắn buông cuốn sách trong tay, gật nhẹ đầu, nét mặt thờ ơ, cũng chẳng có vẻ gì là vui mừng, miệng hỏi: “Giải Nỗ vương tử đến bộ Hình thế nào rồi?”
“Mã đại nhân đã đưa người đi rồi, còn nhờ ta gửi lời chúc mừng tới Tướng quân, nói sau này sẽ đến tận nơi chúc mừng.” Quân sư khe khẽ đáp, ngồi xuống ghế, lát sau vẫn không thấy Lâm Thụy Ân phản ứng gì, mới tiếp: “Lần này chúng ta vào kinh, trước hết cần chuẩn bị một phần hậu lễ tặng cho Lâu Thừa tướng.”
Lâm Thụy Ân lúc ấy mới thoáng ngạc nhiên trông về phía quân sư: “Hậu lễ?”
“Lâu thừa tướng thành thân đã hơn nửa tháng, Tướng quân ngài xuất chinh không có trong kinh, bây giờ trở lại rồi, tất nhiên phải tặng bù một phần lễ vật. Có điều chẳng biết phải tặng gì đây…”
Hắn vừa nghe liền nhướng mày, với những chuyện lễ tiết chốn quan trường như vậy lòng không chút hứng thú, ném cuốn sách trên tay xuống bàn, bàn tay bất giác dụng lực: “Tùy tiện tặng món gì đó là được rồi.’
Quân sư thu lại nụ cười, nhỏ tiếng, trầm giọng xuống: “Tướng quân chớ coi những việc như vậy là không quan trọng. Trong kinh thành, Lâu thừa tướng tuyệt đối không thể đắc tội. Sau này ngài và y đứng ngang hàng trên triều, ngàn vạn lần chớ nên khinh thường. Y chỉ là một ngoại thần, không hề có quan hệ thân thích với hoàng thất, bản thân không hề có gia thế hiển hách, mà có thể vững vàng ngồi vào vị trí đứng đầu văn quan, nắm giữ triều cương, người này không hề đơn giản đâu.”
“Chuyện đó cũng chẳng quan hệ tới ta.” Lâm Thụy Ân rất không đồng tình.
“Quan hệ vô cùng lớn.” Quân sư kiên định nói, nhưng không giải thích rõ, chỉ ngước mắt nhìn sang vị thiếu niên Tướng quân, ánh mắt âu sầu ủ dột.
“Quyền thế lớn quá ư…” Lâm Thụy Ân khẽ than một tiếng.
“Quyền lực có lớn đến đâu, cũng chẳng vượt quá trời, ngàn dặm non sông này trước sau vẫn là của Thiên tử!” Thế lực của Lâu Triệt trong triều thật sự quá mức lớn mạnh, cỏ dại có mọc thành rừng vẫn có lúc bị gió quật bật rễ. Đương kim Thánh thượng thật sự yếm thế vô năng, không hề có chính kiến như vẻ ngoài thật ư? Thế thì tại sao có thể một mặt thả cho Đoan Vương mặc sức hoành hành ngang ngược trong kinh, mặt khác để cho con cháu Lâm gia nhiều đời trung thành lập được đại công, chiếm lấy binh quyền? Những động thái ấy, chỉ là vô tình trùng hợp hay là cố ý sắp đặt? Đối với nhất cử nhất động trong triều vẫn nên thận trọng đối phó, quân sư vẫn âm thầm để tâm từng chút, đôi mắt hẹp dài hé ra một luồng tinh quang sáng quắc, nói ra nửa câu, còn lại lưu trong lòng.
Cũng chẳng biết có nghe ra được điều quân sư đang ám chỉ hay không, Lâm Thụy Ân lại cầm sách lên, mở sách ra, ánh nến bập bùng lay động trong gió, lờ mờ hắt xuống những dòng chữ trên sách, những con chữ kia dần trở nên mông lung, tụ thành một hàng, như thể sắp bốc hơi bay mất. Hắn cố sức đọc từng chữ từng câu, miệng khẽ thở hắt ra, thản nhiên nói: “Tặng cho Lâu phủ một phần hậu lễ, đích thân quân sư thay ta đưa tới, chúc mừng hôn lễ.”
Quân sư gật gật đầu: “Phải đề phòng tất cả người xung quanh, nhưng cũng phải để chúng không đề phòng mình, có thế mới là quan trường… Không, ấy chính là đạo sinh tồn trên thế gian này!”
Hắn siết chặt cuốn sách trong tay, trang sách lạnh băng nhốm hơi ấm từ bàn tay hắn, ấm áp, hắn thuận thế lật giở, "soạt" một tiếng, một trang sách phất qua, lời quân sư nói vừa dứt, gió lớn bùng lên, cửa sổ vọng tiếng cọt kẹt.
Quân sư trông ra cửa sổ, trầm ngâm một hồi, đột nhiên một ý tưởng xoẹt qua trong óc: “Lâu Thừa tướng cũng thành thân rồi, ngài tuổi cũng chẳng còn nhỏ nữa, lần này vào kinh, cũng nên lo lắng chuyện thành thân đi. Sư phụ cũng chưa từng hỏi ngài, thích kiểu con gái thế nào?”
Lâm Thụy Ân ngây người, tựa như vẫn chưa định thần lại được, gió lạnh bên ngoài ùa vào phòng từng trận từng trận, mơn man qua khuôn dung hắn. Lòng tựa hồ trống không một mảnh, rồi chẳng rõ vì sao lại trống rỗng. Ánh nến nhoáng lên bập bùng, hắt bóng hắn đổ dài trên đất, hắn ngây ngốc trông xuống, một lời "thành thân" của quân sư đâm thẳng vào lồng ngực hắn, tựa hồ khơi lên trong hắn một thứ gì đó mềm mại, thứ mềm mại vốn không được phép tồn tại trên sa trường…
Ngón tay buông lơi, trang sách kia bị gió thu lạnh lẽo thổi lật thật nhanh, từng trang từng trang quẹt qua ngực hắn, bên tai chỉ còn tiếng gió rít ào ào, ngọn đèn đong đưa trong gió chớp sáng chớp tối.
Hắn lạnh lùng nhìn về ngọn đèn duy nhất mang chút ánh sáng nọ, thấp giọng nói: “Ta cũng không biết.”
Xe ngựa của Thị lang bộ Hình Tiêu Khiêm dừng trước cổng phủ Phụ quốc Tướng quân. Lão vừa xuống xe bèn ngẩng đầu trông, nét mặt có chút gì kì quái. Xe ngựa chạy từ đầu hẻm tới, tai nghe văng vẳng vô số tiếng mời chào, tiếng người bán tạp hóa, tiếng người bán dầu, bán phấn son… trăm thứ ngôn ngữ pha tạp lẫn nhau, vẽ ra một vẻ phồn hoa đô hội chốn kinh kì. Thế nhưng ngay đầu con hẻm này lại chính là phủ Phụ quốc Tướng quân uy nghi bề thế, hai con sư tử bằng đá lặng lẽ canh bên cổng, đã khá nhiều năm trôi qua, cánh cổng lớn sơn son thiếp vàng vốn rực rỡ sắc đỏ thắm giờ đây u ám sẫm màu. Con hẻm dài thật dài này hệt như một cuộn tranh, lướt qua chốn phồn hoa náo nhiệt ngoài kia lạc bước tới nơi này, tựa như gột rửa hết phấn son, bày ra dáng vẻ chân thật. Sông thu với trời xa một màu như vậy, mộc mạc động lòng người, vẻ quạnh quẽ thê lương lại ngời lên một nét đẹp khác thường.
Phủ đệ như vậy, thật sự là của "Khải Lăng chi tường" Lâm Tướng quân được sao? Nghi hoặc thoảng qua trong dạ, nhưng chẳng còn thời gian để dây dưa nghĩ ngợi nhiều, Tiêu Khiêm tiến thêm hai bước, xà ích đã sớm gõ cửa, một người tiểu bộc vận áo xám giản dị ló mặt trông ra. Tiêu Khiêm âu lo hỏi: “Tiểu ca, nhờ ngươi báo với Lâm Tướng quân, Tiêu Khiêm Thị lang bộ Hình cầu kiến.”
Gã tiểu bộc kia giương ánh mắt trong veo đánh giá người đứng trước một lượt, thấy Tiêu Khiêm sắc mặt dẫu trầm tĩnh nhưng ánh mắt chất chứa âu lo, không hề giống với đám người vẫn chen chúc nhau tới cổng tặng quà dâng lễ mấy ngày nay. Bèn mở rộng cửa, gã tiểu bộc cúi đầu cụp mắt: “Tiêu đại nhân xin chờ, tiểu nhân vào trong bẩm báo.”
Tiêu Khiêm chẳng đợi kịp, lập tức sải một chân qua cửa, gấp gáp nói: “Tiểu ca, ta có việc rất gấp, cần nhanh chóng gặp Tướng quân, xin hãy châm chước.” Người tiểu bộc giật mình, nhìn sắc mặt Tiêu Khiêm không hề giống đang giả trá, huống hồ lão chức cao quyền trọng như vậy, việc gì phải giả dối, bèn lập tức gật đầu, dẫn đường đưa người vào trong phủ.
Đình, gác trong Lâm phủ hệt như thường thấy trong phủ các vị quan khác, chốn cần đình xây đình, nơi cần gác dựng gác, nơi nơi đều hết sức bình thường, không có gì đặc biệt. Trong sân trồng toàn hoa cúc, rực rỡ bung nở thành tràng, sắc vàng tươi khẽ rung rinh hoan hỉ.
Tiêu Khiêm nhanh chóng thấy Lâm Thụy Ân đang cúi mình trồng hoa.
Hắn cúi mình, xếp đặt khóm cây, không màng tới sự xung quanh. Người tiểu bộc nép bên bụi hoa, đánh bạo nói lớn: “Tướng quân, Tiêu đại nhân Thị lang bộ Hình cầu kiến.”
Hắn ngừng tay, buông xẻng trên tay xuống, đứng thẳng lên, lẻ loi giữa ngút ngàn hoa cỏ, đẹp đẽ như ngọc, phong tư trong sáng. Tiêu Khiêm thở dài trong dạ, cúi đầu, chắp tay vái chào, lòng lo lắng như kiến bò trên chảo dầu, thấy người thiếu niên Tướng quân ấy, chỉ cảm thấy hơi lạnh bức người, lòng bình thản trở lại.
“Tướng quân, Nỗ vương tử Gia Lịch trốn thoát mất rồi!”
Lâm Thụy Ân nhướng mày, không trông rõ lạnh lẽo trên mặt, Tiêu Khiêm chộn rộn trong lòng, trực giác mách cho lão rằng người thiếu niên trước mặt đang cực kỳ tức giận, khí tức lạnh băng giữa hàng lông mày kia lồ lộ không hề giấu giếm.
“Là thuộc hạ hành sự bất lực, Gia Lịch đau đớn không chịu nổi, ta cứ ngỡ nếu hắn có mệnh hệ gì, sẽ khó ăn khó nói với Hoàng thượng, vì thế mới đổi phòng giam cho hắn, ai ngờ…”
“Hiện giờ đã trốn tới đâu rồi?” Lâm Thụy Ân lướt vèo qua bụi hoa như sao xẹt qua bầu trời, cành lá đổ rụp xuống tán loạn theo chân hắn.
“Chỉ biết hắn trốn về phía chợ Bách Hoa!” Tiêu Khiêm dáng vẻ ủ rũ cụp mắt xuống, tránh đường, “Tướng quân! Bộ Binh đã điều binh mã, cổng thành cũng cho người canh gác nghiêm ngặt, chỉ cần giới nghiêm toàn thành…”
“Không cần phiền hà dân chúng!” Lâm Thụy Ân ấn đường nhíu chặt, quát khẽ, “Chiến sự vừa mới qua đi, chớ nên vọng động quấy nhiễu lòng dân.”
“Vâng!” Thị lang bộ Hình gật đầu như bổ củi, “Ý của Tướng quân là?”
“Cho quân lính âm thầm điều tra nghe ngóng, vẻ ngoài của người Nỗ tộc có nét đặc trưng rõ rệt, kinh thành và các vùng lân cận khó có thể lẩn tránh, tất nhiên không thể trốn xa được.” Mệnh lệnh của hắn giống như con người hắn, lạnh lùng như gió bấc thổi vào mặt, Tiêu Khiêm lên tiếng thưa vâng.
Chỉ lát sau, thủ binh vùng ngoại ô đã nhận được lệnh vào thành ngấm ngầm điều tra. Ngày hôm ấy, vốn là ngày Lâm Thụy Ân dẫn quân thắng trận về thành, dân chúng kinh đô và các vùng lân cận đều mừng rỡ vì chiến thắng miền biên ải, hớn hở tuôn về phía đường Bách Hoa, chỉ trong chốc lát, đầu đường cuối phố người san sát người, áo quần như nước, nhưng chẳng ai ngờ được vị Tướng quân trẻ tuổi kia đã im hơi lặng tiếng nhập kinh từ hai hôm trước.
Lâm Thụy Ân rời phủ đệ, đập vào mắt là cảnh sắc phồn hoa nhường ấy, dòng người rộn rã đổ xô về phía đường cái. Đi thẳng ra đầu ngõ, đèn đuốc sáng bừng lên, hàng ngàn hàng vạn ngọn đèn lung linh dọc con phố tựa như những chuỗi minh châu, mái hiên thềm nhà san sát nhau, mái nhà cong cong, kéo dài mãi về phía Hoàng cung, nóc nhà nhấp nhô cao thấp, hệt như một dòng chảy tụ lại chính nơi này, mà cũng như một mạng lưới dọc ngang bung rộng, vương mắc vào kinh thành.
Còn Gia Lịch, đang nằm giữa tấm lưới ấy.
Hắn định thần lại, hướng thẳng về phía phố Bách Hoa, bước chân vững vàng mà mạnh mẽ, không hề bối rối vì tên tội phạm đào tẩu, ánh mắt ngưng định, thu hết cảnh tượng phố xá tấp nập vào trong tầm mắt.
Cuối phố, dòng người tấp nập, dân chúng hớn hở nụ cười tươi rói trên môi chen nhau lướt tới, bóng người thấp thoáng lướt qua trước mắt hắn. Hắn đứng cuối phố, chau mày, con người hắn vốn không hợp với những nơi ồn ào náo nhiệt như vậy, lúc này đây, đứng lẫn trong dòng người, càng nổi bật cái cao ngạo của người thiếu niên.
‘Lão bá à, hôm nay kinh thành náo nức quá nhỉ, có chuện gì sao?” Kề bên, cách đó không xa có tiếng ai khe khẽ hỏi như thế, giọng điệu thật êm ái, thật thư thả.
Hóa ra giữa chốn phồn hoa đô hội này, vẫn còn có người giống như hắn, lầm đường lạc bước. Hắn quay đầu, liếc thấy chủ nhân của giọng nói kia, vóc người thật nhỏ bé, áo bào thêu chỉ bạc, đứng lặng bên góc đường, một nét mờ nhạt giữa bức họa sặc sỡ náo nhiệt chốn này. Hắn vốn tưởng người đó là một cô gái, tới giờ trông rõ dáng hình, mới hay đó là một công tử nhà quan.
Nghe được câu hỏi của thiếu niên kia, ông lão dáng chừng không kiên nhẫn nổi, chỉ bảo: “Chàng trai trẻ này, chắc bình thường chỉ biết rong chơi vui đùa không màng chuyện quốc gia đại sự phải không? Hôm nay là ngày Lâm Thiếu tướng quân đại thắng dẫn binh trở về, lát nữa quân khải hoàn sẽ đi qua phố Bách Hoa này.”
Vốn đã rời mắt đi, thế nhưng vừa nghe được lời ông lão đáp, Lâm Thụy Ân quay đầu trông lại, đập vào mắt là mái tóc bạc quá nửa của ông lão đang cúi đầu chuyện dông dài, có điều vừa nhắc tới Lâm Tướng quân, lại có vẻ đắc ý không thể che giấu nổi. Trong lòng Lâm Thụy Ân kịch chấn, chân đã muốn bước cuối cùng lại dừng.
Hắn vốn không hề hay biết, khắp chốn kinh kì này, sẽ có những người như ông lão tóc bạc kia, bày biện một sạp nhỏ cuối phố kiếm ăn qua ngày, nói cười không ngớt, nhắc đến tên hắn bằng giọng điệu như vậy. Ấy là một thứ chờ mong, ấy là một niềm kiêu hãnh, thứ mà bạc vàng châu báu triều đình ban tặng, đủ lời khen tặng ngợi ca của đồng liêu trong triều há có thể so sánh…
Một tiếng "Lâm Tướng quân" gói gọn bao nhiêu ý nghĩa kia nặng nề biết mấy, hắn nghĩ thầm, tự hỏi, so với máu tươi sĩ tốt trút xuống chiến trường, sức nặng ngang nhau không?
Thật sự ngang nhau không?
Lòng đột nhiên trĩu nặng, nghĩ tới Gia Lịch còn đang lẩn trốn, hắn thu lại những mối suy tư vụn vặt, xoay người rời đi, không một lần ngoảnh đầu lại.
Ông lão kia giờ đây đã ngẩng đầu lên, nhác thấy dung nhan người thiếu niên hỏi đường, nghẹn họng trân trối, thấp giọng thì thào: “Đám trẻ tuổi thời nay… trông đều đẹp đẽ vậy sao?”
Thác duyên (duyên nhầm)
Muôn ngàn cây xanh rợp trời, cổng chùa rộng mở.
Tiếng tụng Phật rầm rầm rì rì dồn vào tai, lẫn trong đó là tiếng người ồn ào huyên náo, ngược lại có phần tĩnh lặng đến xa xôi.
“Thụy Ân, đừng có bày mãi ra cái bộ mặt như vậy nữa, có tuấn tú đến mấy cũng vô ích thôi!” Tà áo vàng lay động chập chờn, gương mặt thoáng chút giận dỗi của Lâm Nhiễm Y trở đi trở lại trước mặt hắn, “Mấy ngày nữa đệ phải trở về Ngọc Hiệp quan rồi, hôm nay lên chùa cầu phúc, mặt mũi đệ lạnh te như cục băng thế này là sao chứ, định dọa cả Phật tổ chắc!”
Ậm ừ vài tiếng trầm trầm, Lâm Thụy Ân đành nhếch môi nở nụ cười nhàn nhạt, có phần bất đắc dĩ. Lâm Nhiễm Y có vẻ vừa lòng, mím môi cười, rồi thật nhanh chen chân vào giữa dòng người đang cuồn cuộn kéo tới trong nội điện.
Chùa Hồng Phúc luôn nghi ngút nhang khói, hôm nay cơ hồ có thể dùng một từ náo nhiệt để miêu tả, Lâm Thụy Ân khoan thai bước từng bước, vòng một lượt qua La Hán đường, Đông Nhạc điện(1), Quan Âm điện, Nhiên Đăng điện(2), lướt qua xem xét tất cả, mắt thấy nơi nơi đều là người, từ những vị quan lớn vinh hiển quyền quý đến thương nhân, bá tính tầm thường, hôm nay lại có nhiều người như vậy đến chốn này cầu Phật. Tinh mắt trông theo một bóng người áo màu vàng nhạt đi thẳng vào Đại hùng bảo điện(3), bước chân chợt ngưng. Ngẩng đầu trông lên, tượng Di đà tam tôn(4) uy đức trang nghiêm đập thẳng vào mắt, đầu óc hắn choáng váng, bên tai còn văng vẳng tiếng người niệm Phật rì rầm, tựa như cõi Sa Bà(5) lắm mối phiền não đang bày ra trước mắt.
(1) Nơi thờ Đông Nhạc Đại Đế phong là "Đông Nhạc Thái Sơn Thiên Trai Nhân Thánh Đại Đế" cai quản bảy mươi hai tầng Địa phủ (Đông Nhạc cung – một trong ba cung lớn giúp cai quản khắp cõi đất trời) theo giáo lý Đạo giáo.
(2) Nơi thờ Nhiên Đăng Cổ Phật (Dipankara hay Đính Quang Phật), vị Phật thứ tư trong danh sách hai mươi tám vị Phật. Trong Đại Trí Độ Luận viết khi đức Nhiên Đăng Cổ Phật đản sinh, chung quanh thân sáng như đèn, cho nên gọi là Nhiên Đăng Thái Tử (Nhiên Đăng có nghĩa là đốt đèn), sau này thành Phật cũng dùng chữ ấy mà gọi.
(3) Điện báu thờ đấng Đại hùng (tức đức Phật có đại hùng, đại lực, đại từ bi), là cách gọi thành kính, tôn nghiêm của "chính điện" – nơi tôn trí, thờ phụng hình tượng Phật, Bồ Tát thường được xây ở gian giữa của các ngôi chùa.
(4) Di Đà tam tôn hay Tây Phương Tam Thánh là ba vị Thánh được coi là những đấng tiếp dẫn chúng sinh ở mười phương Phật, cùng được tôn thờ, bằng tranh hay tượng tại nhà hoặc các chùa chiền theo hàng ngang, bao gồm Phật A Di Đà ở giữa và hai vị Quan Thế Âm Đại Thế Chỉ ở hai bên.
(5) Hay còn gọi là "đại nhẫn, kham nhẫn". Cõi Sa Bà là cõi được Phật Thích Ca giáo hóa, là nơi có người ở, có nhiều điều khổ sở, phiền muộn, đòi hỏi chúng sinh ở đó phải chịu đựng nhiều, phải nhẫn nhục lớn.
“Đại hùng bảo điện, đại bao hàm vạn hữu; hùng nhiếp phục quần ma.” Thấy Lâm Thụy Ân sửng sốt ngây người, Lâm Nhiễm Y tươi cười giải thích.
Nhiếp phục quần ma ư?
Bất giác trong đầu hiện lên quang cảnh huyết chiến chốn sa trường, Lâm Thụy Ân nhếch môi nở một nụ cười hiếm thấy, ngồi trên cao vời vợi như vậy, có thể nhiếp phục quần ma được ư? Phật tổ à Phật tổ, rốt cuộc là người khờ dại hay là thế nhân ngây ngô đây?
Bắt gặp nụ cười của Lâm Thụy Ân, Nhiễm Y ghé sát lại gần, hé miệng cười hi hi: “Đệ cũng nghe nói rồi phải không?”
“Nghe nói gì cơ?” Lâm Thụy Ân nghi hoặc hỏi lại.
“Hai đại mỹ nhân nức danh kinh thành đến đây dâng hương ấy!”, ra vẻ biết tỏng, Lâm Nhiễm Y có vẻ vô cùng hưng phấn, “Nghe danh kinh kỳ 'Xuân Huỳnh Văn Nguyệt' từ lâu, thật cũng muốn được mở rộng tầm mắt.”
Nếu là người khác nói mấy lời như vậy, hắn đã sớm quay lưng bỏ đi thẳng, có điều trước mắt chính là chị gái ruột, hắn ngoại trừ bất đắc dĩ ra, chỉ còn bất đắc dĩ. Nhìn cái vẻ không đồng tình của em trai, Nhiễm Y bĩu môi: “Đệ cũng quá hai mươi rồi, cũng đến tuổi phải kiếm lấy một cô vợ là vừa, khuê tú kinh thành nhiều vô số kể, chẳng biết ai mới vừa nổi mắt đệ, đệ cứ dây dưa mãi như vậy, hương hỏa Lâm gia sau này tính sao đây? Chi bằng hôm nay đi xem mắt hai vị đại mỹ nhân này đi, mỹ nhân vạn người có một, nếu đệ vẫn còn thấy không hợp nhãn, xem ra đời này chỉ còn nước cạo đầu làm sư mà thôi.” Nói rồi liền kéo Lâm Thụy Ân hướng thẳng vào trong.
Lâm Thụy Ân cau mày, chỉ đành lẽo đẽo theo vào nội điện phía sau. Lâm Nhiễm Y lôi lôi kéo kéo mấy vị tăng nhân, hỏi thăm một loạt, cuối cùng còn đem cả thân phận thật ra đe dọa mới biết tin, hai vị mỹ nhân kia ghé chùa từ cửa sau. Nàng nuối tiếc thở dài, bỏ lỡ mất cơ hội. Nhưng rồi lại nghe rằng hai người đẹp vẫn chưa rời đi, liền mừng thầm trong dạ.
“Tỷ tỷ, đó là rình trộm.” Cảm nhận rõ ý đồ của Lâm Nhiễm Y, Lâm Thụy Ân lạnh giọng nhắc nhở.
“Ta chỉ ngắm hoa thôi.” Trâng tráo đốp lại, Lâm Nhiễm Y đi vòng đến Quảng Lực điện, quay ngoắt lại ném cho Lâm Thụy Ân một cái nhìn với hàm ý rõ ràng “ đứng đây chờ ta”, rồi hướng thẳng về phía chính điện.
Thầm thở dài một tiếng, đứng chờ một hồi, thấy một đàn tiểu sa di chạy tới, sợ bịn họ hỏi han phiền nhiễu, sẽ gặp thêm rắc rối, hắn bèn chậm rãi đi quanh, tiến bước mà vô mục đích. Đi qua thiên điện, liền nghe được tiếng nữ nhân dịu dàng truyền tới: “Tiểu thư, nghe kể tích xưa như vậy, thẻ này là điềm xấu quá đỗi, hay là ném đi đi.”
Ánh ngọc trắng xẹt qua trước mắt, thanh thúy chạm đất, rơi xuống ngay trước chân hắn, Lâm Thụy Ân cúi đầu, thấy một thẻ xăm bằng ngọc nằm yên trên đất. Cúi người nhặt lên, trên thẻ xăm khắc rành rành hai chữ sắc nét “Đế Vương Yến”.
“Linh Lung, muốn ném cũng đâu thể ném ở đây chứ, mau đi nhặt quẻ lại đây chớ để kẻ khác chê cười.” Tiếng ngân nga như gió thoảng, ý cười hòa nhã ấm áp, giọng nói ấy êm ái đến cực điểm, ngọt ngào cảm động, rót vào tai khiến Lâm Thụy Ân thất thần giây lát. Có tiếng người chạy lại, bóng một tiểu tì áo xanh vọt ra khỏi điện, ngược sáng, khó mà trông rõ dung mạo của nàng. Nha hoàn tên gọi Linh Lung kia tựa hồ không ngờ ngoài điện còn có người khác, ngây ngốc sững người, cúi chào, nhận lấy thẻ bài, nói lời cảm ơn, rồi lại rảo bước chạy vào trong điện.
Gió lạnh ùa qua thân mình, trong điện đã vắng tiếng người, nghĩ tới chuyện nơi đây là chốn thâm nghiêm tĩnh mịch, trong điện vẫn còn nhiều nữ quyến, hắn không dám lưu lại lâu, liền xoay người rời đi, trước khi đi còn mơ hồ thoáng thấy, la y vụ sa, y phục phiêu diêu.
Quay lại Quảng Lực chính điện, Lâm Nhiễm Y uể oải đón hắn: “Cả hai đi mất tiêu rồi.” Bật cười một tiếng an ủi, Lâm Thụy Ân nói: “Đã vô duyên thì cần gì phải cưỡng cầu?”
Ba ngày sau, Lâm phủ nhận được thư từ bộ Binh, Nỗ quân cậy mạnh liên tiếp xâm lấn các thành trấn biên cảnh quanh ải Ngọc Hiệp, Lâm Thụy Ân lập tức rời kinh, tiến thẳng tới ải Ngọc Hiệp. Mà thống soái Nỗ quân khi đó, là con trai thứ hai được Nỗ vương vô cùng yêu thương, Gia Lịch.
* * *
Gió chiều nổi lên, gầm rú cuồng nộ, mây cuối chân trời tan tác như tơ, bầu trời như quyện thành một khối với bình nguyên rậm rạp, phân không rõ đâu là trời, đâu là đất.
“Tướng quân!”
Lâm Thụy Ân quay đầu lại, sườn gương mặt sắc như đao cắt, góc cạnh rõ ràng, đường nét tinh tế, không hề nhuốm chút xù xì thô ráp nào của máu lửa chinh chiến sa trường. Người vừa đến thoáng giật mình, rồi bật cười sang sảng, đưa tới một chén canh, tỏa ra hương thơm ngào ngạt quyến rũ.
“Đây là canh thịt đầu bếp nấu, tối nay Tướng quân còn chưa ăn gì đúng không?”
Đưa tay nhận lấy chén canh, hơi nóng hầm hập có phần bỏng rát tay, hắn thoáng chớp mắt vài cái không ai nhận ra, đưa canh lên miệng, nóng rực như cụm lửa tràn vào cuống họng, cứ thế xộc thẳng vào ngực. Bao nhiêu hơi lạnh lẽo hòa lẫn trong gió theo hơi nóng đang cuộn trong lòng mà tiêu tan.
“Cảm ơn!”
“Ấy… a?” Người vừa tới kia mở trừng mắt, hệt như bị kinh hãi vì câu nói vừa rồi, khoát khoát tay rất không tự nhiên, “Tướng quân à… Sao Tướng quân lại khách khí đến thế chứ… Đây là đầu bếp đưa cho tôi… Tôi, tôi là Lý Dũng, trong quân còn gọi tôi là Đại Dũng…” Đột nhiên phát hiện ra không biết mình đang lắp bắp luyên thuyên những gì, mặt hắn chợt đỏ lựng lên, đưa tay gãi đầu. Rất lâu sau vẫn không thấy tiếng đáp lại, hắn mới len lén ngước mắt, liếc trộm Lâm Thụy Ân một cái, trên gương mặt lạnh lùng kia, bờ môi nhếch cong cong như vầng trăng non, tựa như mỉm cười.
Hóa ra vị Tướng quân này cũng chẳng lãnh mạc lạnh lùng như vẻ ngoài, rốt cuộc vẫn chỉ là một thiếu niên mà thôi! Đại Dũng vừa nghĩ vậy, liền mạnh dạn lên gấp mấy lần, khẽ nói: “Tướng quân, chốn này đến cây cỏ cũng chẳng mấy thứ mọc nổi, người nhìn mãi suốt ba ngày nay, rốt cuộc đang nhìn gì vậy?”
Lâm Thụy Ân quay đầu trông về chân trời xa mịt mờ gió cát, nói: "Ta đang xem xét gió bụi nơi này.”
“Gió bụi?”
“Nơi này lạnh lẽo khủng khiếp, gió bụi cũng như bão cuộn, thế nhưng Nỗ quân lại có thể tôi luyện trên mảnh đất như vậy nên ý chí và sức chiến đấu mới càng kiên định hơn chúng ta rất nhiều…” Lâm Thụy Ân không hề quay đầu lại, nhẹ giọng thở dài, như thể đang tự nói với chính mình.
Đại Dũng lặng thinh không lên tiếng, nghe được những lời ấy, hắn chợt có cảm giác bản thân như một dây cung bị khơi lên, nhưng không có cách gì tả lại được. Ngẫm ngợi nửa ngày, hắn mới mở miệng: “Nỗ quân quả thực rất mạnh mẽ, giao tranh triền miên suốt ba tháng ở đây với chúng ta, có điều… có điều, nơi này rất lớn, thuận lợi cho ngựa chiến rong ruổi, ở đây có thể bất lợi cho chúng ta, nếu, nếu mà có thể chuyển sang chốn khác…”
Lâm Thụy Ân vụt quay đầu, có phần bất ngờ liếc mắt nhìn đối phương.
Trong lòng Đại Dũng phát run, chạm phải ánh mắt của vị thiếu niên Tướng quân này, trong lạnh lẽo có kiên định, giống như bảo kiếm vừa rút ra khỏi vỏ. Hắn từng gặp vô số người chốn sa trường, nhưng chưa từng thấy ánh mắt không hề giấu giếm mà lại rất mực đẹp đẽ như thế. Ánh mắt trong trẻo lạnh lùng ấy đảo một vòng trên người hắn, hắn bất giác căng thẳng lên tiếng: “Tướng, Tướng quân, tôi nói sai gì hay sao?”
“Không phải!” Lâm Thụy Ân đáp, “Cách nghĩ của ngươi không hẹn mà hợp với ý ta.”
Đại Dũng tròn mắt líu lưỡi nhìn Lâm Thụy Ân, cũng không để ý đến thân phận khác biệt nữa: “Ý Tướng quân là vừa rồi tôi đã nói đúng ư?”
Lâm Thụy Ân gật đầu: “Nơi này đất đai rộng lớn, rất thích hợp kỵ binh tác chiến, vòng quanh, bọc đánh đều có được sự yểm hộ rất lớn về địa lý. Kỵ binh quân ta không bằng Nỗ quân, mà ưu thế của bộ binh lại không phát huy được, tuy binh lực trội hơn, nhưng trên chiến trường luôn rơi vào thế hạ phong. Nếu dụ Nỗ quân đến dãy núi nhỏ quanh co, kỵ binh bị hạn chế, Nỗ quân tất bại.”
Đại Dũng liên tục gật đầu đồng tình. Phía sau lại vang thêm một giọng nói dịu dàng: “Theo Tướng quân thấy, nên dùng cách gì để kéo Nỗ quân về phía dãy núi ấy đây?” Nghe tiếng ấy, Đại Dũng cơ hồ nhảy dựng lên. Ngoảnh đầu trông lại, quả nhiên là một văn sĩ trung niên áo vải, diện mạo tao nhã. Trong quân đội này, y thậm chí còn đáng sợ hơn cả Tướng quân. Chấp pháp nghiêm minh không hề chùn tay khoan nhượng, hơn nữa còn cơ trí giảo hoạt, sau lưng người ta gọi y là "hồ ly quân sư".
Lâm Thụy Ân không hề có vẻ gì là ngạc nhiên, chỉ bình thản hỏi: “Quân sư chuyến này đi thuận lợi chứ?”
Quân sư mỉm cười ôn hòa: “Lần này đi thực rất thuận lợi, hơn nữa hết thảy đều như dự liệu của Tướng quân!” Y nhìn nhìn Đại Dũng đang căng thẳng gần bên, lại hỏi, “Vừa rồi Tướng quân nói, cần phải dẫn dụ được Nỗ binh đến dãy núi, có phải có liên quan với nhiệm vụ phái ta đi lần này không?”
“Đúng thế.” Lâm Thụy Ân thản nhiên thừa nhận, “Quân sư lần này đi xác định đường sá, chính là điểm mấu chốt để dẫn dụ Nỗ binh vào tròng.” Hắn đặt chiếc bát không trên tay xuống, lấy trong tay áo một tấm da dê rất mỏng, bày trên mặt đất, dùng bát chặn một góc, ngón tay chỉ vào những đường dọc ngang đan chéo trên mảnh địa đồ: “Đường quân sư đi lần này, tổng cộng qua mấy thị trấn?”
“Năm.”
“Thống soái Nỗ binh hiện giờ là ai?”
“Nhị vương tử Nỗ tộc, Gia Lịch.”
Quân sư và Đại Dũng thay nhau trả lời, một trước một sau. Lâm Thụy Ân thoáng trầm ngâm, nói: “Thời cơ đến rồi! Ngày mai khởi binh chia hai lộ, một lộ tiếp tục dây dưa với Nỗ binh, đồng thời dẫn dụ chúng sang phía Tây…’
Đại Dũng kinh hô: “Nhưng dãy núi ở sườn Bắc, sao lại dụ chúng về phía Tây chứ?”
Quân sư lãnh đạm liếc mắt nhìn hắn một cái, hắn lập tức thấy luống cuống, những lời sau đó lập tức nghẹn lại trong họng.
Lâm Thụy Ân ngược lại không hề phật ý, nói: “Một lộ khác tiến thẳng đến dải núi kia mai phục tại đó. Lộ thứ nhất dẫn dụ quân Nỗ xuôi về phía Tây, băng qua liền năm thị trấn, dọc đường chỉ được phép bại không được phép thắng. Dựa vào ba tháng hành quân đánh trận vừa qua của Nỗ binh, có thể thấy Gia Lịch tuyệt không phải loại vô năng, một đường xuôi về phía Tây, liên tiếp thắng liền năm trận, hắn há có thể không sinh lòng nghi ngờ sao. Đến lúc ấy gieo rắc lời đồn trong quân, nói mục đích thực sự của quân ta lần này là đánh thắng Đốc Thành, hắn vốn đã có lòng ngờ vực chuyện bại liền năm trận ấy chỉ là trò tung hỏa mù che mắt thiên hạ, đến khi đó tất sẽ mắc mưu. Đến lúc ấy, hắn chỉ còn cách ra roi thúc ngựa, dẫn quân ngược về Đốc Thành, trên đường Bắc thượng, ngay trên đường vào núi đã có phục binh. Còn một lộ binh khác, có thể đuổi sau chừng ba mươi dặm đường, chặn sau quân đội của Gia Lịch. Như vậy, khi đến dãy núi kia, nơi đó núi non trùng trùng, ưu thế của kỵ binh hoàn toàn không còn, hơn nữa Nỗ binh bôn ba suốt dọc đường, tất nhiên mệt mỏi không chịu nổi, lúc này quân ta hai mặt trước sau giáp kích, thắng bại ngay trước mắt.’
Nghe xong tất cả những lời ấy, rất lâu sau quân sư vẫn không nói một lời, tiếng gió ào ào vẫn rít gào lướt qua. Đại Dũng há hốc miệng, mãi vẫn không ngậm lại được.
‘Ngài thành tài rồi!” Quân sư thở dài, “Lần này dẫu ta biết ngài có lòng muốn dẫn dụ Nỗ quân vào núi, nhưng ta nghĩ tới nghĩ lui, thật nghĩ không ra một biện pháp chu toàn đến thế, kế sách này của ngài, lấy tâm lý chiến làm đầu, hơn nữa còn dĩ dật đãi lao, dùng sở trường của ta đánh vào sở đoản của địch. Cao minh hơn ta rất nhiều!” Nói đến câu cuối cùng, quân sư dường như có chút âu sầu. Ánh mắt ấm áp hiền hậu chăm chú nhìn Lâm Thụy Ân, thầm nhớ lại năm xưa khi hắn còn nhỏ dại, chính y từng câu từng chữ tay bắt tay nắn nót dạy cho hắn binh thư kế sách, vậy mà mới chớp mắt đó, hắn đã có thể tự mình bày kế sách, phân định thắng bại từ ngoài ngàn dặm.
Thời gian thấm thoắt thoi đưa, suy cho cùng cũng chỉ như một nháy mắt mà thôi. Chuyện thế gian này, nói dài, chẳng qua cũng chỉ vài chục năm, kỳ thực, không phải chỉ là một chớp mắt hay sao?
Lâm Thụy Ân nhìn quân sư, cảm thấy thật nhiều thật nhiều xúc cảm trong ánh mắt của con người giống như vị cha hiền kia, nét dịu dàng ôn hòa thoáng quan khuôn mặt lạnh lẽo và kính cẩn. Ngược lại, thấy sắc mặt Đại Dũng vừa mừng vừa lo pha lẫn kính sợ. Sau lưng hắn, một tòa thành sáng choang đèn đuốc… Thuở nhỏ học binh pháp, sư trưởng gửi gắm biết bao kỳ vọng, không gì khác là bảo vệ núi sông này, nghĩ đến đây, lồng ngực không khỏi nóng rực lên, vươn vai đứng thẳng tắp, trông về phía chân trời xa.
Trên ngọn Yên Sơn, trăng non như lưỡi câu.
Ba ngày sau, tất cả đều theo đúng kế hoạch của Lâm Thụy Ân. Do Du kỵ Tướng quân dẫn binh giao chiến với Nỗ quân cách ngoài ải Ngọc Hiệp chừng năm mươi dặm. Trận chiến kéo dài nửa ngày, quân Khải Lăng bại trận, rút quân về Đàm Thành ở phía Tây, Nỗ tộc quyết đuổi dồn sang Tây. Xế chiều hôm sau, quân hai phe lại giao chiến ngoài thành, quân đội Khải Lăng tiếp tục bại, lùi tiếp ba mươi dặm, liền như vậy suốt tám ngày, quân Khải Lăng thua mất năm thành, Nỗ quân đại thắng.
Trận này thống soái Nỗ binh là Gia Lịch, Nhị vương tử của Nỗ vương, kẻ này trời sinh tính tình cuồng ngạo, từ nhỏ đã thông minh hơn người, được Nỗ vương cưng chiều, mấy ngày liền giao chiến với quân đội Khải Lăng, liên tục đại thắng, lòng quân phấn chấn vô cùng. Thế nhưng, dẫu cho cao ngạo đến mấy, hắn vẫn là người cẩn trọng. Lòng không khỏi nảy sinh nghi hoặc. Ngưng chiến hai ngày, dần dần có lời đồn gieo rắc trong lòng quân, còn cả tin trinh thám báo về, nói quân Khải Lăng chạy về phía Tây chỉ là đòn giương đông kích tây, thực chất quân chủ lực đã ngược lên phương Bắc đánh chiếm Đốc Thành. Gia Lịch vốn đã ngờ vực trong lòng, đến nay thấy quân Khải Lăng cố tình trì hoãn không giao chiến, không tránh khỏi nghi ngờ với tình hình hiện tại. Đêm vừa buông xuống, lập tức truyền cho quân lính nhổ trại, ruổi ngựa hết tốc lực, chạy ngược về phía Bắc. Chạy suốt một ngày một đêm, đến được vùng núi non. Lâm Thụy Ân thúc quân mai phục trong núi đánh ra. Phía sau lưng, quân kỵ binh của Du kỵ Tướng quân cũng bén gót tìm tới, hai mặt giáp công Nỗ quân giữa vùng núi non hiểm trở.
Trận chiến ấy sau này đi vào sách sử với tên gọi "cuộc chiến tiểu quần sơn". Nỗ quân chinh chiến liền mấy ngày, lại thêm dặm trường bôn ba suốt một ngày một đêm, quân sĩ vốn đã mệt mỏi, hơn nữa vùng núi non này trùng điệp quanh co, ưu thế của kị binh không thể phát huy, Gia Lịch dũng mãnh vô song, dẫn đầu binh lính xông lên đánh phá ác liệt, khổ chiến suốt một đêm ròng, máu chảy thành sông, Nỗ binh thiệt hại quá nửa, Gia Lịch bị thương, bị bắt dưới chân núi. Lúc bị bắt giữ, phần lớn tướng lĩnh kề cận của Gia Lịch đã chết trong cuộc loạn chiến. Gia Lịch vô cùng hối hận, đồng thời lại kinh ngạc trước kế dụ địch của Khải Lăng, đã dò la tên thống soái của đối phương. Hay tin Lâm Thụy Ân kia tuổi mới hai mươi hai, thậm chí còn trẻ hơn mình hai tuổi, lòng vừa kinh hãi vừa u sầu, trầm mặc thật lâu mới ngửa mặt lên trời, buông tiếng thở dài, mà rằng: “Ta tự cho mình anh hùng xuất thiếu niên, hôm nay đại bại, mới hay thiên hạ rộng lớn nhường ấy, anh hùng há đâu chỉ mình ta.” Qua cơn cảm thán, lại tiếp: “Rồi sẽ có một ngày, kẻ tên Lâm Thụy Ân phải bại trong tay ta.”
Quân sư nghe tướng lĩnh bẩm lại những lời ấy, chỉ cười trừ, không rảnh bận tâm tới.
Đại quân chấn chỉnh một chút, Lâm Thụy Ân dẫn bộ hạ đem quân về kinh thành. Đi đường hết một tháng trời, lúc tới được kinh thành vừa hay chính giữa mùa thu, rừng phong nhuốm đỏ tầng tầng lớp lớp, bóng chiều rớt xuống lòng sông lăn tăn ánh lên hào quang vàng óng.
Một đêm trước lúc vào kinh, quân sư bước vào phòng Lâm Thụy Ân, mặt mày hớn hở.
“Tướng quân, lần này đối đầu với Nỗ quân thắng lợi lớn, ngài có công lớn nhất, Hoàng thượng vừa xuống chiếu, phong ngài làm Phụ quốc Đại tướng quân, từ nay về sau, ngài và Lâu thừa tướng bên văn bên võ ngang hàng nhau rồi.”
Lâm Thụy Ân ngồi bên cửa sổ, gió thu hiu hiu, cuốn theo một làn hương dịu dịu đưa vào phòng, hắn buông cuốn sách trong tay, gật nhẹ đầu, nét mặt thờ ơ, cũng chẳng có vẻ gì là vui mừng, miệng hỏi: “Giải Nỗ vương tử đến bộ Hình thế nào rồi?”
“Mã đại nhân đã đưa người đi rồi, còn nhờ ta gửi lời chúc mừng tới Tướng quân, nói sau này sẽ đến tận nơi chúc mừng.” Quân sư khe khẽ đáp, ngồi xuống ghế, lát sau vẫn không thấy Lâm Thụy Ân phản ứng gì, mới tiếp: “Lần này chúng ta vào kinh, trước hết cần chuẩn bị một phần hậu lễ tặng cho Lâu Thừa tướng.”
Lâm Thụy Ân lúc ấy mới thoáng ngạc nhiên trông về phía quân sư: “Hậu lễ?”
“Lâu thừa tướng thành thân đã hơn nửa tháng, Tướng quân ngài xuất chinh không có trong kinh, bây giờ trở lại rồi, tất nhiên phải tặng bù một phần lễ vật. Có điều chẳng biết phải tặng gì đây…”
Hắn vừa nghe liền nhướng mày, với những chuyện lễ tiết chốn quan trường như vậy lòng không chút hứng thú, ném cuốn sách trên tay xuống bàn, bàn tay bất giác dụng lực: “Tùy tiện tặng món gì đó là được rồi.’
Quân sư thu lại nụ cười, nhỏ tiếng, trầm giọng xuống: “Tướng quân chớ coi những việc như vậy là không quan trọng. Trong kinh thành, Lâu thừa tướng tuyệt đối không thể đắc tội. Sau này ngài và y đứng ngang hàng trên triều, ngàn vạn lần chớ nên khinh thường. Y chỉ là một ngoại thần, không hề có quan hệ thân thích với hoàng thất, bản thân không hề có gia thế hiển hách, mà có thể vững vàng ngồi vào vị trí đứng đầu văn quan, nắm giữ triều cương, người này không hề đơn giản đâu.”
“Chuyện đó cũng chẳng quan hệ tới ta.” Lâm Thụy Ân rất không đồng tình.
“Quan hệ vô cùng lớn.” Quân sư kiên định nói, nhưng không giải thích rõ, chỉ ngước mắt nhìn sang vị thiếu niên Tướng quân, ánh mắt âu sầu ủ dột.
“Quyền thế lớn quá ư…” Lâm Thụy Ân khẽ than một tiếng.
“Quyền lực có lớn đến đâu, cũng chẳng vượt quá trời, ngàn dặm non sông này trước sau vẫn là của Thiên tử!” Thế lực của Lâu Triệt trong triều thật sự quá mức lớn mạnh, cỏ dại có mọc thành rừng vẫn có lúc bị gió quật bật rễ. Đương kim Thánh thượng thật sự yếm thế vô năng, không hề có chính kiến như vẻ ngoài thật ư? Thế thì tại sao có thể một mặt thả cho Đoan Vương mặc sức hoành hành ngang ngược trong kinh, mặt khác để cho con cháu Lâm gia nhiều đời trung thành lập được đại công, chiếm lấy binh quyền? Những động thái ấy, chỉ là vô tình trùng hợp hay là cố ý sắp đặt? Đối với nhất cử nhất động trong triều vẫn nên thận trọng đối phó, quân sư vẫn âm thầm để tâm từng chút, đôi mắt hẹp dài hé ra một luồng tinh quang sáng quắc, nói ra nửa câu, còn lại lưu trong lòng.
Cũng chẳng biết có nghe ra được điều quân sư đang ám chỉ hay không, Lâm Thụy Ân lại cầm sách lên, mở sách ra, ánh nến bập bùng lay động trong gió, lờ mờ hắt xuống những dòng chữ trên sách, những con chữ kia dần trở nên mông lung, tụ thành một hàng, như thể sắp bốc hơi bay mất. Hắn cố sức đọc từng chữ từng câu, miệng khẽ thở hắt ra, thản nhiên nói: “Tặng cho Lâu phủ một phần hậu lễ, đích thân quân sư thay ta đưa tới, chúc mừng hôn lễ.”
Quân sư gật gật đầu: “Phải đề phòng tất cả người xung quanh, nhưng cũng phải để chúng không đề phòng mình, có thế mới là quan trường… Không, ấy chính là đạo sinh tồn trên thế gian này!”
Hắn siết chặt cuốn sách trong tay, trang sách lạnh băng nhốm hơi ấm từ bàn tay hắn, ấm áp, hắn thuận thế lật giở, "soạt" một tiếng, một trang sách phất qua, lời quân sư nói vừa dứt, gió lớn bùng lên, cửa sổ vọng tiếng cọt kẹt.
Quân sư trông ra cửa sổ, trầm ngâm một hồi, đột nhiên một ý tưởng xoẹt qua trong óc: “Lâu Thừa tướng cũng thành thân rồi, ngài tuổi cũng chẳng còn nhỏ nữa, lần này vào kinh, cũng nên lo lắng chuyện thành thân đi. Sư phụ cũng chưa từng hỏi ngài, thích kiểu con gái thế nào?”
Lâm Thụy Ân ngây người, tựa như vẫn chưa định thần lại được, gió lạnh bên ngoài ùa vào phòng từng trận từng trận, mơn man qua khuôn dung hắn. Lòng tựa hồ trống không một mảnh, rồi chẳng rõ vì sao lại trống rỗng. Ánh nến nhoáng lên bập bùng, hắt bóng hắn đổ dài trên đất, hắn ngây ngốc trông xuống, một lời "thành thân" của quân sư đâm thẳng vào lồng ngực hắn, tựa hồ khơi lên trong hắn một thứ gì đó mềm mại, thứ mềm mại vốn không được phép tồn tại trên sa trường…
Ngón tay buông lơi, trang sách kia bị gió thu lạnh lẽo thổi lật thật nhanh, từng trang từng trang quẹt qua ngực hắn, bên tai chỉ còn tiếng gió rít ào ào, ngọn đèn đong đưa trong gió chớp sáng chớp tối.
Hắn lạnh lùng nhìn về ngọn đèn duy nhất mang chút ánh sáng nọ, thấp giọng nói: “Ta cũng không biết.”
Xe ngựa của Thị lang bộ Hình Tiêu Khiêm dừng trước cổng phủ Phụ quốc Tướng quân. Lão vừa xuống xe bèn ngẩng đầu trông, nét mặt có chút gì kì quái. Xe ngựa chạy từ đầu hẻm tới, tai nghe văng vẳng vô số tiếng mời chào, tiếng người bán tạp hóa, tiếng người bán dầu, bán phấn son… trăm thứ ngôn ngữ pha tạp lẫn nhau, vẽ ra một vẻ phồn hoa đô hội chốn kinh kì. Thế nhưng ngay đầu con hẻm này lại chính là phủ Phụ quốc Tướng quân uy nghi bề thế, hai con sư tử bằng đá lặng lẽ canh bên cổng, đã khá nhiều năm trôi qua, cánh cổng lớn sơn son thiếp vàng vốn rực rỡ sắc đỏ thắm giờ đây u ám sẫm màu. Con hẻm dài thật dài này hệt như một cuộn tranh, lướt qua chốn phồn hoa náo nhiệt ngoài kia lạc bước tới nơi này, tựa như gột rửa hết phấn son, bày ra dáng vẻ chân thật. Sông thu với trời xa một màu như vậy, mộc mạc động lòng người, vẻ quạnh quẽ thê lương lại ngời lên một nét đẹp khác thường.
Phủ đệ như vậy, thật sự là của "Khải Lăng chi tường" Lâm Tướng quân được sao? Nghi hoặc thoảng qua trong dạ, nhưng chẳng còn thời gian để dây dưa nghĩ ngợi nhiều, Tiêu Khiêm tiến thêm hai bước, xà ích đã sớm gõ cửa, một người tiểu bộc vận áo xám giản dị ló mặt trông ra. Tiêu Khiêm âu lo hỏi: “Tiểu ca, nhờ ngươi báo với Lâm Tướng quân, Tiêu Khiêm Thị lang bộ Hình cầu kiến.”
Gã tiểu bộc kia giương ánh mắt trong veo đánh giá người đứng trước một lượt, thấy Tiêu Khiêm sắc mặt dẫu trầm tĩnh nhưng ánh mắt chất chứa âu lo, không hề giống với đám người vẫn chen chúc nhau tới cổng tặng quà dâng lễ mấy ngày nay. Bèn mở rộng cửa, gã tiểu bộc cúi đầu cụp mắt: “Tiêu đại nhân xin chờ, tiểu nhân vào trong bẩm báo.”
Tiêu Khiêm chẳng đợi kịp, lập tức sải một chân qua cửa, gấp gáp nói: “Tiểu ca, ta có việc rất gấp, cần nhanh chóng gặp Tướng quân, xin hãy châm chước.” Người tiểu bộc giật mình, nhìn sắc mặt Tiêu Khiêm không hề giống đang giả trá, huống hồ lão chức cao quyền trọng như vậy, việc gì phải giả dối, bèn lập tức gật đầu, dẫn đường đưa người vào trong phủ.
Đình, gác trong Lâm phủ hệt như thường thấy trong phủ các vị quan khác, chốn cần đình xây đình, nơi cần gác dựng gác, nơi nơi đều hết sức bình thường, không có gì đặc biệt. Trong sân trồng toàn hoa cúc, rực rỡ bung nở thành tràng, sắc vàng tươi khẽ rung rinh hoan hỉ.
Tiêu Khiêm nhanh chóng thấy Lâm Thụy Ân đang cúi mình trồng hoa.
Hắn cúi mình, xếp đặt khóm cây, không màng tới sự xung quanh. Người tiểu bộc nép bên bụi hoa, đánh bạo nói lớn: “Tướng quân, Tiêu đại nhân Thị lang bộ Hình cầu kiến.”
Hắn ngừng tay, buông xẻng trên tay xuống, đứng thẳng lên, lẻ loi giữa ngút ngàn hoa cỏ, đẹp đẽ như ngọc, phong tư trong sáng. Tiêu Khiêm thở dài trong dạ, cúi đầu, chắp tay vái chào, lòng lo lắng như kiến bò trên chảo dầu, thấy người thiếu niên Tướng quân ấy, chỉ cảm thấy hơi lạnh bức người, lòng bình thản trở lại.
“Tướng quân, Nỗ vương tử Gia Lịch trốn thoát mất rồi!”
Lâm Thụy Ân nhướng mày, không trông rõ lạnh lẽo trên mặt, Tiêu Khiêm chộn rộn trong lòng, trực giác mách cho lão rằng người thiếu niên trước mặt đang cực kỳ tức giận, khí tức lạnh băng giữa hàng lông mày kia lồ lộ không hề giấu giếm.
“Là thuộc hạ hành sự bất lực, Gia Lịch đau đớn không chịu nổi, ta cứ ngỡ nếu hắn có mệnh hệ gì, sẽ khó ăn khó nói với Hoàng thượng, vì thế mới đổi phòng giam cho hắn, ai ngờ…”
“Hiện giờ đã trốn tới đâu rồi?” Lâm Thụy Ân lướt vèo qua bụi hoa như sao xẹt qua bầu trời, cành lá đổ rụp xuống tán loạn theo chân hắn.
“Chỉ biết hắn trốn về phía chợ Bách Hoa!” Tiêu Khiêm dáng vẻ ủ rũ cụp mắt xuống, tránh đường, “Tướng quân! Bộ Binh đã điều binh mã, cổng thành cũng cho người canh gác nghiêm ngặt, chỉ cần giới nghiêm toàn thành…”
“Không cần phiền hà dân chúng!” Lâm Thụy Ân ấn đường nhíu chặt, quát khẽ, “Chiến sự vừa mới qua đi, chớ nên vọng động quấy nhiễu lòng dân.”
“Vâng!” Thị lang bộ Hình gật đầu như bổ củi, “Ý của Tướng quân là?”
“Cho quân lính âm thầm điều tra nghe ngóng, vẻ ngoài của người Nỗ tộc có nét đặc trưng rõ rệt, kinh thành và các vùng lân cận khó có thể lẩn tránh, tất nhiên không thể trốn xa được.” Mệnh lệnh của hắn giống như con người hắn, lạnh lùng như gió bấc thổi vào mặt, Tiêu Khiêm lên tiếng thưa vâng.
Chỉ lát sau, thủ binh vùng ngoại ô đã nhận được lệnh vào thành ngấm ngầm điều tra. Ngày hôm ấy, vốn là ngày Lâm Thụy Ân dẫn quân thắng trận về thành, dân chúng kinh đô và các vùng lân cận đều mừng rỡ vì chiến thắng miền biên ải, hớn hở tuôn về phía đường Bách Hoa, chỉ trong chốc lát, đầu đường cuối phố người san sát người, áo quần như nước, nhưng chẳng ai ngờ được vị Tướng quân trẻ tuổi kia đã im hơi lặng tiếng nhập kinh từ hai hôm trước.
Lâm Thụy Ân rời phủ đệ, đập vào mắt là cảnh sắc phồn hoa nhường ấy, dòng người rộn rã đổ xô về phía đường cái. Đi thẳng ra đầu ngõ, đèn đuốc sáng bừng lên, hàng ngàn hàng vạn ngọn đèn lung linh dọc con phố tựa như những chuỗi minh châu, mái hiên thềm nhà san sát nhau, mái nhà cong cong, kéo dài mãi về phía Hoàng cung, nóc nhà nhấp nhô cao thấp, hệt như một dòng chảy tụ lại chính nơi này, mà cũng như một mạng lưới dọc ngang bung rộng, vương mắc vào kinh thành.
Còn Gia Lịch, đang nằm giữa tấm lưới ấy.
Hắn định thần lại, hướng thẳng về phía phố Bách Hoa, bước chân vững vàng mà mạnh mẽ, không hề bối rối vì tên tội phạm đào tẩu, ánh mắt ngưng định, thu hết cảnh tượng phố xá tấp nập vào trong tầm mắt.
Cuối phố, dòng người tấp nập, dân chúng hớn hở nụ cười tươi rói trên môi chen nhau lướt tới, bóng người thấp thoáng lướt qua trước mắt hắn. Hắn đứng cuối phố, chau mày, con người hắn vốn không hợp với những nơi ồn ào náo nhiệt như vậy, lúc này đây, đứng lẫn trong dòng người, càng nổi bật cái cao ngạo của người thiếu niên.
‘Lão bá à, hôm nay kinh thành náo nức quá nhỉ, có chuện gì sao?” Kề bên, cách đó không xa có tiếng ai khe khẽ hỏi như thế, giọng điệu thật êm ái, thật thư thả.
Hóa ra giữa chốn phồn hoa đô hội này, vẫn còn có người giống như hắn, lầm đường lạc bước. Hắn quay đầu, liếc thấy chủ nhân của giọng nói kia, vóc người thật nhỏ bé, áo bào thêu chỉ bạc, đứng lặng bên góc đường, một nét mờ nhạt giữa bức họa sặc sỡ náo nhiệt chốn này. Hắn vốn tưởng người đó là một cô gái, tới giờ trông rõ dáng hình, mới hay đó là một công tử nhà quan.
Nghe được câu hỏi của thiếu niên kia, ông lão dáng chừng không kiên nhẫn nổi, chỉ bảo: “Chàng trai trẻ này, chắc bình thường chỉ biết rong chơi vui đùa không màng chuyện quốc gia đại sự phải không? Hôm nay là ngày Lâm Thiếu tướng quân đại thắng dẫn binh trở về, lát nữa quân khải hoàn sẽ đi qua phố Bách Hoa này.”
Vốn đã rời mắt đi, thế nhưng vừa nghe được lời ông lão đáp, Lâm Thụy Ân quay đầu trông lại, đập vào mắt là mái tóc bạc quá nửa của ông lão đang cúi đầu chuyện dông dài, có điều vừa nhắc tới Lâm Tướng quân, lại có vẻ đắc ý không thể che giấu nổi. Trong lòng Lâm Thụy Ân kịch chấn, chân đã muốn bước cuối cùng lại dừng.
Hắn vốn không hề hay biết, khắp chốn kinh kì này, sẽ có những người như ông lão tóc bạc kia, bày biện một sạp nhỏ cuối phố kiếm ăn qua ngày, nói cười không ngớt, nhắc đến tên hắn bằng giọng điệu như vậy. Ấy là một thứ chờ mong, ấy là một niềm kiêu hãnh, thứ mà bạc vàng châu báu triều đình ban tặng, đủ lời khen tặng ngợi ca của đồng liêu trong triều há có thể so sánh…
Một tiếng "Lâm Tướng quân" gói gọn bao nhiêu ý nghĩa kia nặng nề biết mấy, hắn nghĩ thầm, tự hỏi, so với máu tươi sĩ tốt trút xuống chiến trường, sức nặng ngang nhau không?
Thật sự ngang nhau không?
Lòng đột nhiên trĩu nặng, nghĩ tới Gia Lịch còn đang lẩn trốn, hắn thu lại những mối suy tư vụn vặt, xoay người rời đi, không một lần ngoảnh đầu lại.
Ông lão kia giờ đây đã ngẩng đầu lên, nhác thấy dung nhan người thiếu niên hỏi đường, nghẹn họng trân trối, thấp giọng thì thào: “Đám trẻ tuổi thời nay… trông đều đẹp đẽ vậy sao?”
/81
|