Thất Kiếm Hạ Thiên Sơn
Chương 21 - Tình Nghiệt Khó Tan Lên Thiên Sơn Bái Kiến Ma Nữ - Duyên Trần Chưa Dứt Băng Qua Hàng Hải
/30
|
Lăng Vị Phong cũng nghĩ: “Thật là chuyện lạ, tại sao nàng biết mình?” Chàng bước vào tịnh thất, sau khi bái kiến sư phụ thì kể sơ qua những việc mình đã làm sau khi xuống núi.
Hối Minh thiền sư vuốt râu, gật đầu nói: “Con rất giỏi, không phụ lòng ta!” Lăng Vị Phong nói: “Mong sư phụ dạy bảo thêm”. Hối Minh thiền sư hỏi: “Con đã thấy thiếu nữ áo đỏ đó rồi chứ?” Lăng Vị Phong vâng một tiếng. Hối Minh thiền sư nói: “Đó là đệ tử quan môn của Bạch Phát Ma Nữ, nếu cả nàng trong số đó, có bảy người cùng vai vế với con, chỉ có một mình Thạch Thiên Thành không học kiếm. Sáu người cộng thêm Dịch Lan Châu, bảy người các con có thể xưng là Thiên Sơn thất kiếm. Chỉ đáng tiếc sư huynh của con chết sớm, xương cốt vẫn chưa đưa về!” lần đầu tiên Lăng Vị Phong mới nghe đến cái danh Thiên Sơn thất kiếm, chàng đang co ngón tay tính toán thì Hối Minh thiền sư nói: “Ta và Bạch Phát Ma Nữ chia nhau ở hai đỉnh Nam và Bắc của Thiên Sơn, Trác Nhất Hàng thì vân du ở miền Thiên Sơn, không ở một nơi cố định. Ba người bọn ta, trong Thiên Sơn thất kiếm chỉ có một mình con là gặp hết, những người khác không có phước phần này”. Lăng Vị Phong tính: “Hai sư huynh Dương Vân Thông và Sở Chiêu Nam, lại thêm mình và Dịch Lan Châu, cộng lại là bốn người. Bạch Phát Ma Nữ có hai đồ đệ, Phi Hồng Cân và thiếu nữ áo đỏ mới gặp lúc nãy. Trác Nhất Hàng cũng có hai đồ đệ, Thạch Thiên Thành và quái nhân ở ngọn núi Lạc Đà. Trừ Thạch Thiên Thành quả nhiên là bảy người”. Chàng thầm ngạc nhiên, đang nghĩ tại sao sư phụ lại biết mình đã gặp đồ đệ thứ hai của Trác Nhất Hàng. Hối Minh thiền sư đã cười: “Nghe mùi hương trên người con chắc con đã đến núi Lạc Đà. Tân Long Tử tính tình kỳ quặc, các người đã giao thủ rồi chứ?” lúc này Lăng Vị Phong mới biết quái nhân là Tân Long Tử, vâng một tiếng rồi nói: “Lúc đầu con không biết y là đồ đệ của Trác sư thúc, sau đó mới đoán ra nhưng lúc đó đã đánh nhau rất căng...” Hối Minh thiền sư cắt lời: “Con có ứng phó nổi với những quái chiêu của y không?” Lăng Vị Phong nói: “May mà đánh ngang tay với y”. Hối Minh thiền sư trầm ngâm một lát rồi nói: “Trong thất kiếm chính tà đều có. Đại sư huynh của con là người ta thương nhất, đáng tiếc đã chết sớm. Nhị sư huynh của con đi vào nẻo tà, chỉ mong con sau này có thể thanh lý môn hộ. Tân Long Tử giữa chính giữa tà, ta đã sớm bế môn gác kiếm. Bạch Phát Ma Nữ không chịu quản y, cũng chỉ mong con sau này có thể thu phục được y”. Lăng Vị Phong thầm nhủ: “Bạch Phát Ma Nữ ghét ác như thù, tính cách lại hiếu thắng. Tại sao lại để cho Tân Long Tử làm càn ở Thiên Sơn?” nhưng chàng biết Bạch Phát Ma Nữ và sư phụ có điều xích mích nên không dám hỏi.
Hối Minh thiền sư buồn bã nói: “Con kế thừa di chí của đại sư huynh của con coi như là không nhục sư môn. Thiên Sơn kiếm pháp phải nhờ con phát dương quang đại!” Lăng Vị Phong buông tay nghe dạy, Hối Minh thiền sư lại nói: “Bạch Phát Ma Nữ tuy có xích mích với ta, nhưng ta rất coi trọng võ công của bà ta. Lần này bà ta phái đệ tử quan môn đến gặp ta, có lẽ xích này đã tiêu tan”. Lăng Vị Phong nói: “Té ra thiếu nữ áo đỏ là do bà ta phái đến, không biết nàng ta tên gì?” Hối Minh thiền sư nói: “Ta cũng không biết”. Thở dài rồi nói tiếp: “Hai chữ sắc không thật khó phá. Ta cũng không ngờ rằng Bạch Phát Ma Nữ đã gần đến một trăm tuổi mà vẫn nhớ chuyện thời trẻ, bà ta phái người đến hỏi di thư của Trác sư thúc con”. Lăng Vị Phong thầm ngạc nhiên, nhủ rằng: “Chả lẽ bà ta và Trác sư thúc là một đôi uyên ương thời trẻ?” Hối Minh thiền sư lại nói: “Trác sư thúc con tánh tình cũng rất kỳ quặc. Y đến Thiên Sơn mấy mươi năm mà chưa bao giờ nói với ta chuyện thời thiếu niên. Trước khi chết chỉ để lại một cái tráp cho ta, bảo rằng: ‘Nếu có người hái được hai đóa hoa ưu đàm trên núi Lạc Đà đến gặp huynh, huynh hãy giao cái tráp này cho y cầm đi gặp Bạch Phát Ma Nữ’.”
Lăng Vị Phong chợt hỏi: “Hai đóa hoa ưu đàm có phải là một đỏ một trắng hay không? Nghe đồn rằng sáu mươi năm hoa nở một lần, loại hoa này có thể khiến tóc bạc đen trở lại, chuyển lão hoàn đồng?” Hối Minh thiền sư nói: “Đúng là người ta có nói thế, song chưa chắc đã công hiệu như thế. Có lẽ chỉ tốt hơn hà thủ ô mà thôi”. Lăng Vị Phong nói: “Đệ tử có một người bằng hữu đã hái được hoa này!” thế rồi kể chuyện Trương Hoa Chiêu đã hái được hoa ưu đàm trên đỉnh núi rồi xin Hối Minh thiền sư gặp họ.
Hối Minh thiền sư trầm tư một lúc rồi nói: “Ta đã đóng cửa gác kiếm hơn sáu mươi năm nay, vốn là không muốn gặp người ngoài, nhưng e rằng đây là lần gặp mặt cuối cùng, gặp bọn hậu bối các con cũng tốt. Con hãy dắt họ vào đây!”.
Hối Minh thiền sư bước ra khỏi thiền đường, Lăng Vị Phong đã đưa bọn Quế Trọng Minh vào. Bọn Quế Trọng Minh được gặp một bậc đại tôn sư thì vừa mừng vừa lo. Nhưng Hối Minh thiền sư thì rất thích những kẻ hậu bối, bảo bọn họ đừng câu nệ, lại sai mỗi người luyện bộ kiếm pháp của bổn môn cho mình xem. Quế Trọng Minh luyện Ngũ Cầm kiếm pháp, Trương Hoa Chiêu và Mạo Hoàn Liên thì luyện Vô cực kiếm. Hối Minh thiền sư cười rằng: “Trong số các hậu bối, kiếm pháp của các người coi như đã hiếm có. Ngũ Cầm kiếm có sở trường cương kình, Vô cực kiếm lấy nhu chế thắng, mỗi bên đều có ưu điểm. Nếu có thể cương nhu hợp nhau, thế thì càng tốt hơn”. Thế rồi chỉ điểm vào yếu quyết, bọn ba người Quế Trọng Minh đều quỳ xuống bái tạ.
Hối Minh thiền sư cầm cây bảo kiếm của Quế Trọng Minh, xem một lúc thì thở dài than: “Không ngờ hôm nay có thể gặp lại kiếm này!” rồi nói với Lăng Vị Phong: “Thời trẻ ta từng là môn khách của Hùng Kinh Lược, khi ông ta lấy sắt ở Hắc Long Giang luyện kiếm này, ta cũng có mặt”. Thế rồi chỉ điểm cho Quế Trọng Minh cách sử dụng kiếm. Lăng Vị Phong chợt nói: “Suýt nữa sư thúc của y đã cướp thanh kiếm này” Hối Minh thiền sư hỏi: “Vậy sao?” Quế Trọng Minh nói: “Y vừa thấy con đã đòi cướp kiếm, sau đó đã biết có tình thúc điệt mà vẫn không thay đổi. Không biết là lí lẽ gì đây?” Hối Minh thiền sư chép miệng: “Tên Tân Long Tử này đã được Trác sư thúc của con nương chìu hư, có điều nghị lực của y cũng khá lắm”.
Bọn Quế Trọng Minh ăn cơm chay, lại trò chuyện với Hối Minh thiền sư một hồi. Vầng trăng lên tới giữa trời, Hối Minh thiền sư chợt nắm tay Lăng Vị Phong rồi cùng mọi người bước ra ngoài. Lăng Vị Phong chợt cảm thấy tay của Hối Minh thiền sư hơi rung rung.
Hối Minh thiền sư chợt nói: “Đời người trăm năm như điện chớp lửa xẹt. Mọi thứ đều là không. Nơi nào cũng có thể là lầu đài, nếu trong lòng con có ta, không cần đến Thiên Sơn”. Lăng Vị Phong ngơ ngác hỏi: “Đệ tử ngu muội không hiểu thiền nghĩa. Mong sư phụ dạy dỗ”. Hối Minh thiền sư nói: “Chỉ là lời nói bình thường, có tinh nghĩa gì đâu”.
Mạo Hoàn Liên giật mình, suy nghĩ kỹ thiền ngữ, tựa như Hối Minh thiền sư muốn nói điều gì khác, vì thế mới chắp tay nói: “Phật nói ta không vào Địa ngục thì ai vào Địa ngục. Ma chướng trên nhân gian vẫn chưa hết, sao có thể tìm cực lạc cho mình?” Hối Minh thiền sư đọc một tiếng Phật hiệu rồi khen rằng: “Lành thay, lành thay! Mạo cô nương đã hiểu thiền lý. Có điều Phật dùng muôn vàn hóa thân phổ độ chúng sinh, nay lão nạp vỗ tay ra đi, tuy không có hóa thân nhưng cũng may còn có một vài đệ tử”. Mạo Hoàn Liên vội vàng quỳ xuống lạy, Quế Trọng Minh cũng không hiểu họ nói gì, chỉ mở to mắt nhìn Mạo Hoàn Liên. Lăng Vị Phong và Trương Hoa Chiêu cũng quỳ xuống, Quế Trọng Minh ngạc nhiên không biết làm sao. Té ra Mạo Hoàn Liên đã đoán được Hối Minh thiền sư không lâu sau sẽ tọa hóa. Bởi vậy nàng mới nói “Ma chướng trên nhân gian chưa trừ hết”, khuyên Hối Minh thiền sư sống thêm vài năm để trừ ác dương thiện cho nhân gian. Hối Minh thiền sư lại đáp là “Phật dùng muôn ngàn hóa thân phổ độ chúng sinh”, ý muốn nói dù một bậc đại trí như Phật tổ cũng phải viên tịch, chỉ có thể dùng Phật kinh chân nghĩa để truyền bá khắp nhân gian, điều đó coi như dùng muôn vàn hóa thân phổ độ chúng sinh. Nay ông đã hơn một trăm tuổi, người không có lý gì không chết, nếu các đệ tử có thể làm theo lời ông ta thì sẽ sống mãi bất diệt. Đó cũng có nghĩa là vô số hóa thân của ông ta. Kinh Phật tuy là một loại triết học duy tâm nhưng cũng có triết lý đáng học hỏi. Lăng Vị Phong cũng hiểu ra ý tứ của Hối Minh thiền sư, trong lòng không khỏi lo lắng.
Hối Minh thiền sư mỉm cười đỡ họ dậy nói: “Cần gì phải như thế?” rồi nói với Lăng Vị Phong: “Trên Thiên Sơn tuyệt đỉnh lạnh lẽo, con có muốn ở lại hay không thì tùy. Có điều trong tàng kinh các có một cuốn quyền kinh và kiếm quyết, con phải giữ cho ta. Thời gian không còn sớm nữa, hãy nghỉ ngơi đi”.
Đêm hôm ấy mọi người không ngủ, Lăng Vị Phong thấy sư phụ vẫn mạnh giỏi như thường, ông ta tuy để lại những lời nói như trăn trối nhưng chàng nghĩ đó cũng chỉ là chuyện thường tình của người già, chưa chắc trong một khoảng thời gian ngắn đã viên tịch. Không ngờ sáng hôm sau, Ngộ Tính vội vàng chạy vào nói: “Vị Phong, không xong rồi, sư phụ đã tọa hóa!” Lăng Vị Phong vội vàng chạy vào tịnh thất, thấy Hối Minh thiền sư ngồi xếp bằng trên bồ đoàn, mày buông mắt khép, trông giống như ngồi đả tọa bình thường, chàng bất giác khóc òa. Ngộ Tính nói: “Bên bồ đoàn có hai quyển sách và một cái tráp. Chắc là sư phụ muốn đưa cho đệ, đệ hãy nhận lấy”. Lăng Vị Phong cầm hai quyển sách mở ra xem, thấy một cuốn đề “Thiên Sơn kiếm quyết”, một cuốn đề “Hối Minh quyền kinh”, chàng biết đó là tâm huyết hàng trăm năm của sư phụ nên vội vàng dập đầu tạ ơn. Rồi chàng cầm cái tráp xem, trên tráp đề rằng: “Đem hai đóa hoa ưu đàm cùng tráp này lên đỉnh Thiên Sơn ở phía Nam”. Rồi có hàng chữ nhỏ viết: “Người nhận di mệnh là đệ tử cách thế của ta, có thể đòi Tân Long Tử lấy quyền kinh kiếm quyết, do Tân Long Tử thay thầy truyền nghề. Nhất Hàng” Lăng Vị Phong biết đây là di vật của Trác Nhất Hàng, ông ta muốn người hái được hoa ưu đàm cầm cái tráp này lên đỉnh núi Thiên Sơn phía Nam gặp Bạch Phát Ma Nữ. Chàng nghĩ: “Mình không thể làm việc này”. Đang định kêu Ngộ Tính mời Trương Hoa Chiêu, quay đầu lại nhìn thì chàng thấy bọn Trương Hoa Chiêu đã quỳ xuống ở bên ngoài.
Lăng Vị Phong đáp tạ lại, Mạo Hoàn Liên nói: “Lão thiền sư sống hơn trăm tuổi, đã nhìn rõ chốn hồng trần, nay mỉm cười mà đi, Lăng đại hiệp không cần quá đau đớn”. Lăng Vị Phong lau nước mắt rồi cùng Ngộ Tính tẩm liệm cho sư phụ. Chiều hôm đó họ đã xây mộ cho Hối Minh thiền sư trên đỉnh Thiên Sơn.
Tang sự đã xong, Lăng Vị Phong đưa cái tráp cho Trương Hoa Chiêu: “Đây là việc của đệ, hãy đưa cái tráp cùng với hoa ưu đàm đến gặp Bạch Phát Ma Nữ rồi đòi Dịch Lan Châu lại, coi như mọi việc đã xong. Nếu lúc đó đệ chấp nhận học quyền kiếm của Võ Đang thì hãy bái Tân Long Tử làm sư, có di lệnh của Trác Nhất Hàng, y không thể không nhận đệ”. Trương Hoa Chiêu nói: “Đệ chỉ mong gặp Lan Châu”. Mạo Hoàn Liên cười nói: “Học vài quái chiêu cũng tốt!” Lăng Vị Phong giệt mình, thầm nhủ: “Quyển sách ấy là báu vật của hai phái Võ Đang và Thiếu Lâm, Tân Long Tử có lấy đi thì cũng chấp nhận được. Nhưng y không nên dùng quỷ kế lừa gạt Hàn Chí Bang, sau này mình sẽ lên tiếng thay cho Hàn Chí Bang”.
Lăng Vị Phong giữ phần mộ ba ngày, làm xong lễ thấy trò, lại luyện một lượt quyền kinh kiếm quyết của Hối Minh thiền sư. Hôm sau thì chàng từ biệt xuống núi. Ngộ Tính nói: “Bạch Phát Ma Nữ tính tình kỳ quặc, các người phải lưu ý”. Ông ta lại bảo Phi Hồng Cân không ở cùng Bạch Phát Ma Nữ mà ở ngọn Thiên Đô phía Nam núi Thiên Sơn. có thể gặp Phi Hồng Cân trước khi tới gặp Bạch Phát Ma Nữ, cũng có thể không đi ngang Thiên Đô mà đến thẳng chỗ Bạch Phát Ma Nữ.
Bốn người đi được bảy ngày thì đến một vùng núi, Lăng Vị Phong chỉ ngọn núi ở phía Đông nói: “Đây là ngọn Thiên Đô, Phi Hồng Cân và Dịch Lan Châu ở nơi đấy!” Trương Hoa Chiêu chợt nói: “Chúng ta lên ngọn Thiên Đô trước!” Lăng Vị Phong trầm ngâm không đáp, Quế Trọng Minh nói: “Đúng thế, trước tiên tìm Lan Châu cô nương, sau đó đem hoa cho Bạch Phát Ma Nữ!” Lăng Vị Phong cũng chấp nhận.
Ngọn Thiên Đô tuy thấp hơn đỉnh phía Nam của Thiên Sơn nhưng cũng là nơi không có dấu người đến. Họ phải mất cả ba ngày mới leo lên tới nơi, chỉ thấy xung quanh tuyết trắng xóa. Mạo Hoàn Liên nói: “Có lẽ họ nhìn thấy chúng ta cũng lấy làm lạ”. Lên đến chóp núi, trước mặt là vách băng cao đến mười mấy trượng, ai nấy đều ngẩn ra nhìn thì chợt ở gần đấy vọng lại tiếng bước chân.
Quế Trọng Minh nhìn xung quanh mà chẳng thấy ai, đi thêm được mấy bước thì tiếng bước chân ấy lại vang lên. Lăng Vị Phong cười nói: “Các người không cần tìm nữa, làm gì có người mà tìm?” chàng nói chưa dứt lời thì tiếng bước chân lại vọng tới rất rõ ràng. Quế Trọng Minh ngạc nhiên, Lăng Vị Phong nói: “Các người hãy nghe thử âm thanh ấy phát từ đâu?” Mạo Hoàn Liên nói: “Ồ! Sao tiếng bước chân hình như phát ra trên hòn đá chúng ta đang bước”. Quế Trọng Minh cúi người xuống ghé tai vào khe đá, chỉ nghe tiếng nước chảy róc rách như tiếng nhạc, lại có cả tiếng bước chân. Lăng Vị Phong cười nói: “Lúc mới đến ta cũng lấy làm thắc mắc vì âm thanh này, sau đó mới biết vùng núi Thiên Sơn có rất nhiều băng sơn, vì địa chấn nên sau đó nham thạch sụp xuống, đè băng sơn ở phía dưới. Hằng ngày băng sơn tan ra, nham thạch bị hỏng chân. Ở nơi chỗ trống của nham thạch, băng hà lưu động, nghe rất giống bước chân của người đi”. Mạo Hoàn Liên nói: “Té ra là thế, làm tôi hoảng hồn. Chúng tôi từ Giang Nam đến, ít khi gặp băng tuyết, nào biết dưới núi lại có cả những băng sơn thời viễn cổ”. Lăng Vị Phong cười nói: “Muội hãy cẩn thận, dưới chân chúng ta là một băng sơn rất lớn! Chỉ cần nham thạch hỏng chân, chúng ta muốn thoát cũng không được!”.
Trương Hoa Chiêu nghiêng tai lắng nghe, chợt nói: “Tôi không tin, sao lại không phải người?” rồi chàng ta dặm mũi chân, chạy vọt ra phía trước.
Trương Hoa Chiêu chạy một vòng quanh vách núi, leo lên đỉnh núi rồi lẩn vào trong rừng. Lăng Vị Phong cười nói: “Y nhớ đến phát điên, cứ để y tự xem”. Tuy chàng nói thế nhưng vẫn dắt mọi người chạy theo Trương Hoa Chiêu.
Lần này Trương Hoa Chiêu đã đoán đúng, bên trên quả thật có tiếng chân, chàng leo lên đỉnh núi, chàng chợt nghe có người thiếu nữ đang hát dân ca của vùng Bắc Kinh. Dịch Lan Châu đã học được bài này khi ở nhà Thạch Chấn Phi. Trương Hoa Chiêu cũng từng nghe nàng hát, bởi vậy chàng mừng như bắt được vàng, kêu lớn: “Lan Châu! Lan Châu!” một bóng người thấp thoáng trong rừng, Trương Hoa Chiêu đuổi theo, chỉ thấy nàng thiếu nữ vội vàng bỏ chạy. Trương Hoa Chiêu kêu lớn: “Lan Châu, sao muội nhẫn tâm như thế!” chợt bên cạnh có người bước ra mắng: “Tiểu tử, có biết đây là đâu không? Ngươi không được kêu réo ầm ĩ ở đây!” người ấy dung mạo xinh đẹp, có điều đầu tóc bạc trắng. Trương Hoa Chiêu vừa nhìn thì kêu lên: “Phi Hồng Cân, bà không cho tôi gặp nàng, bà cứ giết tôi đi!” rồi nhảy vọt tới, chàng đột nhiên cảm thấy người mềm nhũn ngã lăn xuống đất. Phi Hồng Cân lách người biến mất. Tiếng ca của nàng thiếu nữ cũng nhỏ dần.
Trong khoảnh khắc bọn Lăng Vị Phong đã đuổi tới, thấy thế thì cả kinh, đỡ Trương Hoa Chiêu dậy giải huyệt cho chàng. Trương Hoa Chiêu nói: “Tôi đã gặp nàng, Phi Hồng Cân không cho tôi nói chuyện với nàng”. Lăng Vị Phong hỏi lại mọi việc, chép miệng: “Nếu có lòng thành đá vàng cũng mở”.
Bốn người lại băng qua rừng, chỉ thấy một căn thạch thất ở phía trước. Lăng Vị Phong gõ cửa nói: “Vãn bối Lăng Vị Phong xin được gặp!” một lúc lâu sau vẫn không thấy ai mở cửa.
Lại nói ngày hôm đó Phi Hồng Cân đánh lui Sở Chiêu Nam, cướp được Dịch Lan Châu thì dắt nàng chạy về ngọn Thiên Đô, dốc lòng chữa trị cho nàng. Đến khi nàng khỏe hẳn thì Phi Hồng Cân mới cho nàng biết Nạp Lan vương phi đã chết, rồi hai người nhận nhau làm mẹ con. Phi Hồng Cân đã kể những sự tích anh hùng của Dương Vân Thông cho nàng nghe. Phi Hồng Cân đòi Dịch Lan Châu ở mãi bên cạnh mình, nàng cũng chấp nhận.
Trương Hoa Chiêu đâu biết rằng Phi Hồng Cân đã dùng tình cảm khống chế Dịch Lan Châu, chàng cũng gõ cửa, một lúc lâu sau không có người trả lời thì nổi giận: “Phi Hồng Cân rốt cuộc có ý đồ gì? Nếu không mở cửa thì chúng ta sẽ xông vào”.
Trương Hoa Chiêu vừa dứt lời thì cánh cửa đá bật ra, Phi Hồng Cân xuất hiện lạnh lùng hỏi: “Ngươi vừa nói gì?” Lăng Vị Phong vội vàng đáp: “Chúng tôi muốn gặp tiền bối”. Phi Hồng Cân cười lạnh: “Không dám, chỉ e các người không phải muốn gặp ta!” Quế Trọng Minh trả lời: “Nếu bà đã biết như thế tại sao không để Lan Châu cô nương ra đây?” Mạo Hoàn Liên vội vàng kéo chàng. Phi Hồng Cân ngạo nghễ nói với Lăng Vị Phong: “Y là ai mà không có qui củ như thế?” Quế Trọng Minh định lên tiếng thì bị Mạo Hoàn Liên ngăn lại. Mạo Hoàn Liên dịu dàng nói: “Lan Châu cô nương tình như thủ túc với chúng tôi, chúng tôi từ muôn dặm đến đây muốn xin tiền bối cho phép chúng tôi gặp mặt nàng”.
Phi Hồng Cân không đợi Mạo Hoàn Liên nói hết lời đã quay sang Lăng Vị Phong nói: “Ngươi còn nhớ lời của ngươi đã nói hay không?” Lăng Vị Phong ngạc nhiên: “Tôi đã nói gì?” Phi Hồng Cân nói: “Ở kinh sư ta đã nói với ngươi, nếu ta cứu được Lan Châu thì ngươi không được quản. Ngươi có nhớ không?” Lăng Vị Phong không ngờ bà ta coi chuyện đùa như thực. Quế Trọng Minh chợt mắng: “Thật vô sỉ, có phải một mình bà cứu người đâu? Bà dựa vào cái gì mà quản thúc nàng, nàng cũng đâu phải là con gái của bà?” Phi Hồng Cân ngạo mạn nói: “Nó chính là con gái của ta!” Lăng Vị Phong đưa mắt nhìn Quế Trọng Minh, tỏ ý bảo chàng đừng nói nhiều.
Trương Hoa Chiêu tức tối, lớn giọng nói: “Dù đó là con gái của bà tôi cũng phải gặp. Tôi có lời muốn nói với nàng”. Phi Hồng Cân quát: “Ngươi là gì của nó? Ta không cho ngươi gặp thì ngươi cũng đừng hòng gặp”. Lăng Vị Phong không kìm được nữa, chàng bước tới trầm giọng hỏi: “Tôi đã nuôi lớn Dịch Lan Châu, tôi tuy không là cha của Lan Châu, nhưng chúng tôi có tình cha con. Bà có cho tôi gặp hay không?”.
Phi Hồng Cân chưng hửng, cũng khẽ nói: “Được, các người hãy lui mười bước, ta sẽ gọi Lan Châu ra cửa gặp các ngươi. Hãy để cho nó tự nói, nó muốn ở lại đây hay đi theo các người”. Lăng Vị Phong đành chịu, cùng ba người kia lui ra mười bước. Phi Hồng Cân vỗ tay ba cái, một thiếu nữ nhẹ nhàng bước ra trước cửa. Trương Hoa Chiêu kêu lên: “Lan Châu, tôi đến đấy” Phi Hồng Cân rút cây roi chỉ về phía Trương Hoa Chiêu: “Không được đến đây?”.
Dịch Lan Châu nước mắt lưng tròng, kêu lên: “Lăng thúc thúc!” rồi đôi dòng nước mắt lăn xuống. Phi Hồng Cân vội vàng kéo Dịch Lan Châu hỏi: “Họ muốn dẫn con đi, con có chịu không?” Dịch Lan Châu khẽ nói: “Con muốn ở đây cùng với người!” Phi Hồng Cân đẩy nàng ta nói: “Hay lắm, thế là được. Con hãy vào nghỉ đi thôi!” Dịch Lan Châu xoay người bước vào bên trong như bị trúng tà, Trương Hoa Chiêu kêu lớn: “Lan Châu, Lan Châu. Đừng quay vào”. Lăng Vị Phong cũng kêu lớn: “Lan Châu, cha mẹ con tuy đã chết, nhưng con vẫn chưa hoàn thành chí nguyện của cha con! Con là con của Dương Vân Thông! Chỉ giết Đa Thích vẫn chưa đủ trả thù!” Phi Hồng Cân đóng sầm cửa, nhốt Dịch Lan Châu bên trong. Bà ta thì đứng trên tường, cao giọng nói: “Lăng Vị Phong, ngươi có thể quay về rồi đấy”.
Quế Trọng Minh tức giận, tay phải vung lên, ba vòng kim hoàn chia nhau đánh vào ba đại huyệt của Phi Hồng Cân. Phi Hồng Cân vung roi lên cuộn ba vòng kim hoàn, cười lạnh nói: “Ta nể tình ngươi là kẻ hậu bối, không tính toán với ngươi. Ngươi cứ xông bừa tới thì coi chừng ta!” Mạo Hoàn Liên cố gắng kéo Quế Trọng Minh, Lăng Vị Phong bước tới ba bước, định tranh cãi với Phi Hồng Cân thì chợt nghe một giọng nói già nua vang lên bên cạnh.
Giọng nói ấy quát: “Ai dám ngông cuồng ở Thiên Sơn?” Lăng Vị Phong giật mình, nhìn kỹ lại thì thấy một bà già tóc bạc phơ đã đến bên cạnh họ từ lúc nào mà chàng không hề biết. Lăng Vị Phong cung kính hành lễ rồi nói: “Gia sư Hối Minh thiền sư bảo đệ tử đến gặp lão tiền bối”. Bạch Phát Ma Nữ hừ một tiếng, hỏi: “Sư phụ của ngươi có khỏe không?” Lăng Vị Phong nói: “Gia sư đã viên tịch, vãn bối đến đây cốt để thông báo”. Bạch Phát Ma Nữ nhói lòng, chép miệng: “Từ nay về sau, ta không tìm được đối thủ luyện kiếm pháp nữa”. Lăng Vị Phong không dám lên tiếng, một hồi sau Bạch Phát Ma Nữ lại hỏi: “Các ngươi đến đây cốt chỉ để gặp ta sao?” Lăng Vị Phong nói: “Đúng thế, còn có một cái tráp của Trác sư thúc để lại muốn dâng cho người”. Bạch Phát Ma Nữ biến sắc mặt, quát: “Ngươi dám nói dối trước mặt ta. Ta sống ở phía Nam Thiên Sơn, ngươi đâu phải không biết. Vậy đến ngọn Thiên Đô làm gì? Trác Nhất Hàng có đồ đưa cho ta cũng sẽ không bảo các ngươi cầm đến. Hừ, ngươi dám bỡn cợt trước mặt ta?” Lăng Vị Phong đang định biện giải, Phi Hồng Cân đã nói: “Sư phụ, bọn chúng đến đây bức hiếp con, muốn cướp đồ đệ của con vừa mới nhận”. Bạch Phát Ma Nữ chợt cười lạnh, Lăng Vị Phong, Quế Trọng Minh, Mạo Hoàn Liên Trương Hoa Chiêu đều cảm thấy hoa mắt, tựa như có một bóng người lướt qua người họ. Lăng Vị Phong đột nhiên thu người, tránh qua một bên, bên tai còn nghe tiếng người nói: “Hay lắm!” trong chớp mắt Bạch Phát Ma Nữ đã đứng ở giữa hai bên. Bạch Phát Ma Nữ hai tay cầm ba thanh kiếm, cười lạnh nói: “Lăng Vị Phong, binh khí của bằng hữu ngươi đã nằm trong tay ta. Niệm tình ngươi là đệ tử của Hối Minh thiền sư, ta không trừng phạt các ngươi. hãy mau cút xuống núi cho ta!” nói xong thì dắt Phi Hồng Cân vào trong, nói: “Mặc kệ bọn chúng!” rồi đóng sầm cửa lại.
Lăng Vị Phong kinh hãi, chỉ trong chớp mắt Bạch Phát Ma Nữ đã tấn công bốn người, ngoại trừ mình, binh khí của ba người kia đều bị bà ta giật mất. Đây đúng là tuyệt đỉnh công phu trên võ lâm, chả trách nào bà ta dám hai lần tìm Hối Minh thiền sư tỉ thí.
Lăng Vị Phong biết Bạch Phát Ma Nữ tính tình kỳ quặc, không dám ở lâu, thế là dắt ba người kia xuống ngọn Thiên Đô. Đến chân núi thì chép miệng than rằng: “Chúng ta đã xúc phạm nữ ma đầu này, e rằng không thể chụp lại giữ Lan Châu nữa”. Trương Hoa Chiêu buồn rầu. Quế Trọng Minh tiếc thanh bảo kiếm nên cũng chẳng nói ra lời.
Một hồi sau Mạo Hoàn Liên chợt vỗ tay nói: “Lăng đại hiệp, đừng lo. Chúng ta có thể gặp lại Lan Châu tỷ tỷ và lấy lại binh khí. Chỉ cần Trương đại ca mạo hiểm một lần”. Trương Hoa Chiêu nói: “Vậy có ích gì, ta đánh không lại người ta, có van xin cũng chẳng được”. Mạo Hoàn Liên nói: “Không cần đánh nhau, huynh chỉ cần cái tráp cùng hai đóa hoa ưu đàm đến phía Nam Thiên Sơn gặp Bạch Phát Ma Nữ. Đảm bảo bà ta sẽ bảo Phi Hồng Cân trả Dịch Lan Châu về cho huynh”. Trương Hoa Chiêu ngạc nhiên nói: “Làm thế được sao?” Mạo Hoàn Liên nói: “Tôi gạt huynh làm gì? vả lại ngoài cách đó cũng chẳng còn cách nào khác”. Lăng Vị Phong nghĩ ngợi, gật đầu nói: “Đúng thế”. Quế Trọng Minh cứ thắc mắc, chỉ ngẩn người ra nhìn Mạo Hoàn Liên.
Trương Hoa Chiêu một mình leo lên núi cao cứ ba bước lại quỳ bái một lần, cực khổ vô cùng. Chàng ta được hai ngày thì lên đến đỉnh núi phủ đầy tuyết. Giữa đỉnh núi có một ngôi nhà băng. Chàng quỳ xuống hành đại lễ. Chỉ nghe một giọng nói già nua vang lên: “Ta tha thứ cho ngươi, ngươi hãy vào đi!”.
Trương Hoa Chiêu thầm nhủ: “Bạch Phát Ma Nữ đúng là kỳ quặc nên mới sống nơi này”. Chỉ thấy trong nhà đầy ánh nến còn Bạch Phát Ma Nữ thì ngồi giữa nhà. Trương Hoa Chiêu đang định tham bái, chợt thấy một luồng lực lớn đẩy chàng lên, Bạch Phát Ma Nữ hỏi: “Có phải Trác Nhất Hàng đã sai ngươi đến đây?”.
Trương Hoa Chiêu lấy cái tráp cùng hai đóa hoa ra. Bạch Phát Ma Nữ hỏi: “Có phải ngươi đã hái hai đóa hoa này?” Trương Hoa Chiêu cung kính nói: “Chính là do vãn bối đã hái. Vãn bối vâng lệnh Trác lão tiền bối đem đến tặng cho người”. Bạch Phát Ma Nữ buồn bã nói: “Một lời nói chơi bảy mươi năm trước, sao ông ta vẫn nhớ rõ đến thế. Hôm nay ta vừa tròn một trăm tuổi, còn cần hoa ưu đàm làm gì?” Trương Hoa Chiêu không biết đáp thế nào, chàng thấy trong phòng đầy nến mới nghĩ bụng té ra hôm nay là ngày đại thọ một trăm tuổi của bà. Đang định tìm lời chúc mừng, thấy Bạch Phát Ma Nữ nhắm mắt tịnh tọa, sắc mặt sầu thảm thì không dám nói gì.
Bạch Phát Ma Nữ vẫn ngồi thẫn thờ, chuyện bảy mươi năm trước kéo ùa về.
Bảy mươi năm trước, Bạch Phát Ma Nữ chỉ là một thiếu nữ hơn hai mươi tuổi nhưng danh tiếng đã lừng lẫy giang hồ, là một đạo tặc miền Tây Bắc. Trác Nhất Hàng là một công tử nhà quyền quý, tổ phụ của chàng làm quan tổng đốc, trên đường về quê đã bị Bạch Phát Ma Nữ chặn đường cướp của, lại đả thương một người đồng môn của Trác Nhất Hàng. Sau đó họ lại đụng độ nhau, thế là hai bên đem lòng yêu thương. Nhưng Trác Nhất Hàng dẫu sao cũng là hậu duệ của nhà quyền quý, tuy trong lòng có tình yêu nhưng không dám biểu lộ, càng không thể làm cường đạo. Bạch Phát Ma Nữ tức giận bỏ đi, mấy năm sau Trác Nhất Hàng trở thành đệ tử Chưởng môn phái Võ Đang, lúc đó trở ngại càng thêm lớn. Bọn họ sau mấy phen bi hoan, vài lượt ly hợp, lần cuối cùng Bạch Phát Ma Nữ lên Võ Đang tìm chàng. Trưởng lão của phái Võ Đang đã đuổi Bạch Phát Ma Nữ xuống núi. Bạch Phát Ma Nữ tính tình nóng như lửa, ra tay đả thương một sư thúc của Trác Nhất Hàng, Trác Nhất Hàng buộc ra tay trả đũa. Sau lần đại biến ấy, Trác Nhất Hàng đau đớn khôn cùng, suýt nữa đã nổi điên, cuối cùng bỏ môn phái đến Hồi Cương tìm Bạch Phát Ma Nữ (mời xem bộ truyện “Bạch Phát Ma Nữ”).
Sau biến cố ấy, trong một đêm Bạch Phát Ma Nữ đã bạc trắng mái đầu, nàng ta yêu qúy nhất là dung mạo của mình, sau khi tóc bạc thì đau lòng khôn nguôi, thế là đến Thiên Sơn ẩn cư, không chịu gặp bất cứ ai.
Họ cùng ở Thiên Sơn mấy mươi năm mà không gặp mặt nhau, lần cuối cùng chia tay, Trác Nhất Hàng đã từng nói: “Muội vì huynh mà bạc đầu, huynh nhất định sẽ dốc hết sức tìm linh đơn diệu dược để muội khôi phục tuổi thanh xuân”. Chàng biết Bạch Phát Ma Nữ yêu qúy nhất là dung mạo của mình. Trong lần đầu tiên gặp nhau, Bạch Phát Ma Nữ đã từng bảo rồi đây nàng ta sẽ già đi, lúc đó Trác Nhất Hàng nói đùa rằng, sẽ tìm cho nàng loại thuốc có công hiệu giữ tuổi thanh xuân, không ngờ nay nàng tuổi chưa già mà đầu đã bạc trắng. Nên lần cuối cùng chia tay, chàng đã lặp lại lời nói ấy, nào ngờ đã trở thành là một lời hứa, là tâm nguyện mấy mươi năm của chàng!
Lúc này Bạch Phát Ma Nữ cầm hai đóa hoa nhìn sững sờ, những chuyện mấy mươi năm về trước lướt qua trong đầu nhanh như chớp. Bà không ngờ Trác Nhất Hàng lại có thâm tình với mình như thế, một câu nói đùa khi còn sống mà đến chết cũng phải làm. Bà ta mở mắt thở dài: “Ngươi hãy cầm hai đóa hoa này về đi!” rồi bà ta mở cái tráp, lấy ra một mảnh giấy, trên mảnh giấy đề một bài thơ thất luật:
“Biệt hậu âm thư lưỡng bất văn,
Dự tri giao trác tất phân đàn,
Chỉ duyên hải nội tồn tri kỷ,
Thủy tín thiên nhai nhược bỉ lân,
Lịch kiếp liễu vô sinh tử niệm,
Kinh sương phương hiển tác hàn tâm,
Tận phong tận kiếp hoa thiên thụ,
Thượng hữu u hương phóng thượng lâm”.
Khi hai người vừa mới hiểu lầm, Trác Nhất Hàng đã làm bài thơ này nhờ người gởi cho bà. Lúc đó bà đang tức giận, không hiểu được ý nghĩa của bài thơ. Nay đọc lại chỉ thấy lời lẽ ngọt ngào êm dịu, chan chứa tình yêu nồng cháy. Hai câu đầu của bài thơ này ý muốn nói sau khi chia tay mà không nhận được tin vui, ông ta đoán rằng chắc chắn có rất nhiều lời đồn; câu ba và câu bốn nói, chỉ cần đôi bên thực lòng thương yêu nhau, chỉ cần biết người tri kỷ vẫn còn sống trên đời thì dù ở chân trời hay góc biển cũng như ở sát cạnh nhau; câu năm và câu sáu thể hiện tấm chân tình đến chết vẫn không thay đổi của ông, càng trải qua kiếp nạn, càng trải qua phong sương, tình yêu ấy càng nồng cháy hơn; hai câu cuối cùng ý muốn nói kiếp nạn giống như gió bão, dù đã thổi rạp bao nhiêu đóa hoa tình yêu nhưng những đóa hoa tình yêu ấy vẫn mãi tỏa hương thơm! Lúc trước bà chẳng cảm nhận được gì, nhưng mấy mươi năm trôi qua, Trác Nhất Hàng đã chết, bà cũng tròn một trăm tuổi, lời thơ của Trác Nhất Hàng đã trở thành chứng nhân của thời gian, chứng minh rằng trong mấy mươi năm qua, tâm sự của Trác Nhất Hàng cũng giống như bài thơ ông ta đã viết, chẳng hề thay đổi.
Bạch Phát Ma Nữ gấp tờ giấy lại, đút vào tay áo, ngồi lặng lẽ nhìn ra ngoài, rất lâu sau mà chẳng nói lời nào. Trương Hoa Chiêu lên tiếng: “Lão tiền bối có gì căn dặn?” Bạch Phát Ma Nữ chưa tỉnh cơn mê, thở dài nói: “Vất vả cho ngươi, ngươi có chuyện gì muốn ta làm? Nếu ta làm được chắc chắn sẽ giúp ngươi toại nguyện”. Trương Hoa Chiêu nói: “Tôi muốn lão tiền bối giúp đỡ bảo Phi Hồng Cân thả Lan Châu muội muội của tôi ra”. Bạch Phát Ma Nữ nói: “Lan Châu muội muội nào? Ồ, có phải ả nha đầu ấy không?” Trương Hoa Chiêu gật đầu: “Tôi và nàng đã thương yêu nhau, nguyện kiếp này không rời nhau!” Bạch Phát Ma Nữ nhớ lại cuộc đời của mình, gật đầu chép miệng: “Những điều bọn ta đã sai, bọn tiểu bối các ngươi không nên dẫm chân vào. Phi Hồng Cân nếu muốn thu đồ đệ, trên đời này có biết bao nữ nhi thông minh, nó không cần phải giành Lan Châu với ngươi”. Bà ta nói xong bật cười, rút cây ngọc trâm trên đầu đưa cho Trương Hoa Chiêu: “Mấy ngày hôm nay ta không muốn xuống núi, ngươi cứ đem cây ngọc trâm này đi gặp Phi Hồng Cân, bảo rằng ta muốn nó thả người”. Trương Hoa Chiêu cả mừng khấu tạ. Bạch Phát Ma Nữ lại lấy ra ba thanh kiếm, bảo chàng trả lại cho bọn Quế Trọng Minh. Xong xuôi Bạch Phát Ma Nữ mới nói: “Ngươi đường xa đến đây, ta không có quà gì cho ngươi, vậy sẽ truyền cho ngươi một bộ khinh công”. Nói rồi bà ta nắm tay chàng kéo ra ngoài. Trương Hoa Chiêu chỉ cảm thấy như đạp mây cỡi gió, cũng chẳng biết bà ta đã thi triển thân pháp như thế nào. Trương Hoa Chiêu cả mừng, vội vàng tạ ơn. Bạch Phát Ma Nữ diễn xong bộ khinh công thỉ chỉ cho chàng từng chiêu từng thức, lại truyền khẩu quyết. Trương Hoa Chiêu luyện nửa ngày thì nhớ kỹ, Bạch Phát Ma Nữ nói: “Thôi được, từ rày về sau ngươi hãy tự luyện!”.
Chính là: Tám mươi năm qua như giấc mộng, Thiên Sơn tuyệt đỉnh truyền khinh công.
Muốn biết sau đó thế nào, mời xem hồi sau sẽ rõ.
Hối Minh thiền sư vuốt râu, gật đầu nói: “Con rất giỏi, không phụ lòng ta!” Lăng Vị Phong nói: “Mong sư phụ dạy bảo thêm”. Hối Minh thiền sư hỏi: “Con đã thấy thiếu nữ áo đỏ đó rồi chứ?” Lăng Vị Phong vâng một tiếng. Hối Minh thiền sư nói: “Đó là đệ tử quan môn của Bạch Phát Ma Nữ, nếu cả nàng trong số đó, có bảy người cùng vai vế với con, chỉ có một mình Thạch Thiên Thành không học kiếm. Sáu người cộng thêm Dịch Lan Châu, bảy người các con có thể xưng là Thiên Sơn thất kiếm. Chỉ đáng tiếc sư huynh của con chết sớm, xương cốt vẫn chưa đưa về!” lần đầu tiên Lăng Vị Phong mới nghe đến cái danh Thiên Sơn thất kiếm, chàng đang co ngón tay tính toán thì Hối Minh thiền sư nói: “Ta và Bạch Phát Ma Nữ chia nhau ở hai đỉnh Nam và Bắc của Thiên Sơn, Trác Nhất Hàng thì vân du ở miền Thiên Sơn, không ở một nơi cố định. Ba người bọn ta, trong Thiên Sơn thất kiếm chỉ có một mình con là gặp hết, những người khác không có phước phần này”. Lăng Vị Phong tính: “Hai sư huynh Dương Vân Thông và Sở Chiêu Nam, lại thêm mình và Dịch Lan Châu, cộng lại là bốn người. Bạch Phát Ma Nữ có hai đồ đệ, Phi Hồng Cân và thiếu nữ áo đỏ mới gặp lúc nãy. Trác Nhất Hàng cũng có hai đồ đệ, Thạch Thiên Thành và quái nhân ở ngọn núi Lạc Đà. Trừ Thạch Thiên Thành quả nhiên là bảy người”. Chàng thầm ngạc nhiên, đang nghĩ tại sao sư phụ lại biết mình đã gặp đồ đệ thứ hai của Trác Nhất Hàng. Hối Minh thiền sư đã cười: “Nghe mùi hương trên người con chắc con đã đến núi Lạc Đà. Tân Long Tử tính tình kỳ quặc, các người đã giao thủ rồi chứ?” lúc này Lăng Vị Phong mới biết quái nhân là Tân Long Tử, vâng một tiếng rồi nói: “Lúc đầu con không biết y là đồ đệ của Trác sư thúc, sau đó mới đoán ra nhưng lúc đó đã đánh nhau rất căng...” Hối Minh thiền sư cắt lời: “Con có ứng phó nổi với những quái chiêu của y không?” Lăng Vị Phong nói: “May mà đánh ngang tay với y”. Hối Minh thiền sư trầm ngâm một lát rồi nói: “Trong thất kiếm chính tà đều có. Đại sư huynh của con là người ta thương nhất, đáng tiếc đã chết sớm. Nhị sư huynh của con đi vào nẻo tà, chỉ mong con sau này có thể thanh lý môn hộ. Tân Long Tử giữa chính giữa tà, ta đã sớm bế môn gác kiếm. Bạch Phát Ma Nữ không chịu quản y, cũng chỉ mong con sau này có thể thu phục được y”. Lăng Vị Phong thầm nhủ: “Bạch Phát Ma Nữ ghét ác như thù, tính cách lại hiếu thắng. Tại sao lại để cho Tân Long Tử làm càn ở Thiên Sơn?” nhưng chàng biết Bạch Phát Ma Nữ và sư phụ có điều xích mích nên không dám hỏi.
Hối Minh thiền sư buồn bã nói: “Con kế thừa di chí của đại sư huynh của con coi như là không nhục sư môn. Thiên Sơn kiếm pháp phải nhờ con phát dương quang đại!” Lăng Vị Phong buông tay nghe dạy, Hối Minh thiền sư lại nói: “Bạch Phát Ma Nữ tuy có xích mích với ta, nhưng ta rất coi trọng võ công của bà ta. Lần này bà ta phái đệ tử quan môn đến gặp ta, có lẽ xích này đã tiêu tan”. Lăng Vị Phong nói: “Té ra thiếu nữ áo đỏ là do bà ta phái đến, không biết nàng ta tên gì?” Hối Minh thiền sư nói: “Ta cũng không biết”. Thở dài rồi nói tiếp: “Hai chữ sắc không thật khó phá. Ta cũng không ngờ rằng Bạch Phát Ma Nữ đã gần đến một trăm tuổi mà vẫn nhớ chuyện thời trẻ, bà ta phái người đến hỏi di thư của Trác sư thúc con”. Lăng Vị Phong thầm ngạc nhiên, nhủ rằng: “Chả lẽ bà ta và Trác sư thúc là một đôi uyên ương thời trẻ?” Hối Minh thiền sư lại nói: “Trác sư thúc con tánh tình cũng rất kỳ quặc. Y đến Thiên Sơn mấy mươi năm mà chưa bao giờ nói với ta chuyện thời thiếu niên. Trước khi chết chỉ để lại một cái tráp cho ta, bảo rằng: ‘Nếu có người hái được hai đóa hoa ưu đàm trên núi Lạc Đà đến gặp huynh, huynh hãy giao cái tráp này cho y cầm đi gặp Bạch Phát Ma Nữ’.”
Lăng Vị Phong chợt hỏi: “Hai đóa hoa ưu đàm có phải là một đỏ một trắng hay không? Nghe đồn rằng sáu mươi năm hoa nở một lần, loại hoa này có thể khiến tóc bạc đen trở lại, chuyển lão hoàn đồng?” Hối Minh thiền sư nói: “Đúng là người ta có nói thế, song chưa chắc đã công hiệu như thế. Có lẽ chỉ tốt hơn hà thủ ô mà thôi”. Lăng Vị Phong nói: “Đệ tử có một người bằng hữu đã hái được hoa này!” thế rồi kể chuyện Trương Hoa Chiêu đã hái được hoa ưu đàm trên đỉnh núi rồi xin Hối Minh thiền sư gặp họ.
Hối Minh thiền sư trầm tư một lúc rồi nói: “Ta đã đóng cửa gác kiếm hơn sáu mươi năm nay, vốn là không muốn gặp người ngoài, nhưng e rằng đây là lần gặp mặt cuối cùng, gặp bọn hậu bối các con cũng tốt. Con hãy dắt họ vào đây!”.
Hối Minh thiền sư bước ra khỏi thiền đường, Lăng Vị Phong đã đưa bọn Quế Trọng Minh vào. Bọn Quế Trọng Minh được gặp một bậc đại tôn sư thì vừa mừng vừa lo. Nhưng Hối Minh thiền sư thì rất thích những kẻ hậu bối, bảo bọn họ đừng câu nệ, lại sai mỗi người luyện bộ kiếm pháp của bổn môn cho mình xem. Quế Trọng Minh luyện Ngũ Cầm kiếm pháp, Trương Hoa Chiêu và Mạo Hoàn Liên thì luyện Vô cực kiếm. Hối Minh thiền sư cười rằng: “Trong số các hậu bối, kiếm pháp của các người coi như đã hiếm có. Ngũ Cầm kiếm có sở trường cương kình, Vô cực kiếm lấy nhu chế thắng, mỗi bên đều có ưu điểm. Nếu có thể cương nhu hợp nhau, thế thì càng tốt hơn”. Thế rồi chỉ điểm vào yếu quyết, bọn ba người Quế Trọng Minh đều quỳ xuống bái tạ.
Hối Minh thiền sư cầm cây bảo kiếm của Quế Trọng Minh, xem một lúc thì thở dài than: “Không ngờ hôm nay có thể gặp lại kiếm này!” rồi nói với Lăng Vị Phong: “Thời trẻ ta từng là môn khách của Hùng Kinh Lược, khi ông ta lấy sắt ở Hắc Long Giang luyện kiếm này, ta cũng có mặt”. Thế rồi chỉ điểm cho Quế Trọng Minh cách sử dụng kiếm. Lăng Vị Phong chợt nói: “Suýt nữa sư thúc của y đã cướp thanh kiếm này” Hối Minh thiền sư hỏi: “Vậy sao?” Quế Trọng Minh nói: “Y vừa thấy con đã đòi cướp kiếm, sau đó đã biết có tình thúc điệt mà vẫn không thay đổi. Không biết là lí lẽ gì đây?” Hối Minh thiền sư chép miệng: “Tên Tân Long Tử này đã được Trác sư thúc của con nương chìu hư, có điều nghị lực của y cũng khá lắm”.
Bọn Quế Trọng Minh ăn cơm chay, lại trò chuyện với Hối Minh thiền sư một hồi. Vầng trăng lên tới giữa trời, Hối Minh thiền sư chợt nắm tay Lăng Vị Phong rồi cùng mọi người bước ra ngoài. Lăng Vị Phong chợt cảm thấy tay của Hối Minh thiền sư hơi rung rung.
Hối Minh thiền sư chợt nói: “Đời người trăm năm như điện chớp lửa xẹt. Mọi thứ đều là không. Nơi nào cũng có thể là lầu đài, nếu trong lòng con có ta, không cần đến Thiên Sơn”. Lăng Vị Phong ngơ ngác hỏi: “Đệ tử ngu muội không hiểu thiền nghĩa. Mong sư phụ dạy dỗ”. Hối Minh thiền sư nói: “Chỉ là lời nói bình thường, có tinh nghĩa gì đâu”.
Mạo Hoàn Liên giật mình, suy nghĩ kỹ thiền ngữ, tựa như Hối Minh thiền sư muốn nói điều gì khác, vì thế mới chắp tay nói: “Phật nói ta không vào Địa ngục thì ai vào Địa ngục. Ma chướng trên nhân gian vẫn chưa hết, sao có thể tìm cực lạc cho mình?” Hối Minh thiền sư đọc một tiếng Phật hiệu rồi khen rằng: “Lành thay, lành thay! Mạo cô nương đã hiểu thiền lý. Có điều Phật dùng muôn vàn hóa thân phổ độ chúng sinh, nay lão nạp vỗ tay ra đi, tuy không có hóa thân nhưng cũng may còn có một vài đệ tử”. Mạo Hoàn Liên vội vàng quỳ xuống lạy, Quế Trọng Minh cũng không hiểu họ nói gì, chỉ mở to mắt nhìn Mạo Hoàn Liên. Lăng Vị Phong và Trương Hoa Chiêu cũng quỳ xuống, Quế Trọng Minh ngạc nhiên không biết làm sao. Té ra Mạo Hoàn Liên đã đoán được Hối Minh thiền sư không lâu sau sẽ tọa hóa. Bởi vậy nàng mới nói “Ma chướng trên nhân gian chưa trừ hết”, khuyên Hối Minh thiền sư sống thêm vài năm để trừ ác dương thiện cho nhân gian. Hối Minh thiền sư lại đáp là “Phật dùng muôn ngàn hóa thân phổ độ chúng sinh”, ý muốn nói dù một bậc đại trí như Phật tổ cũng phải viên tịch, chỉ có thể dùng Phật kinh chân nghĩa để truyền bá khắp nhân gian, điều đó coi như dùng muôn vàn hóa thân phổ độ chúng sinh. Nay ông đã hơn một trăm tuổi, người không có lý gì không chết, nếu các đệ tử có thể làm theo lời ông ta thì sẽ sống mãi bất diệt. Đó cũng có nghĩa là vô số hóa thân của ông ta. Kinh Phật tuy là một loại triết học duy tâm nhưng cũng có triết lý đáng học hỏi. Lăng Vị Phong cũng hiểu ra ý tứ của Hối Minh thiền sư, trong lòng không khỏi lo lắng.
Hối Minh thiền sư mỉm cười đỡ họ dậy nói: “Cần gì phải như thế?” rồi nói với Lăng Vị Phong: “Trên Thiên Sơn tuyệt đỉnh lạnh lẽo, con có muốn ở lại hay không thì tùy. Có điều trong tàng kinh các có một cuốn quyền kinh và kiếm quyết, con phải giữ cho ta. Thời gian không còn sớm nữa, hãy nghỉ ngơi đi”.
Đêm hôm ấy mọi người không ngủ, Lăng Vị Phong thấy sư phụ vẫn mạnh giỏi như thường, ông ta tuy để lại những lời nói như trăn trối nhưng chàng nghĩ đó cũng chỉ là chuyện thường tình của người già, chưa chắc trong một khoảng thời gian ngắn đã viên tịch. Không ngờ sáng hôm sau, Ngộ Tính vội vàng chạy vào nói: “Vị Phong, không xong rồi, sư phụ đã tọa hóa!” Lăng Vị Phong vội vàng chạy vào tịnh thất, thấy Hối Minh thiền sư ngồi xếp bằng trên bồ đoàn, mày buông mắt khép, trông giống như ngồi đả tọa bình thường, chàng bất giác khóc òa. Ngộ Tính nói: “Bên bồ đoàn có hai quyển sách và một cái tráp. Chắc là sư phụ muốn đưa cho đệ, đệ hãy nhận lấy”. Lăng Vị Phong cầm hai quyển sách mở ra xem, thấy một cuốn đề “Thiên Sơn kiếm quyết”, một cuốn đề “Hối Minh quyền kinh”, chàng biết đó là tâm huyết hàng trăm năm của sư phụ nên vội vàng dập đầu tạ ơn. Rồi chàng cầm cái tráp xem, trên tráp đề rằng: “Đem hai đóa hoa ưu đàm cùng tráp này lên đỉnh Thiên Sơn ở phía Nam”. Rồi có hàng chữ nhỏ viết: “Người nhận di mệnh là đệ tử cách thế của ta, có thể đòi Tân Long Tử lấy quyền kinh kiếm quyết, do Tân Long Tử thay thầy truyền nghề. Nhất Hàng” Lăng Vị Phong biết đây là di vật của Trác Nhất Hàng, ông ta muốn người hái được hoa ưu đàm cầm cái tráp này lên đỉnh núi Thiên Sơn phía Nam gặp Bạch Phát Ma Nữ. Chàng nghĩ: “Mình không thể làm việc này”. Đang định kêu Ngộ Tính mời Trương Hoa Chiêu, quay đầu lại nhìn thì chàng thấy bọn Trương Hoa Chiêu đã quỳ xuống ở bên ngoài.
Lăng Vị Phong đáp tạ lại, Mạo Hoàn Liên nói: “Lão thiền sư sống hơn trăm tuổi, đã nhìn rõ chốn hồng trần, nay mỉm cười mà đi, Lăng đại hiệp không cần quá đau đớn”. Lăng Vị Phong lau nước mắt rồi cùng Ngộ Tính tẩm liệm cho sư phụ. Chiều hôm đó họ đã xây mộ cho Hối Minh thiền sư trên đỉnh Thiên Sơn.
Tang sự đã xong, Lăng Vị Phong đưa cái tráp cho Trương Hoa Chiêu: “Đây là việc của đệ, hãy đưa cái tráp cùng với hoa ưu đàm đến gặp Bạch Phát Ma Nữ rồi đòi Dịch Lan Châu lại, coi như mọi việc đã xong. Nếu lúc đó đệ chấp nhận học quyền kiếm của Võ Đang thì hãy bái Tân Long Tử làm sư, có di lệnh của Trác Nhất Hàng, y không thể không nhận đệ”. Trương Hoa Chiêu nói: “Đệ chỉ mong gặp Lan Châu”. Mạo Hoàn Liên cười nói: “Học vài quái chiêu cũng tốt!” Lăng Vị Phong giệt mình, thầm nhủ: “Quyển sách ấy là báu vật của hai phái Võ Đang và Thiếu Lâm, Tân Long Tử có lấy đi thì cũng chấp nhận được. Nhưng y không nên dùng quỷ kế lừa gạt Hàn Chí Bang, sau này mình sẽ lên tiếng thay cho Hàn Chí Bang”.
Lăng Vị Phong giữ phần mộ ba ngày, làm xong lễ thấy trò, lại luyện một lượt quyền kinh kiếm quyết của Hối Minh thiền sư. Hôm sau thì chàng từ biệt xuống núi. Ngộ Tính nói: “Bạch Phát Ma Nữ tính tình kỳ quặc, các người phải lưu ý”. Ông ta lại bảo Phi Hồng Cân không ở cùng Bạch Phát Ma Nữ mà ở ngọn Thiên Đô phía Nam núi Thiên Sơn. có thể gặp Phi Hồng Cân trước khi tới gặp Bạch Phát Ma Nữ, cũng có thể không đi ngang Thiên Đô mà đến thẳng chỗ Bạch Phát Ma Nữ.
Bốn người đi được bảy ngày thì đến một vùng núi, Lăng Vị Phong chỉ ngọn núi ở phía Đông nói: “Đây là ngọn Thiên Đô, Phi Hồng Cân và Dịch Lan Châu ở nơi đấy!” Trương Hoa Chiêu chợt nói: “Chúng ta lên ngọn Thiên Đô trước!” Lăng Vị Phong trầm ngâm không đáp, Quế Trọng Minh nói: “Đúng thế, trước tiên tìm Lan Châu cô nương, sau đó đem hoa cho Bạch Phát Ma Nữ!” Lăng Vị Phong cũng chấp nhận.
Ngọn Thiên Đô tuy thấp hơn đỉnh phía Nam của Thiên Sơn nhưng cũng là nơi không có dấu người đến. Họ phải mất cả ba ngày mới leo lên tới nơi, chỉ thấy xung quanh tuyết trắng xóa. Mạo Hoàn Liên nói: “Có lẽ họ nhìn thấy chúng ta cũng lấy làm lạ”. Lên đến chóp núi, trước mặt là vách băng cao đến mười mấy trượng, ai nấy đều ngẩn ra nhìn thì chợt ở gần đấy vọng lại tiếng bước chân.
Quế Trọng Minh nhìn xung quanh mà chẳng thấy ai, đi thêm được mấy bước thì tiếng bước chân ấy lại vang lên. Lăng Vị Phong cười nói: “Các người không cần tìm nữa, làm gì có người mà tìm?” chàng nói chưa dứt lời thì tiếng bước chân lại vọng tới rất rõ ràng. Quế Trọng Minh ngạc nhiên, Lăng Vị Phong nói: “Các người hãy nghe thử âm thanh ấy phát từ đâu?” Mạo Hoàn Liên nói: “Ồ! Sao tiếng bước chân hình như phát ra trên hòn đá chúng ta đang bước”. Quế Trọng Minh cúi người xuống ghé tai vào khe đá, chỉ nghe tiếng nước chảy róc rách như tiếng nhạc, lại có cả tiếng bước chân. Lăng Vị Phong cười nói: “Lúc mới đến ta cũng lấy làm thắc mắc vì âm thanh này, sau đó mới biết vùng núi Thiên Sơn có rất nhiều băng sơn, vì địa chấn nên sau đó nham thạch sụp xuống, đè băng sơn ở phía dưới. Hằng ngày băng sơn tan ra, nham thạch bị hỏng chân. Ở nơi chỗ trống của nham thạch, băng hà lưu động, nghe rất giống bước chân của người đi”. Mạo Hoàn Liên nói: “Té ra là thế, làm tôi hoảng hồn. Chúng tôi từ Giang Nam đến, ít khi gặp băng tuyết, nào biết dưới núi lại có cả những băng sơn thời viễn cổ”. Lăng Vị Phong cười nói: “Muội hãy cẩn thận, dưới chân chúng ta là một băng sơn rất lớn! Chỉ cần nham thạch hỏng chân, chúng ta muốn thoát cũng không được!”.
Trương Hoa Chiêu nghiêng tai lắng nghe, chợt nói: “Tôi không tin, sao lại không phải người?” rồi chàng ta dặm mũi chân, chạy vọt ra phía trước.
Trương Hoa Chiêu chạy một vòng quanh vách núi, leo lên đỉnh núi rồi lẩn vào trong rừng. Lăng Vị Phong cười nói: “Y nhớ đến phát điên, cứ để y tự xem”. Tuy chàng nói thế nhưng vẫn dắt mọi người chạy theo Trương Hoa Chiêu.
Lần này Trương Hoa Chiêu đã đoán đúng, bên trên quả thật có tiếng chân, chàng leo lên đỉnh núi, chàng chợt nghe có người thiếu nữ đang hát dân ca của vùng Bắc Kinh. Dịch Lan Châu đã học được bài này khi ở nhà Thạch Chấn Phi. Trương Hoa Chiêu cũng từng nghe nàng hát, bởi vậy chàng mừng như bắt được vàng, kêu lớn: “Lan Châu! Lan Châu!” một bóng người thấp thoáng trong rừng, Trương Hoa Chiêu đuổi theo, chỉ thấy nàng thiếu nữ vội vàng bỏ chạy. Trương Hoa Chiêu kêu lớn: “Lan Châu, sao muội nhẫn tâm như thế!” chợt bên cạnh có người bước ra mắng: “Tiểu tử, có biết đây là đâu không? Ngươi không được kêu réo ầm ĩ ở đây!” người ấy dung mạo xinh đẹp, có điều đầu tóc bạc trắng. Trương Hoa Chiêu vừa nhìn thì kêu lên: “Phi Hồng Cân, bà không cho tôi gặp nàng, bà cứ giết tôi đi!” rồi nhảy vọt tới, chàng đột nhiên cảm thấy người mềm nhũn ngã lăn xuống đất. Phi Hồng Cân lách người biến mất. Tiếng ca của nàng thiếu nữ cũng nhỏ dần.
Trong khoảnh khắc bọn Lăng Vị Phong đã đuổi tới, thấy thế thì cả kinh, đỡ Trương Hoa Chiêu dậy giải huyệt cho chàng. Trương Hoa Chiêu nói: “Tôi đã gặp nàng, Phi Hồng Cân không cho tôi nói chuyện với nàng”. Lăng Vị Phong hỏi lại mọi việc, chép miệng: “Nếu có lòng thành đá vàng cũng mở”.
Bốn người lại băng qua rừng, chỉ thấy một căn thạch thất ở phía trước. Lăng Vị Phong gõ cửa nói: “Vãn bối Lăng Vị Phong xin được gặp!” một lúc lâu sau vẫn không thấy ai mở cửa.
Lại nói ngày hôm đó Phi Hồng Cân đánh lui Sở Chiêu Nam, cướp được Dịch Lan Châu thì dắt nàng chạy về ngọn Thiên Đô, dốc lòng chữa trị cho nàng. Đến khi nàng khỏe hẳn thì Phi Hồng Cân mới cho nàng biết Nạp Lan vương phi đã chết, rồi hai người nhận nhau làm mẹ con. Phi Hồng Cân đã kể những sự tích anh hùng của Dương Vân Thông cho nàng nghe. Phi Hồng Cân đòi Dịch Lan Châu ở mãi bên cạnh mình, nàng cũng chấp nhận.
Trương Hoa Chiêu đâu biết rằng Phi Hồng Cân đã dùng tình cảm khống chế Dịch Lan Châu, chàng cũng gõ cửa, một lúc lâu sau không có người trả lời thì nổi giận: “Phi Hồng Cân rốt cuộc có ý đồ gì? Nếu không mở cửa thì chúng ta sẽ xông vào”.
Trương Hoa Chiêu vừa dứt lời thì cánh cửa đá bật ra, Phi Hồng Cân xuất hiện lạnh lùng hỏi: “Ngươi vừa nói gì?” Lăng Vị Phong vội vàng đáp: “Chúng tôi muốn gặp tiền bối”. Phi Hồng Cân cười lạnh: “Không dám, chỉ e các người không phải muốn gặp ta!” Quế Trọng Minh trả lời: “Nếu bà đã biết như thế tại sao không để Lan Châu cô nương ra đây?” Mạo Hoàn Liên vội vàng kéo chàng. Phi Hồng Cân ngạo nghễ nói với Lăng Vị Phong: “Y là ai mà không có qui củ như thế?” Quế Trọng Minh định lên tiếng thì bị Mạo Hoàn Liên ngăn lại. Mạo Hoàn Liên dịu dàng nói: “Lan Châu cô nương tình như thủ túc với chúng tôi, chúng tôi từ muôn dặm đến đây muốn xin tiền bối cho phép chúng tôi gặp mặt nàng”.
Phi Hồng Cân không đợi Mạo Hoàn Liên nói hết lời đã quay sang Lăng Vị Phong nói: “Ngươi còn nhớ lời của ngươi đã nói hay không?” Lăng Vị Phong ngạc nhiên: “Tôi đã nói gì?” Phi Hồng Cân nói: “Ở kinh sư ta đã nói với ngươi, nếu ta cứu được Lan Châu thì ngươi không được quản. Ngươi có nhớ không?” Lăng Vị Phong không ngờ bà ta coi chuyện đùa như thực. Quế Trọng Minh chợt mắng: “Thật vô sỉ, có phải một mình bà cứu người đâu? Bà dựa vào cái gì mà quản thúc nàng, nàng cũng đâu phải là con gái của bà?” Phi Hồng Cân ngạo mạn nói: “Nó chính là con gái của ta!” Lăng Vị Phong đưa mắt nhìn Quế Trọng Minh, tỏ ý bảo chàng đừng nói nhiều.
Trương Hoa Chiêu tức tối, lớn giọng nói: “Dù đó là con gái của bà tôi cũng phải gặp. Tôi có lời muốn nói với nàng”. Phi Hồng Cân quát: “Ngươi là gì của nó? Ta không cho ngươi gặp thì ngươi cũng đừng hòng gặp”. Lăng Vị Phong không kìm được nữa, chàng bước tới trầm giọng hỏi: “Tôi đã nuôi lớn Dịch Lan Châu, tôi tuy không là cha của Lan Châu, nhưng chúng tôi có tình cha con. Bà có cho tôi gặp hay không?”.
Phi Hồng Cân chưng hửng, cũng khẽ nói: “Được, các người hãy lui mười bước, ta sẽ gọi Lan Châu ra cửa gặp các ngươi. Hãy để cho nó tự nói, nó muốn ở lại đây hay đi theo các người”. Lăng Vị Phong đành chịu, cùng ba người kia lui ra mười bước. Phi Hồng Cân vỗ tay ba cái, một thiếu nữ nhẹ nhàng bước ra trước cửa. Trương Hoa Chiêu kêu lên: “Lan Châu, tôi đến đấy” Phi Hồng Cân rút cây roi chỉ về phía Trương Hoa Chiêu: “Không được đến đây?”.
Dịch Lan Châu nước mắt lưng tròng, kêu lên: “Lăng thúc thúc!” rồi đôi dòng nước mắt lăn xuống. Phi Hồng Cân vội vàng kéo Dịch Lan Châu hỏi: “Họ muốn dẫn con đi, con có chịu không?” Dịch Lan Châu khẽ nói: “Con muốn ở đây cùng với người!” Phi Hồng Cân đẩy nàng ta nói: “Hay lắm, thế là được. Con hãy vào nghỉ đi thôi!” Dịch Lan Châu xoay người bước vào bên trong như bị trúng tà, Trương Hoa Chiêu kêu lớn: “Lan Châu, Lan Châu. Đừng quay vào”. Lăng Vị Phong cũng kêu lớn: “Lan Châu, cha mẹ con tuy đã chết, nhưng con vẫn chưa hoàn thành chí nguyện của cha con! Con là con của Dương Vân Thông! Chỉ giết Đa Thích vẫn chưa đủ trả thù!” Phi Hồng Cân đóng sầm cửa, nhốt Dịch Lan Châu bên trong. Bà ta thì đứng trên tường, cao giọng nói: “Lăng Vị Phong, ngươi có thể quay về rồi đấy”.
Quế Trọng Minh tức giận, tay phải vung lên, ba vòng kim hoàn chia nhau đánh vào ba đại huyệt của Phi Hồng Cân. Phi Hồng Cân vung roi lên cuộn ba vòng kim hoàn, cười lạnh nói: “Ta nể tình ngươi là kẻ hậu bối, không tính toán với ngươi. Ngươi cứ xông bừa tới thì coi chừng ta!” Mạo Hoàn Liên cố gắng kéo Quế Trọng Minh, Lăng Vị Phong bước tới ba bước, định tranh cãi với Phi Hồng Cân thì chợt nghe một giọng nói già nua vang lên bên cạnh.
Giọng nói ấy quát: “Ai dám ngông cuồng ở Thiên Sơn?” Lăng Vị Phong giật mình, nhìn kỹ lại thì thấy một bà già tóc bạc phơ đã đến bên cạnh họ từ lúc nào mà chàng không hề biết. Lăng Vị Phong cung kính hành lễ rồi nói: “Gia sư Hối Minh thiền sư bảo đệ tử đến gặp lão tiền bối”. Bạch Phát Ma Nữ hừ một tiếng, hỏi: “Sư phụ của ngươi có khỏe không?” Lăng Vị Phong nói: “Gia sư đã viên tịch, vãn bối đến đây cốt để thông báo”. Bạch Phát Ma Nữ nhói lòng, chép miệng: “Từ nay về sau, ta không tìm được đối thủ luyện kiếm pháp nữa”. Lăng Vị Phong không dám lên tiếng, một hồi sau Bạch Phát Ma Nữ lại hỏi: “Các ngươi đến đây cốt chỉ để gặp ta sao?” Lăng Vị Phong nói: “Đúng thế, còn có một cái tráp của Trác sư thúc để lại muốn dâng cho người”. Bạch Phát Ma Nữ biến sắc mặt, quát: “Ngươi dám nói dối trước mặt ta. Ta sống ở phía Nam Thiên Sơn, ngươi đâu phải không biết. Vậy đến ngọn Thiên Đô làm gì? Trác Nhất Hàng có đồ đưa cho ta cũng sẽ không bảo các ngươi cầm đến. Hừ, ngươi dám bỡn cợt trước mặt ta?” Lăng Vị Phong đang định biện giải, Phi Hồng Cân đã nói: “Sư phụ, bọn chúng đến đây bức hiếp con, muốn cướp đồ đệ của con vừa mới nhận”. Bạch Phát Ma Nữ chợt cười lạnh, Lăng Vị Phong, Quế Trọng Minh, Mạo Hoàn Liên Trương Hoa Chiêu đều cảm thấy hoa mắt, tựa như có một bóng người lướt qua người họ. Lăng Vị Phong đột nhiên thu người, tránh qua một bên, bên tai còn nghe tiếng người nói: “Hay lắm!” trong chớp mắt Bạch Phát Ma Nữ đã đứng ở giữa hai bên. Bạch Phát Ma Nữ hai tay cầm ba thanh kiếm, cười lạnh nói: “Lăng Vị Phong, binh khí của bằng hữu ngươi đã nằm trong tay ta. Niệm tình ngươi là đệ tử của Hối Minh thiền sư, ta không trừng phạt các ngươi. hãy mau cút xuống núi cho ta!” nói xong thì dắt Phi Hồng Cân vào trong, nói: “Mặc kệ bọn chúng!” rồi đóng sầm cửa lại.
Lăng Vị Phong kinh hãi, chỉ trong chớp mắt Bạch Phát Ma Nữ đã tấn công bốn người, ngoại trừ mình, binh khí của ba người kia đều bị bà ta giật mất. Đây đúng là tuyệt đỉnh công phu trên võ lâm, chả trách nào bà ta dám hai lần tìm Hối Minh thiền sư tỉ thí.
Lăng Vị Phong biết Bạch Phát Ma Nữ tính tình kỳ quặc, không dám ở lâu, thế là dắt ba người kia xuống ngọn Thiên Đô. Đến chân núi thì chép miệng than rằng: “Chúng ta đã xúc phạm nữ ma đầu này, e rằng không thể chụp lại giữ Lan Châu nữa”. Trương Hoa Chiêu buồn rầu. Quế Trọng Minh tiếc thanh bảo kiếm nên cũng chẳng nói ra lời.
Một hồi sau Mạo Hoàn Liên chợt vỗ tay nói: “Lăng đại hiệp, đừng lo. Chúng ta có thể gặp lại Lan Châu tỷ tỷ và lấy lại binh khí. Chỉ cần Trương đại ca mạo hiểm một lần”. Trương Hoa Chiêu nói: “Vậy có ích gì, ta đánh không lại người ta, có van xin cũng chẳng được”. Mạo Hoàn Liên nói: “Không cần đánh nhau, huynh chỉ cần cái tráp cùng hai đóa hoa ưu đàm đến phía Nam Thiên Sơn gặp Bạch Phát Ma Nữ. Đảm bảo bà ta sẽ bảo Phi Hồng Cân trả Dịch Lan Châu về cho huynh”. Trương Hoa Chiêu ngạc nhiên nói: “Làm thế được sao?” Mạo Hoàn Liên nói: “Tôi gạt huynh làm gì? vả lại ngoài cách đó cũng chẳng còn cách nào khác”. Lăng Vị Phong nghĩ ngợi, gật đầu nói: “Đúng thế”. Quế Trọng Minh cứ thắc mắc, chỉ ngẩn người ra nhìn Mạo Hoàn Liên.
Trương Hoa Chiêu một mình leo lên núi cao cứ ba bước lại quỳ bái một lần, cực khổ vô cùng. Chàng ta được hai ngày thì lên đến đỉnh núi phủ đầy tuyết. Giữa đỉnh núi có một ngôi nhà băng. Chàng quỳ xuống hành đại lễ. Chỉ nghe một giọng nói già nua vang lên: “Ta tha thứ cho ngươi, ngươi hãy vào đi!”.
Trương Hoa Chiêu thầm nhủ: “Bạch Phát Ma Nữ đúng là kỳ quặc nên mới sống nơi này”. Chỉ thấy trong nhà đầy ánh nến còn Bạch Phát Ma Nữ thì ngồi giữa nhà. Trương Hoa Chiêu đang định tham bái, chợt thấy một luồng lực lớn đẩy chàng lên, Bạch Phát Ma Nữ hỏi: “Có phải Trác Nhất Hàng đã sai ngươi đến đây?”.
Trương Hoa Chiêu lấy cái tráp cùng hai đóa hoa ra. Bạch Phát Ma Nữ hỏi: “Có phải ngươi đã hái hai đóa hoa này?” Trương Hoa Chiêu cung kính nói: “Chính là do vãn bối đã hái. Vãn bối vâng lệnh Trác lão tiền bối đem đến tặng cho người”. Bạch Phát Ma Nữ buồn bã nói: “Một lời nói chơi bảy mươi năm trước, sao ông ta vẫn nhớ rõ đến thế. Hôm nay ta vừa tròn một trăm tuổi, còn cần hoa ưu đàm làm gì?” Trương Hoa Chiêu không biết đáp thế nào, chàng thấy trong phòng đầy nến mới nghĩ bụng té ra hôm nay là ngày đại thọ một trăm tuổi của bà. Đang định tìm lời chúc mừng, thấy Bạch Phát Ma Nữ nhắm mắt tịnh tọa, sắc mặt sầu thảm thì không dám nói gì.
Bạch Phát Ma Nữ vẫn ngồi thẫn thờ, chuyện bảy mươi năm trước kéo ùa về.
Bảy mươi năm trước, Bạch Phát Ma Nữ chỉ là một thiếu nữ hơn hai mươi tuổi nhưng danh tiếng đã lừng lẫy giang hồ, là một đạo tặc miền Tây Bắc. Trác Nhất Hàng là một công tử nhà quyền quý, tổ phụ của chàng làm quan tổng đốc, trên đường về quê đã bị Bạch Phát Ma Nữ chặn đường cướp của, lại đả thương một người đồng môn của Trác Nhất Hàng. Sau đó họ lại đụng độ nhau, thế là hai bên đem lòng yêu thương. Nhưng Trác Nhất Hàng dẫu sao cũng là hậu duệ của nhà quyền quý, tuy trong lòng có tình yêu nhưng không dám biểu lộ, càng không thể làm cường đạo. Bạch Phát Ma Nữ tức giận bỏ đi, mấy năm sau Trác Nhất Hàng trở thành đệ tử Chưởng môn phái Võ Đang, lúc đó trở ngại càng thêm lớn. Bọn họ sau mấy phen bi hoan, vài lượt ly hợp, lần cuối cùng Bạch Phát Ma Nữ lên Võ Đang tìm chàng. Trưởng lão của phái Võ Đang đã đuổi Bạch Phát Ma Nữ xuống núi. Bạch Phát Ma Nữ tính tình nóng như lửa, ra tay đả thương một sư thúc của Trác Nhất Hàng, Trác Nhất Hàng buộc ra tay trả đũa. Sau lần đại biến ấy, Trác Nhất Hàng đau đớn khôn cùng, suýt nữa đã nổi điên, cuối cùng bỏ môn phái đến Hồi Cương tìm Bạch Phát Ma Nữ (mời xem bộ truyện “Bạch Phát Ma Nữ”).
Sau biến cố ấy, trong một đêm Bạch Phát Ma Nữ đã bạc trắng mái đầu, nàng ta yêu qúy nhất là dung mạo của mình, sau khi tóc bạc thì đau lòng khôn nguôi, thế là đến Thiên Sơn ẩn cư, không chịu gặp bất cứ ai.
Họ cùng ở Thiên Sơn mấy mươi năm mà không gặp mặt nhau, lần cuối cùng chia tay, Trác Nhất Hàng đã từng nói: “Muội vì huynh mà bạc đầu, huynh nhất định sẽ dốc hết sức tìm linh đơn diệu dược để muội khôi phục tuổi thanh xuân”. Chàng biết Bạch Phát Ma Nữ yêu qúy nhất là dung mạo của mình. Trong lần đầu tiên gặp nhau, Bạch Phát Ma Nữ đã từng bảo rồi đây nàng ta sẽ già đi, lúc đó Trác Nhất Hàng nói đùa rằng, sẽ tìm cho nàng loại thuốc có công hiệu giữ tuổi thanh xuân, không ngờ nay nàng tuổi chưa già mà đầu đã bạc trắng. Nên lần cuối cùng chia tay, chàng đã lặp lại lời nói ấy, nào ngờ đã trở thành là một lời hứa, là tâm nguyện mấy mươi năm của chàng!
Lúc này Bạch Phát Ma Nữ cầm hai đóa hoa nhìn sững sờ, những chuyện mấy mươi năm về trước lướt qua trong đầu nhanh như chớp. Bà không ngờ Trác Nhất Hàng lại có thâm tình với mình như thế, một câu nói đùa khi còn sống mà đến chết cũng phải làm. Bà ta mở mắt thở dài: “Ngươi hãy cầm hai đóa hoa này về đi!” rồi bà ta mở cái tráp, lấy ra một mảnh giấy, trên mảnh giấy đề một bài thơ thất luật:
“Biệt hậu âm thư lưỡng bất văn,
Dự tri giao trác tất phân đàn,
Chỉ duyên hải nội tồn tri kỷ,
Thủy tín thiên nhai nhược bỉ lân,
Lịch kiếp liễu vô sinh tử niệm,
Kinh sương phương hiển tác hàn tâm,
Tận phong tận kiếp hoa thiên thụ,
Thượng hữu u hương phóng thượng lâm”.
Khi hai người vừa mới hiểu lầm, Trác Nhất Hàng đã làm bài thơ này nhờ người gởi cho bà. Lúc đó bà đang tức giận, không hiểu được ý nghĩa của bài thơ. Nay đọc lại chỉ thấy lời lẽ ngọt ngào êm dịu, chan chứa tình yêu nồng cháy. Hai câu đầu của bài thơ này ý muốn nói sau khi chia tay mà không nhận được tin vui, ông ta đoán rằng chắc chắn có rất nhiều lời đồn; câu ba và câu bốn nói, chỉ cần đôi bên thực lòng thương yêu nhau, chỉ cần biết người tri kỷ vẫn còn sống trên đời thì dù ở chân trời hay góc biển cũng như ở sát cạnh nhau; câu năm và câu sáu thể hiện tấm chân tình đến chết vẫn không thay đổi của ông, càng trải qua kiếp nạn, càng trải qua phong sương, tình yêu ấy càng nồng cháy hơn; hai câu cuối cùng ý muốn nói kiếp nạn giống như gió bão, dù đã thổi rạp bao nhiêu đóa hoa tình yêu nhưng những đóa hoa tình yêu ấy vẫn mãi tỏa hương thơm! Lúc trước bà chẳng cảm nhận được gì, nhưng mấy mươi năm trôi qua, Trác Nhất Hàng đã chết, bà cũng tròn một trăm tuổi, lời thơ của Trác Nhất Hàng đã trở thành chứng nhân của thời gian, chứng minh rằng trong mấy mươi năm qua, tâm sự của Trác Nhất Hàng cũng giống như bài thơ ông ta đã viết, chẳng hề thay đổi.
Bạch Phát Ma Nữ gấp tờ giấy lại, đút vào tay áo, ngồi lặng lẽ nhìn ra ngoài, rất lâu sau mà chẳng nói lời nào. Trương Hoa Chiêu lên tiếng: “Lão tiền bối có gì căn dặn?” Bạch Phát Ma Nữ chưa tỉnh cơn mê, thở dài nói: “Vất vả cho ngươi, ngươi có chuyện gì muốn ta làm? Nếu ta làm được chắc chắn sẽ giúp ngươi toại nguyện”. Trương Hoa Chiêu nói: “Tôi muốn lão tiền bối giúp đỡ bảo Phi Hồng Cân thả Lan Châu muội muội của tôi ra”. Bạch Phát Ma Nữ nói: “Lan Châu muội muội nào? Ồ, có phải ả nha đầu ấy không?” Trương Hoa Chiêu gật đầu: “Tôi và nàng đã thương yêu nhau, nguyện kiếp này không rời nhau!” Bạch Phát Ma Nữ nhớ lại cuộc đời của mình, gật đầu chép miệng: “Những điều bọn ta đã sai, bọn tiểu bối các ngươi không nên dẫm chân vào. Phi Hồng Cân nếu muốn thu đồ đệ, trên đời này có biết bao nữ nhi thông minh, nó không cần phải giành Lan Châu với ngươi”. Bà ta nói xong bật cười, rút cây ngọc trâm trên đầu đưa cho Trương Hoa Chiêu: “Mấy ngày hôm nay ta không muốn xuống núi, ngươi cứ đem cây ngọc trâm này đi gặp Phi Hồng Cân, bảo rằng ta muốn nó thả người”. Trương Hoa Chiêu cả mừng khấu tạ. Bạch Phát Ma Nữ lại lấy ra ba thanh kiếm, bảo chàng trả lại cho bọn Quế Trọng Minh. Xong xuôi Bạch Phát Ma Nữ mới nói: “Ngươi đường xa đến đây, ta không có quà gì cho ngươi, vậy sẽ truyền cho ngươi một bộ khinh công”. Nói rồi bà ta nắm tay chàng kéo ra ngoài. Trương Hoa Chiêu chỉ cảm thấy như đạp mây cỡi gió, cũng chẳng biết bà ta đã thi triển thân pháp như thế nào. Trương Hoa Chiêu cả mừng, vội vàng tạ ơn. Bạch Phát Ma Nữ diễn xong bộ khinh công thỉ chỉ cho chàng từng chiêu từng thức, lại truyền khẩu quyết. Trương Hoa Chiêu luyện nửa ngày thì nhớ kỹ, Bạch Phát Ma Nữ nói: “Thôi được, từ rày về sau ngươi hãy tự luyện!”.
Chính là: Tám mươi năm qua như giấc mộng, Thiên Sơn tuyệt đỉnh truyền khinh công.
Muốn biết sau đó thế nào, mời xem hồi sau sẽ rõ.
/30
|