Thời Đại Kết Hôn Mới

Chương 1

/20


Cố Tiểu Tây, hai mươi tư tuổi, đã kết hôn. Chồng Tây, Hà Kiến Quốc, nghiên cứu sinh khoa công nghệ thông tin trường đại học Thanh Hoa, hiện là cán bộ chủ chốt tại một công ty IT có tiếng, lương tháng một trăm hai mươi nghìn tệ, đã trừ thuế. Ngoại hình cũng được, thậm chí có thể coi là đẹp trai. Có lần trên đường Quốc bị một cô gái chặn lại xin chữ ký và khăng khăng gọi là Bae Yong Jun. Trở về nhà Quốc liền hỏi Tiểu Tây xem Bae Yong Jun là ai, Tiểu Tây trả lời rằng đó là một diễn viên đóng vai nông dân rất xuất sắc. Kiến Quốc biết rõ Tây đang nói đùa nhưng chẳng biết phải làm gì bởi Quốc vốn không hề xem phim truyền hình, bao gồm cả phim Hàn Quốc. Cố Tiểu Tây thì vô cùng thích diễn xuất của Bae Yong Jun. Nguyên nhân chính mà Tây thấy thích là vì Bae Yong Jun nhìn rất giống Hà Kiến Quốc.

Thế nhưng vẫn có người cho rằng Cố Tiểu Tây đã “cắm nhầm bãi phân trâu”.

Ban đầu, nghe nói vậy Tiểu Tây có phần đắc ý, và cảm thấy mọi người đang quá đề cao mình. Nhưng sau, nghe mãi lại thấy chẳng thuận tẹo nào, cái gì mà phân trâu chứ? Rõ ràng điều kiện của Tây rất tốt, nghĩ xiên đi chút thì câu nói ấy chẳng phải ngụ ý rằng: Kiến Quốc là bãi phân trâu sao.

Hà Kiến Quốc sinh ra ở nông thôn, đó cũng không phải là vùng ven ô như kiểu vành đai Xương Bình, mà là một vùng nông thôn điển hình: một vùng quê nghèo xa xôi. Mẹ Tiểu Tây đã từng dẫn đoàn bác sĩ qua thôn đấy nên bà biết rất rõ tình hình ở đó ra sao. Nhưng những gì mẹ nói dường như quá đao to búa lớn, vì thế với Tiểu Tây tất cả chỉ như nước đổ lá khoai mà thôi, hơn nữa, lý lẽ Tây đưa ra rất xác đáng: Con lấy Hà Kiến Quốc chứ có lấy cả thôn họ Hà đâu. Cái thôn nghèo khó, xa xôi hẻo lánh, nước nhỏ thành băng, chó ăn đá gà ăn sỏi, không có văn hóa, coi thường phụ nữ, cả nhà đắp chung cái chăn ấy thì liên quan gì đến con chứ? Con cũng chẳng tới đó ở. Tiền con kiếm thì con tiêu, chưa từng nghĩ tới việc dựa dẫm người khác. Nói xong Tây còn phê phán mẹ thêm hai câu: Nghèo thì sao? Nghèo không có tội, có tội là khinh người nghèo. Điều này khiến mẹ tức đến mức hét ầm lên: Cô không muốn tới ở cái nhà nghèo khó đấy, nhưng đã hỏi xem người ta có muốn cô đến ở không chưa? Còn nữa, cô cũng đã hỏi người ta có chào đón cô về ở chưa? Bố mẹ chồng đòi con dâu phải báo hiếu, nếu họ có yêu cầu liệu cô có thể không về đó không? Cô cứ tới đó đi rồi xem còn có thể nói là: Cái thôn nghèo khó, xa xôi hẻo lánh, nước nhỏ thành băng, chó ăn đá gà ăn sỏi, không có văn hóa, coi thường phụ nữ, cả nhà đắp chung cái chăn ấy thì liên quan gì đến cô nữa không? Cô không dựa dẫm vào người khác nhưng người ta yêu cầu cô những gì cô có biết không? Người ta nhịn ăn nhịn mặc, thắt lưng buộc bụng để chu cấp cho con trai ăn học, chẳng lẽ cho không cô một người chồng yêu thương cô, chiều chuộng cô chắc, hai mươi năm nuôi dưỡng người ta cũng cần báo đáp chứ!

[Chúc bạn đọc sách vui vẻ tại www.gacsach.com – gác nhỏ cho người yêu sách.]

Lúc ấy, Cố Tiểu Tây cũng chưa hiểu thế nào gọi là “báo đáp”, nhưng cho đến khi biết rồi Tây mới thấy những lời mẹ nói vẫn còn nhẹ nhàng chán. Vậy cái gọi là báo đáp ấy là gì, chính là trách nhiệm mà trả bằng cả cuộc đời cũng chẳng hết mà vẫn không có gì là quá đáng. Kiến Quốc nợ ân tình dưỡng dục, thử hỏi trả bằng gì đây. “Kiến Quốc à, anh con sinh quá tiêu chuẩn phải nộp phạt.”, “Kiến Quốc à, mộ của ông cần phải tu sửa.”, “Kiến Quốc à, cháu gái con phải đi học.”, “Kiến Quốc à, ở quê sửa đường phải góp tiền.”, “Kiến Quốc à, con gái thứ tư nhà chú hai tốt nghiệp cao đẳng, con có thể tìm việc cho nó ở Bắc Kinh được không?”… Bất luận là chuyện gì, chỉ cần bố mở miệng là cậu con trai liền “vâng” một tiếng đồng ý ngay, cho dù điều đó có hợp lý hay không, có làm được hay không. Lý do là vì làm con trong nhà có việc Quốc không thể làm ngơ. Lúc này, Tiểu Tây mới hiểu rõ, cái gọi là không khinh nghèo ham giàu, tự lo cuộc sống, tự tay xây nhà chỉ là cách nhìn về “gia đình”. Trong quan niệm của Tây, gia đình là nơi của chàng và nàng, hai người cùng nỗ lực, đừng nói là đủ ăn đủ mặc, thậm chí có ngày sẽ được ăn ngon mặc đẹp. Thế nhưng trong quan niệm của Kiến Quốc thì “gia đình” không chỉ có Tây và Quốc, ở đó còn có bố mẹ, có anh trai chị dâu, có các con của anh chị và còn vô số các bậc trưởng bối mà Tiểu Tây chẳng thế nhớ hết đang sinh sống ở vùng nông thôn xa xôi ấy như chú, ông, anh ba, dì sáu… Trước kia, Tiểu Tây đơn giản cho rằng việc gia đình của Quốc nếu giúp được thì giúp, chẳng giúp được thì thôi. Đừng nghĩ rằng thường ngày Quốc đối với Tiểu Tây thế nào cũng xong, nói gì cũng nghe, nhưng chỉ cần sự việc liên quan tới bố là Quốc lập tức như ngồi trên đống lửa của Hà thôn, hơn nữa thái độ lại vô cùng cương quyết.

Chẳng nói đâu xa, ngay dịp tết năm ngoái thôi. Hà Kiến Quốc biết rõ Tiểu Tây đang có thai, nhưng chỉ vì một câu nói của bố, Quốc nằng nặc đòi Tiểu Tây cùng mình về quê ăn tết. Ban đầu, Tiểu Tây nghĩ rằng cứ như năm ngoái dùng mấy lời ngọt nhạt dỗ dành, bỏ ra ít tiền mua quà nịnh mọi người là xong, nào ngờ lần này Kiến Quốc “trở mặt”, nhất nhất không thay đổi ý kiến vì mấy “đồng tiền lẻ”: “Từ khi lấy nhau đến giờ em đã làm dâu nhà anh lần nào chưa, còn nói được gì nữa không? Gia đình anh thì làm sao? Nghèo hả? Nếu gia đình anh có một căn nhà to, trong đó có đủ vườn hoa bể bơi sân golf, có khi em lại chẳng khóc lóc van xin được về nhà anh ở cũng nên!”

Nghe vậy, Tiểu Tây mặt lạnh như tiền điên tiết quát lại: “Anh Quốc à, thôi xin anh? Vậy cho em cái cơ hội được khóc lóc van xin về nhà anh đi!”

Bình thường, nghe Tiểu Tây nói vậy, Kiến Quốc chỉ cười một tiếng ha ha rồi thôi, nhưng lần này mọi chuyện không kết thúc đơn giản như vậy, họ vẫn lời qua tiếng lại với nhau không ngừng: “Ừ thì gia đình anh nghèo, nhưng chẳng nhẽ người nghèo không có quyền yêu cầu con dâu cùng về quê ăn tết hả? Tiểu Tây, em quá đáng rồi đấy, chẳng nhẽ người nghèo thì không được ăn tết hả? Người nghèo thì ăn tết phải lẳng lặng hả?”

Đương nhiên Tiểu Tây không thể phủ nhận quyền gặp con dâu vào dịp tết của người nghèo như vậy, vì thế Tây vẫn phải dùng cái điệp khúc mà năm nào cũng xảy ra ấy là rất khó mua được vé tàu, hơn nữa người dân lao động dịp này về quê nhiều, chen chúc nhau nhỡ may sảy thai thì biết làm sao? Nghe vậy, Kiến Quốc cười khẩy đáp: “Chỉ cần em đồng ý về quê ăn tết với anh, chẳng có khó khăn nào là không thể khắc phục được.” Hôm sau tan làm về, khi nhìn thấy chiếc ô tô Cherokee đời cũ Quốc thuê ở đâu về, Tiểu Tây hiểu rằng mọi chuyện thế là xong: Hà Kiến Quốc lần này không những hoàn thành nhiệm vụ bố giao là đưa con dâu về quê ăn tết, mà còn hoàn thành vượt mức nhiệm vụ bố giao - áo gấm về quê. Thuê xe về quê nghe có vẻ như là vì Tiểu Tây, nhưng kỳ thực là vì thể diện của bố: họ hàng đều đến xem, kháo nhau rằng con trai thứ hai nhà họ Hà lái xe con đưa con dâu Bắc Kinh về quê!

Suốt trên chặng đường đi hai ngày ấy, điều duy nhất mà Kiến Quốc và Tiểu Tây nói với nhau là: “Mình sẽ về ở nhà ba ngày, thôn họ Hà không phải nơi có thể ở được, vì thế ba ngày ấy em cần phải nhịn. Em đi đâu cũng đừng có khinh nọ bỉu kia, em phải giữ thể diện cho anh nữa.” Tiểu Tây đồng ý. Trong lòng thiết nghĩ, chỉ có ba ngày thôi xảy ra chuyện gì được chứ? Ba ngày có thể chết người chắc? Nhưng kết quả thì đúng là chết người, đứa con trong bụng Tiểu Tây bị sảy: trên đường về, xe bị sụt ổ gà, xung quanh đồng không mông quạnh, đến một bóng người cũng chẳng có, Tiểu Tây thì không biết lái xe, vì thế đành để Quốc ngồi trên xe chỉnh vô lăng còn mình xuống đẩy xe. Gió rét như cắt da cắt thịt, tay Tây như dính chặt vào ô tô và lập tức bị đóng băng. Tây dùng ngực hết sức đẩy, nước mắt nước mũi giàn giụa mà chiếc xe vẫn chẳng nhúc nhích. May sao lát sau có chiếc xe kéo giúp họ kéo chiếc xe lên, nếu không tối đó họ sẽ phải “qua đêm ngoài đường”. Đêm đó, cơ thể Tiểu Tây xảy ra bất thường nên vội quay về Bắc Kinh để kiểm tra, kết quả là Tây bị sảy thai.

Đương nhiên, việc sảy thai này không phải chỉ vì Tây phải đẩy xe, có thể đẩy xe chỉ là nguyên nhân cuối cùng cho sự việc đáng tiếc ấy, tết năm ấy đối với Tiểu Tây có thể dùng mấy chữ “Thứ nhất không sợ khổ, thứ hai không sợ chết” để hình dung. Những gì Tiểu Tây trải qua thật đầy hoang tưởng, rõ ràng đang mang thai, là nòi giống của họ Hà, thôi thì không cần người khác phục vụ, nhưng có thể không phải phục vụ người khác không? Tây biết rằng, dâu con ở thôn họ Hà này đều phải phục vụ già trẻ gái trai - nhưng… - cứ nhìn chị dâu của Kiến Quốc là biết những suy nghĩ ấy của Tiểu Tây chỉ là hão huyền mà thôi. Chị dâu của Kiến Quốc đều nhanh chóng sinh con, phụ nữ mang thai ở cái thôn họ Hà này mà nói là chuyện rất bình thường. Với tình hình như vậy, Tiểu Tây có thể không động tay động chân làm gì đó sao? Suốt chặng đường Kiến Quốc chỉ dặn Tiểu Tây phải giữ thể diện cho Quốc. Mà không làm việc cùng mọi người là không giữ thể diện cho Quốc rồi. Thực ra mà nói, gia đình Kiến Quốc cũng rất chăm sóc Tiểu Tây, chị dâu nấu cơm Tây chỉ phải đứng bên làm những việc phụ vặt; chị dâu toàn phải làm việc nặng nhọc còn Tây chỉ gọi là động tay một chút như nhặt rau, rửa rau, ăn xong thì thu dọn rửa bát đĩa. Có điều nước ở đó thì rất lạnh, à không, không phải là lạnh mà là buốt, buốt vào tận xương tận thịt! Thế nhưng Tiểu Tây không được sợ lạnh, chị dâu của Kiến Quốc ngày ngày đi gánh hai xô nước ở tận giếng cách nhà hai km về để rửa - tấm gương trước mắt quả là quá lớn - nhìn chị dâu như vậy, Tiểu Tây thầm nghĩ vất vả đến đâu cũng chỉ ba ngày thôi mà. Khổ đến đâu rồi cũng sẽ qua, chỉ cần một chữ Nhẫn, cứ cố gắng mà làm, so với nỗi khổ của cả đời người thì có đáng chi, thế nên thôi cứ làm theo quy định của Hà thôn. Ngày ngày chuẩn bị cơm nước cho bảy, tám người. PHẢI LÀM! Nấu xong, thu lu trong bếp như con mèo nhỏ, lắng nghe những người lớn trong nhà vừa ăn uống vừa nói chuyện oang oang. Đây cũng là quy định của Hà thôn, chỉ đàn ông mới được ngồi ăn cơm trên bàn, phụ nữ thì phải đợi đàn ông ăn xong mới được ăn. Lại nói tới ba ngày đó, Tiểu Tây chẳng làm được việc gì, cũng chẳng làm được như chị dâu, chỉ biết ở trong bếp cố nuốt số đồ ăn thừa mà những người đàn ông ăn còn lại, Tây cảm thấy trong đó còn dính đầy nước bọt. Nhưng vì thể diện của chồng yêu quý, Tây không một lời than vãn. Thôi thì một điều nhịn bằng chín điều lành, đành ăn cơm không, không ăn thức ăn vậy, đói chắc cũng chẳng chết được. Thế là, già trẻ lớn bé ở Hà thôn hễ gặp Kiến Quốc là khen, nào là bố Quốc có phúc lớn, vợ Quốc dù là gái thành phố nhưng đến Hà thôn cũng chẳng khác gì những nàng dâu khác, không tỏ ra kênh kiệu, làm cho bố Quốc được một phen nở mày nở mặt.

Ngoài việc đứa con thứ hai này lái xe con đưa vợ từ thành phố về thì việc con dâu đang mang bầu cũng là một nguyên nhân khiến bố Quốc thấy tết năm ấy là cái tết mà ông mãn nguyện nhất trong suốt cả đời mình. Trước đây, chuyện con trai đỗ đại học rồi ở lại Bắc Kinh làm việc đã là chuyện khiến ông rất hãnh diện, nhưng kết hôn với nhau gần năm, sáu năm mà vợ chồng Tây không sinh cho ông đứa cháu đích tôn lại làm ông vô cùng bực mình, quyết định phải nói ra, con cái thành đạt để làm gì chứ? Dẫu trong nhà có núi vàng núi bạc mà tuyệt tử tuyệt tôn không người hương khói liệu có ích gì - con dâu lớn thì sinh một bé gái. Giờ thì quá tốt rồi, con dâu thứ cũng đang mang thai, hơn nữa, theo như siêu âm thì là con trai. Nói vậy nghĩa là nhà họ Hà có người nối dõi rồi, Hà gia đúng là thập toàn thập mỹ! Suốt cả tết ấy, chủ đề mà bố Quốc luôn nói tới là Kiến Quốc tài ba ra sao, con dâu hiền thục thế nào, và cả đứa cháu đích tôn trong bụng con dâu thứ nữa. Chỉ tiếc là ông đã vui mừng quá sớm, mấy câu này vừa nói ra chẳng được mấy hôm, con dâu cả liền sinh ra một bé gái nữa, còn con dâu thứ thì sảy thai.

Trước tết năm nay, ông chủ động gọi điện cho vợ chồng Quốc dặn tết này đừng về nhà, ở nhà lạnh lắm. Kiến Quốc vâng vâng dạ dạ, còn Tiểu Tây lại chẳng biết lấy làm biết ơn. Trải qua bao lần bị kéo vào những cuộc chiến cãi cọ qua lại với người lớn ở quê cùng vô số lần bị chì chiết và phải tìm cách chống chế, lòng Tây như đanh lại. Tây cho rằng bố Quốc nói vậy, không hẳn vì đã tha thứ cho vợ chồng Tây, mà trăm phần trăm là còn vì lý do khác. Còn lý do gì ư? Rất có thể là vì đứa con, khoe thì đã khoe khắp làng rồi, nhưng đứa trẻ thì cũng đã bị sảy, Hà gia tuyệt hậu rồi, bố chẳng còn mặt mũi gì nữa. Tất nhiên những lời này Tây không nói với Quốc, thứ nhất là vì nói ra Quốc đương nhiên không thể chấp nhận, hai là không khéo vì thế hai người lại cãi nhau, thôi thì “tiểu nhân phòng bị gậy”, lợi bất cập hại chẳng tội gì.

Có tiếng gọi lớn trong hành lang “Giản Giai”. Giai đang ra ngoài ăn cơm, Tiểu Tây vội vã ra ngoài gọi lớn. Giản Giai vừa là bạn cùng phòng, cùng buồng và cũng là người bạn thân của Tây. Đứng bên cạnh thang máy là cô Mỹ Phu - trưởng ban biên tập số 3, trước ngực áo cô mặc in hình một bông hoa đang nở rộ. Ban biên tập số 3 nằm ở đầu phía Tây hành lang. Tiểu Tây làm ở ban 6, nằm ở đầu phía Đông, trưởng ban Mỹ Phu không tiến thêm bước nào nữa đứng ngay trước đường đi của Tây. Tiểu Tây nhanh chân bước lại, không đợi bị gọi chặn lại, trưởng ban Mỹ Phu nhét ngay bó hoa to sặc sỡ được cuốn chặt bằng dải ruy băng kim tuyến vào lòng Tây. “Thật là phiền!” Đó là giống “Hoa hồng xanh”, một trong những loài hoa quý nhất trong họ hoa hồng, mỗi bông giá cũng trên một trăm tệ, một bó hoa to như vậy cũng đến mấy tháng lương của người thường. “Của Giản Giai đấy. Phòng văn thư không nhận chuyển phát nhanh nên tôi mang lên”. Trưởng ban Mỹ Phu mặt lạnh tanh nói xong liền đi ngay, chiếc giày cao gót nện xuống nền nhà văng vẳng tiếng “lọc cọc”. Tiểu Tây cũng chẳng lấy đó làm lạ, tính tình người trung niên là vậy, nghĩ thế nào là thế ấy, tốt thôi. Nói thật lòng, Tây thấy rất thích cái vẻ cô đơn mà ai cũng nhìn mà không thấy của mọi người.

Ôm bó hoa quay về, Tiểu Tây mới nhớ ra hôm nay là ngày Lễ Tình nhân. Chẳng cần phải nói, bó hoa hồng đặc biệt này là của bạn trai Giản Giai tặng cho. Giản Giai có một người bạn trai thật tuyệt vời. Tiểu Tây kết hôn đã gần sáu, bảy năm vì thế sớm chẳng còn dư âm của ngày Lễ Tình nhân nữa. Hai vợ chồng mà cùng nhau kỷ niệm ngày lễ này thì hoặc là mối quan hệ cực tốt hoặc là mối quan hệ cực xấu. Đến văn phòng, Giản Giai vừa đi ăn trưa về đang tìm gói canh thuốc chuẩn bị pha uống. Thấy Tiểu Tây, liếc nhìn qua bó hoa Tây ôm trong lòng, Giai liền nói đùa: “Thật không ngờ bạn vẫn thích hoa thế”. Tiểu Tây vờ giận đáp: “Tất nhiên rồi, thứ hay thế ai chẳng thích, vấn đề là bản thân phải có tư cách nữa cơ”. Rồi Tây văng bó hoa lại phía Giai: “Của bạn đó! Chuyển phát nhanh gửi tới.” Sau đó Tây bày tỏ sự ngưỡng mộ “hơi quá” của mình. Sở dĩ Tây bày tỏ sự ngưỡng mộ một cách “quá đáng” như vậy là vì thực tế Tây không những không ngưỡng mộ mà còn có chút băn khoăn: một người phụ nữ đã hơn ba mươi tuổi lại nhận được hoa hồng trong ngày Lễ Tình nhân, điều này có ý nghĩa gì nhỉ? Chẳng phải là Giai vẫn chưa thể dứt khoát đi lấy chồng.

Giản Giai chỉ mỉm cười, đặt bó hoa xuống rồi tiếp tục công việc đang dở dang, tiếp tục tìm gói canh thuốc, dùng răng xé túi giấy gói ni lông, đổ nguyên liệu vào chiếc bát, rồi đem chiếc bát đó lại phía bình nước nóng và rót nước vào. Đó là gói canh ăn liền vị thịt lợn thăn, vừa rót ước nóng vào, mùi thịt thăn nức mũi đã lan tỏa ngào ngạt khắp phòng. Đương nhiên Tiểu Tây thấy không thoải mái nên chỉ “ây” một tiếng ngắn gọn rồi bước đi luôn. Đợi cho không ai quay lại nữa, Giản Giai vội xách chiếc túi đi vào toilet. Quả nhiên Tiểu Tây đang ở trong đó, hình như vừa nôn ọe rất nhiều, giờ đang đứng trước bồn rửa tay hứng nước rửa mồm. Vừa bước vào Giản Giai vội hỏi: “Bạn nghén đấy hả?” Tiểu Tây ngẩng mặt còn ướt nước lên nhìn thất thần. Mấy hôm nay đúng là chẳng muốn ăn uống gì, thật đáng ghét, cứ tưởng là dạ dày có vấn đề mà chẳng hề nghĩ tới là mình có thể có thai. Lần có thai trước Tây chẳng có biểu hiện gì. Nghe vậy trong lòng chợt vui chợt lo rồi lại bắt đầu nôn ọe.

Thực ra, Tiểu Tây cũng chẳng thích thú gì trẻ con, có hay không cũng chẳng sao, là Kiến Quốc muốn có thôi. Tây không muốn có con sớm thế, vì cho rằng kinh tế của mình giờ vẫn chưa vững, Tây không muốn mình trở thành ông bố bà mẹ nghèo khổ. Nhưng không thuyết phục được Kiến Quốc đành để có thai vậy. Vì thế lần trước khi biết mình bị sảy thai, trong lòng Tây có chút mừng thầm âm ỉ. Kiến Quốc đưa Tây đi làm tiểu phẫu, Quốc cũng chẳng ngờ tâm trạng mình lại bộn bề đến thế. Khi nhìn thấy chiếc chậu đựng bào thai vừa được lấy ra hiện là những cục máu đỏ, Quốc chợt thấy lặng người, và nước mắt cứ thế tuôn rơi chẳng thể kìm nổi, cũng chẳng cất thành tiếng, chỉ có nỗi buồn là hằn từng mạch máu xanh trên khuôn trán nhăn nheo. Từ khi quen nhau tới lúc kết hôn, suốt mười năm qua, Tây chưa từng thấy Quốc như vậy bao giờ, nên cũng trở nên thẫn thờ. Nhưng rồi lại tự an ủi mình rằng mấy ngày nữa mọi việc lại ổn thôi. Thế nhưng mọi chuyện đã qua lâu mà tâm trạng Quốc chẳng hề tốt hơn, hay là chẳng tốt hơn được. Quốc không nói, cũng chẳng cười, lúc nào cũng cúi gằm người xuống như thể bị ai đó bẻ cong. Lúc ấy, Tây mới nhận ra rằng những gì Tây biết về Quốc quả thật chưa đủ, đặc biệt là về vấn đề con cái. Thơ xưa đã viết về quan hệ vợ chồng rằng: “Một cục đất nhỏ, nhào nên anh, nặn nên em. Rồi làm vỡ tan anh và em, dùng nước trộn đôi ta hòa thành một. Lại nhào nên em, lại nặn nên anh. Vậy là trong anh có em, trong em có anh”.

Đấy, trong anh có em, trong em có anh, Quốc cứ cả ngày sầu thảm đến vậy, hỏi Tây sống sao đây? Và thế là, Tiểu Tây quyết định lại mang bầu. Nếu trước sau gì cũng phải sinh con, thì sinh sớm khỏi sinh muộn, cũng chẳng đi đâu mà thiệt. Nhưng Tây cũng chẳng biết nói sao với Quốc, nếu nói chẳng nhẽ lại nói rằng em làm thế là vì anh và vì gia đình anh à? Nghe quyết định ấy từ Tiểu Tây, Quốc ôm Tây vào lòng và chỉ nói hai câu: Câu đầu tiên là “Xin lỗi” và câu thứ hai là “Cảm ơn”. Nép mình trong lòng chồng, Tây chẳng hề thấy chút đắc ý tội lỗi nào, có chăng đó chỉ là sự cảm động và niềm vui. Như thế này mới thực sự hiểu thế nào là “Trong anh có em và trong em có anh.” Điều này có nghĩa là cả hai sẽ cùng đồng cam cộng khổ với nhau. Kể từ lúc đó, hai vợ chồng sẽ cùng cố gắng vì một mục đích chung, và cuộc sống của họ cũng vì thế mà sẽ có nhiều đổi thay: Vốn đêm đến tình cảm đang độ dạt dào, đột nhiên lại nhớ phải tính ngày rụng trứng nên đành dừng lại. TÍNH! Đến khi tính xong trên mấy đầu ngón tay mà vào đúng ngày rụng trứng thì bao hứng thú cũng tan biến luôn; mà không, phải nói là không thể tiến hành được nữa, cơ thể cứng đơ như thể đang nằm trên lưỡi dao, mà đợi đến khi bên này nhập cuộc được thì bên kia cũng hết cao trào. Đương nhiên cũng có lúc hai bên ăn khớp nhau, nhưng chẳng hiểu vì sao, khoảng một tháng kiêng cữ sau khi bị sảy thai, cả hai cùng nỗ lực rất nhiều, thế mà mấy tháng rồi chẳng thấy kết quả gì. Quốc sốt ruột, Tây càng sốt ruột hơn. Không muốn có con là một vấn đề, nhưng không thể có con lại là một vấn đề hoàn toàn khác. Tây cũng đã về hỏi mẹ xem lần đầu sảy thai liệu có thể dẫn tới tình trạng khó mang thai không, và câu trả lời là hoàn toàn có thể mà cũng có thể không. Cái ý an ủi cố tìm trong câu nói của mẹ là chữ “có thể” được nhấn mạnh. Vì thế khi nghe Giản Giai hỏi: “Bạn có thai à?”, Tây đột nhiên chột dạ liền hỏi lại Giai: “Lần trước mang thai mình có biểu hiện gì đâu.” Giai giải thích: “Không phải lần nào mang thai triệu chứng cũng như nhau.” Và với Tây nó không giống nhau. Vừa nói Giản Giai vừa đi về phía khu vực bồn vệ sinh, mở tấm cửa mỗi khoang ra xem có ai không, rồi tiến ra phía cửa nhà vệ sinh khóa trái cửa lại, sau đó mở chiếc túi Giai xách theo vào đó. Chiếc túi không to lắm nhưng các ngăn ngăn cách rõ ràng, đó là món quà mà lễ tình nhân năm ngoài Giai được tặng. Trên bề mặt in hình bông hoa rất to, một bông hoa sặc sỡ như mời gọi, đúng là phong cách dòng tranh Yamato, Tiểu Tây thấy chiếc túi như một con quỷ đầy sức quyến rũ. Giản Giai lôi từ trong túi ra một gói que thử thai nhanh. Tiểu Tây ngạc nhiên hỏi: “Bạn mang theo cả thứ này à?” Giản Giai không trả lời, chỉ dùng ánh mắt ra hiệu cho Tiểu Tây mau đi thử xem sao. Một lát sau, trên giấy thử hiện rõ hai vạch màu đỏ, kết quả dương tính. Tây chẳng kịp thốt lời nào về việc có thai, thì có người đẩy ngoài cửa toilet, đẩy ra không được bèn đập cửa gọi, tiếng gọi vọng vào vừa lớn vừa giận dữ: “Ai trong đó vậy? Khóa cửa làm gì?” Giản Giai vội vứt que thử thai vào bồn cầu dập đi.

Người gõ cửa là cô Mỹ Phu trưởng ban 3, vừa bước vào liền nhìn xoáy vào hai người nhưng chẳng hỏi lời nào, mở cửa buồng cầu rồi bước vào, sau đó đóng sập lại. Ngay sau đó, phía sau cửa buồng vang lên những tiếng tiểu tiện sè sè khiến cho Tiểu Tây đang đi ra ngoài lại bắt đầu nôn ọe, nôn tới mức trưởng ban Mỹ Phu ngồi bên trong phải “hừm” một tiếng khó chịu…

Khi di động của Kiến Quốc reo lên, Quốc cũng vừa gác máy cơ quan, vì thế máy cứ bận suốt nãy giờ, nên Tiểu Tây đành phải gọi vào di động. Đây cũng là nguyên tắc riêng trong cuộc sống của họ: nếu có điện thoại bàn sẽ không gọi di động. Cái gì không đáng tiêu tiền thì không nên lãng phí.

Người vừa gọi điện làm đường dây bận suốt ấy chính là Tiểu Vương. Ngày nay, thanh niên thật tài giỏi, chỉ cần ngồi trước màn hình vi tính cách đó hàng vạn dặm nói qua chiếc mic gắn trên đó là có thể ngồi tán dóc với ai đó suốt 38 phút. Thời gian cứ tích tắc trôi qua, mặt Quốc dài thườn thượt, tiếng gõ phím cách và phím enter cứ vang lên cách cách. Họ đang viết chương trình phần mềm cho một ngân hàng, công việc thì nhiều mà thời gian thì quá khẩn cấp, Quốc lại là tổ trưởng của dự án này. Người thanh niên đó qua vi tính cũng đang bàn kế hoạch đi chơi lễ tình yêu với bạn gái, và cuối cùng họ quyết định ăn cơm tối tại nhà hàng Outback. Vừa gác máy đã có người hỏi Quốc ta ăn ở đó một bữa bao nhiêu tiền, với hơn 999 tệ khiến người khác kinh ngạc: 999 tệ, ăn gì vậy, ăn thịt người sống hả?!... Chẳng ai buồn để ý khuôn mặt của tổ trưởng càng ngày càng khó coi, cũng chẳng thể trách cậu thanh niên đó được, công việc sao bằng người yêu, mặt tổ trưởng thì cứ luôn luôn dài thườn thưỡn ra khiến mọi người thấy khó xử vô cùng. Cuối cùng, Quốc không thể nhẫn nại hơn được nữa, cầm cái cốc đặt bên cạnh, đứng dậy đẩy ghế ra phía sau, vì đẩy hơi mạnh tay nên va phải chiếc vi tính phía sau phát ra tiếng kêu “cạch”, lúc ấy trong phòng mới yên tĩnh lại. Trong bầu không khí yên tĩnh ấy, Quốc cầm chiếc cốc, với bộ mặt nặng trĩu đi rót nước, cậu thanh niên kia không biết ý lại còn chạy tới nói đùa: “Sếp, tối nay sếp định đi đâu?”

“Về nhà.”

“Hôm nay là lễ tình nhân mà!”

“Tôi chỉ có mỗi vợ thôi.”

“Cũng đúng.” Cậu ta gật đầu nói: “Cá đã cắn câu, cần gì phải giăng câu nữa.”

“Còn nói nữa! Mau đi làm việc đi!” Kiến Quốc mạnh tay đưa cốc lên uống liền một hơi khiến nước bắn ra cả quần cả giày.

Cậu thanh niên đó nhìn Quốc đầy ngạc nhiên, cụt hứng đi khỏi mà trong lòng đầy nghi hoặc: “Tổ trưởng không biết sao lại thế nhỉ?” Suốt từ sáng đến chiều cứ giữ cái bộ mặt đưa đám ấy, động tí là nổi cáu. Trước đây, Quốc có thế đâu, trước đây Quốc đối với mọi người rất thân mật, chan hòa.

Quốc như thế này đã gần một năm nay, mọi chuyện bắt đầu từ khi Tiểu Tây sảy thai vào năm ngoái. Đầu tiên là vì đứa trẻ non nớt bị sảy, sau là vì Tiểu Tây mãi chẳng mang bầu, Quốc từng giấu vợ tới bệnh viện kiểm tra nhưng bác sĩ bảo Quốc không có vấn đề gì. Nếu thế có nghĩa là Tiểu Tây có vấn đề, mà Tiểu Tây có vấn đề gì đều là lỗi của Quốc và gia đình mình. Trước tết năm ngoái, bố có gọi điện cho Quốc bảo hai vợ chồng không cần phải về quê khiến Quốc thấy không vui, điều này có nghĩa là gì? Cháu không còn nữa thì con trai con dâu không được về nhà sao? Nếu Tiểu Tây không thể sinh con, gia đình sẽ không chấp nhận Tây nữa sao? Nếu gia đình không chấp nhận Tây nữa, Quốc biết làm sao đây? Đương nhiên, hôn nhân không có tình yêu không phải là điều đúng đắn nhưng cuộc hôn nhân chỉ có tình yêu cũng là cuộc hôn nhân không thực tế. Vậy là ăn tết nhà Tây vậy. Một cái tết qua đi, Quốc trở nên khó tính là vậy. Mà cũng đúng lúc ấy, nếu gia đình Tiểu Tây thể hiện tình yêu thương, sự bao dung, động viên Quốc, có lẽ Quốc sẽ có đủ dũng khí để cũng Tiểu Tây tiếp bước trong cuộc hôn nhân của hai người. Đằng này, họ khiến Quốc thực sự thất vọng.

Nhà Tiểu Tây có bốn người. Bố Tây là ông Cố Tử Xuyên, một giáo sư đại học khoa trung văn đã về hưu. Mẹ là Lã Xu, trưởng khoa ngoại của một bệnh viện. Em trai, Cố Tiểu Hàng, chưa kết hôn, đang ở cùng bố mẹ. Bảy ngày nghỉ tết là bảy ngày Quốc ở nhà làm việc nhà, thậm chí còn mệt mỏi hơn đi làm. Nhưng mệt thì thấm gì, đứa trẻ lớn lên từ nông thôn đâu có sợ khổ, khổ thế chứ khổ nữa mà trong lòng vui thì chẳng có vấn đề gì. Nhưng vấn đề là trong lòng Quốc không vui, cái niềm không vui ấy thực rất khó hình dung. Suốt bảy ngày từ sáng tới chiều sống cùng người nhà Tiểu Tây, điều duy nhất mà Quốc cảm nhận được là sự khổ nhục. Cái gì mà bố mẹ vợ càng nhìn càng thích con rể, cái gì mà bố vợ rót rượu mời cơm con rể, tất cả chỉ là câu chuyện của người ta mà thôi. Họ đối xử với Quốc quả thật chẳng xa cũng chẳng gần, chẳng yêu mà chẳng ghét, không hề thay đổi. Có lẽ Tiểu Tây cũng cảm nhận được điều này nên có ý giải thích hộ bố mẹ: cái gì mà những người trí thức họ vẫn vậy đó, nói chuyện với nhau thì khách sáo, xa nhau mới thấy yêu mến… Song cho dù Tây có giải thích thế nào, Quốc cũng chỉ mỉm cười chẳng nói một câu. Không phải Quốc chưa từng gặp giới trí thức, nói cụ thể là, không phải Quốc chưa từng thấy gia đình Tây tiếp khách như thế nào, cụ thể hơn nữa là Quốc đã từng thấy gia đình Tây tiếp bạn gái của Tiểu Hàng ra sao. Đó là vẻ niềm nở, thân mật ngọt ngào. Cô gái ấy gọt lê cho mẹ Tây, và được đúc kết lại với biết bao phẩm chất như: phong thái tốt, có gia giáo, sống khéo léo, gia đình ưu tú. Tất cả đều chẳng như Quốc, bất luận phải làm bao nhiêu việc nhà và làm như thế nào, đều bị coi là việc đương nhiên thôi - Đúng là cùng thân phận mà hai số phận. Vì sao ư? Vì bố mẹ của Quốc là những người nông dân sống ở vùng thôn quê xa xôi, còn bố mẹ của cô gái đó là những giáo sư của học viện âm nhạc.

Những lời này Quốc chỉ giấu trong lòng mà chẳng nói cùng ai, cả Tây, Quốc cũng chẳng nói. Vì Quốc vốn không thích nói những lời mà chẳng có tác dụng gì. Hơn nữa, không những không có tác dụng gì mà còn đem lại hiệu ứng phụ cũng nên, sẽ bị mọi người cho là “tự ti”. Những đứa trẻ từ nông thôn lên thành phố học, dù chẳng tự ti cũng bị gắn cho cái tội ấy. Mà đã bị gắn cho cái mác ấy thì dù bạn giỏi giang hay phẫn nộ đều chẳng phải lỗi của người ta mà là vì bạn quá mẫn cảm mà thôi, đó chính là môi trường mà bạn phải sống. Vừa tới Bắc Kinh, vừa bước chân vào cổng trường đại học, Quốc đã cảm nhận ngay sự tàn khốc ấy của môi trường này. Ví dụ, nếu trong ký túc xá mất đồ, lập tức người ta sẽ quy cho là học sinh nông thôn lấy. Cũng vì thế mà đã có nữ sinh treo cổ tự tử chết. Quốc thì không, Quốc không treo cổ, Quốc chỉ nỗ lực làm thêm kiếm tiền học, ai nói gì sau lưng chẳng cần để ý, chỉ cần xem ai nói trước mặt, cứ thử sẽ biết? Từ khi tốt nghiệp đại học đến lúc chính thức bước vào xã hội, gần mười năm qua, Quốc đã tự đặt ra cho mình hai nguyên tắc sống: một là đối mặt, hai là kiềm chế. Nếu nói sống khéo léo phải nói tới hai điều này. Chỉ gọt lê thôi mà bảo là sống khéo sao. Thật nực cười.

Bảy ngày nghỉ tết ở nhà Tây, mọi việc trong nhà đều do Quốc “đảm nhiệm”. Từ đi chợ thổi cơm, một ngày ba bữa, dọn dẹp sạch sẽ, đón khách tiễn khách, Tây cũng chỉ giúp Quốc qua loa vài việc. Nhà thì đầy người, cứ cho là người lớn có thể uống trà, còn thanh niên thì sao, Quốc không muốn nói tới Tiểu Tây, Tây làm ít hay nhiều Quốc cũng chẳng so đo, năm ngoái Tây đã phải anh dũng đối mặt với gia đình Quốc, rồi lại xảy ra chuyện đó nên Quốc cũng chẳng dám hé răng nói gì, người mà Quốc nói đến là em trai của Tây cơ. Hai nhăm, hai sáu tuổi đầu rồi, cái gì cũng không làm, ngủ dậy là ăn, ăn xong là đi, chẳng buồn làm bất cứ gì và cho rằng điều đó là hoàn toàn bình thường. Nhưng quá đáng hơn nữa lại là bố mẹ Tây, đành rằng là do con trai chẳng buồn hỏi han cũng chẳng buồn để tâm đến việc gì. Con trai không để ý, bố cũng chẳng buồn quan tâm, cả ngày chỉ một nụ cười lạnh nhạt thường trực trên mặt, bận hết cái này đến cái nọ, hết người này đến người khác tới. Chẳng phải chỉ có bảy ngày thôi sao, khổ ải rồi cũng sẽ qua đi, phải nhẫn nhịn, nhảy xuống sông thì phải nhắm mắt, Quốc đành dành tặng bảy ngày này trong đời cho gia đình Tiểu Tây.

Quốc nhẫn nhịn suốt bảy ngày, cho đến tận bữa tối của ngày thứ bảy, thôi thì lùi một bước để tiến hai bước.

Vốn mọi chuyện đều tốt đẹp. Vì cho rằng đây là bữa ăn cuối cùng sẽ ăn ở nhà Tây dịp tết đó, nên Quốc đặc biệt nấu rất nhiều món ngon. Mềm ngọt có, thanh nhạt có, lại có cả canh nóng, Quốc làm theo khẩu vị của từng thành viên trong nhà, bận bịu suốt cả ngày, trong lòng định rằng đây sẽ là dấu chấm tròn trịa cho chuỗi bảy ngày vất vả vừa qua, hoặc có thể là dấu chấm than đáng nhớ.

Mọi chuyện xảy ra đều do Cố Tiểu Hàng.

Hôm đó Quốc làm món thịt rán đỏ. Cả nhà chẳng ai thích ăn thịt rán đỏ, trừ Cố Tiểu Hàng. Tiểu Hàng rất thích món này, một mình có thể ăn hết cả đĩa thịt, ăn hết còn trộn cơm vào đĩa dính chút mỡ thịt rán và ăn hết bay. Có thể nói, món thịt rán đỏ là Quốc nấu dành riêng cho Hàng. Đây là một món ăn đòi hỏi phải kỳ công, để lửa nhỏ cho thịt chín dần, ít nhất là ba tiếng đồng hồ mới được. Bữa tối hôm ấy, ngoài Tiểu Hàng ra, mọi người đều được thưởng thức món ăn mà Quốc vất vả muốn dành tặng cả nhà. Bố Tây thích ăn mềm ngọt, vì thế hết lời khen ngợi món đậu phụ Vince, mẹ Tây lại thích vị thanh nhạt, nên vừa ăn món súp lơ xanh trần cùng tỏi tây vừa gật đầu khen ngon. Tiểu Tây thì hoàn toàn bị thuyết phục, luôn miệng nhắc mọi người chú ý vào món ăn. Chỉ riêng có Tiểu Hàng là chẳng buồn nói lời nào, cắm đầu cắm cổ ăn, ăn xong buông đũa xuống phủi quần đi thẳng. Thấy vậy, Quốc đành tự nhủ bản thân phải nhẫn nhịn, nhẫn nhịn. Có điều, Tiểu Tây cũng thấy chướng mắt không chịu nổi bèn lên tiếng: “Tiểu Hàng! Thu gọn bát vào.” Tiểu Hàng chẳng buồn quay đầu lại trả lời “Em có việc!” Tiểu Tây: “Bát của em không dọn ai dọn cho.” Lúc này, Tiểu Hàng mới mở miệng, chẳng kịp suy nghĩ buột miệng nói: “Anh Quốc!”

Không khí bỗng căng như dây đàn. Vài giây sau, mẹ Tây tiếp lời:

“Con cái nhà mình, cho dù là Tiểu Hàng hay Tiểu Tây đều có chung một nhược điểm đó là, chỉ cần chúng thấy việc gì không đáng làm là chúng sẽ không làm, có nói cũng bằng không. Nhưng làm việc gì cũng không hẳn phải thích mới làm mà còn cần có trách nhiệm. Quốc thì không như vậy, con khéo léo hơn hai đứa này rất nhiều.”

Chỉ mấy từ đã hình thành nên tính cách cho hành vi của cậu con cưng: không thích thì không làm. Lời nói của giới trí thức điển hình là vậy đó, một khi nói ra thì chuyện nặng sẽ thành nhẹ. Quốc liền đứng bật dậy ra khỏi chỗ ngồi, bao uất ức nín nhịn suốt bảy ngày qua nay bùng phát dữ dội. Buổi tối về nhà, hai vợ chồng cãi nhau to, Tiểu Tây trách Quốc vì sao ở nhà mình không giữ thể diện cho Tây, điều này khiến Quốc cảm thấy đau lòng vô cùng. Cứ như vậy, tương lai nào cho cuộc hôn nhân của họ đây, hi vọng nào cho cuộc hôn nhân ấy đây? Hết tết, Quốc lại tới cơ quan làm việc, khuôn mặt Quốc thậm chí còn u ám sắc lạnh hơn trước khiến cho toàn bộ đám thanh niên ở cơ quan hồi hộp lo lắng.

Khi điện thoại của tổ trưởng đổ chuông, ai ai cũng nghe thấy bởi lúc ấy trong phòng rất tĩnh lặng. Quốc vừa xạc cho Tiểu Vương một trận, trên giầy và quần lã tã đầy nước vương vãi, chiếc di động đặt bên cạnh máy tính chợt reo lên. Tiếng nhạc chuông lê thê rầu rĩ, rất hợp với tính tình của tổ trưởng lúc này. Khi nhấc máy lên, mặt tổ trưởng vẫn sầm sì, thế mà một phút sau, nét mặt và cả con người nữa bỗng tươi tỉnh hẳn lên nhờ cuộc điện thoại này.

“… Hay là đến bệnh viện kiểm tra lại cho chắc! Anh sẽ lập tức tới cơ quan em, em đừng đi đâu, hôm nay đường tuyết trơn lắm!” Vừa nghe những tiếng râm ran trong điện thoại, Quốc vừa nhanh chân bước ra cửa, ra tới cửa mới lại như chợt nhớ ra mấy người trong phòng thuộc tổ mình bèn quay đầu lại nói đại loại dăm ba câu như “làm việc tốt vào đấy, tranh thủ thời gian mà làm”, chớp mắt cái đã chẳng thấy bóng dáng Quốc đâu.

Sau khi từ bệnh viện xét nghiệm đi ra, tuyết cũng đã tan trả lại bầu trời trong xanh. Tờ giấy kết quả xét nghiệm được đóng dấu đỏ đề “dương tính” được Quốc cất kỹ trong túi áo Jacket như sưởi ấm tận trong sâu thẳm trái tim Quốc.

Bậc thềm ngoài cửa phòng khám vẫn còn vương lại một ít tuyết nên Quốc đỡ Tiểu Tây bước chầm chậm đi sợ không may lại sảy mất đứa con cầu tự mà hai người khó khăn lắm mới có được này. Có con mới thực là gia đình chứ. Có gia đình, Quốc mới thực sự coi là có gốc rễ nơi Bắc Kinh này. Có gốc rễ rồi Quốc cũng chẳng cần phải quan tâm tới sắc mặt của bất kỳ ai nữa. Từ bệnh viện về, hai vợ chồng cùng nhau đi ăn cơm tiệm, Tiểu Tây vẫn chưa ăn cơm trưa mà, nên giờ đói meo, rất muốn ăn salad. Thế nên hai vợ chồng cùng tới nhà hàng, hôm nay Quốc chiêu đãi.

Nhà hàng hầu như chẳng có khách nào vì cũng đã quá giờ ăn trưa rồi. Người phục vụ nhanh chóng dọn lên món salad, xanh đỏ trắng ba màu vừa đẹp mắt lại thật ngon miệng. Quốc dùng đũa gắp một miếng rau bắp cải bón cho Tiểu Tây, Tây há miệng ăn rồi nở nụ cười mãn nguyện: “Mẹ được nhờ con rồi.” Nghe vậy Quốc chỉ lặng lẽ mỉm cười rồi gắp sẵn miếng bí đỏ chờ đó. Nhưng Tiểu Tây chỉ ăn một miếng rồi không ăn nữa, món salad này chẳng ngon như tưởng tượng, Quốc liền vẫy phục vụ tới gọi món cải thảo xào, cung cách phục vụ nhẹ nhàng, chu đáo, ân cần khiến Tiểu Tây cảm thấy thật dễ chịu. Người phụ nữ đang thấy dễ chịu ấy nghĩ rằng mình nên nói điều gì đó. “Anh Quốc, anh nghĩ xem, em mang thai gần mười tháng, sinh đứa bé ra còn phải nuôi suốt ba tháng bằng sữa mẹ, đúng không?… Tính ra là gần một năm rồi còn gì!”

“Ý em là gì?”

“Ý em là, để đẻ ra một đứa trẻ, đàn ông chỉ mất có vài chục phút, còn phụ nữ thì vất vả đến cả năm trời, vậy mà xét về luật pháp thì đứa trẻ là con của hai người, hai người cùng có quyền lợi chung.” Lắc đầu Tây nói tiếp: “Chẳng hiểu sao nữa.”

Quốc vẫn chỉ khẽ mỉm cười. “Thôi được rồi mà, đừng nghĩ lung tung nữa, sinh con ra rồi, mẹ sẽ nuôi mà. Hết tháng đầu, em muốn làm gì thì làm, chẳng cần em lo lắng gì hết.”

“Thế nếu mà là con gái thì mẹ có nuôi không?”

“Phù phù phù! Phỉ phui cái mồm.”

“Xí, con gái thì làm sao? Anh thử xem nữ hoàng Võ Tắc Thiên ấy, chẳng phải đám đàn ông toàn phải quỳ dưới chân bà ý sao?”

“Võ Tắc Thiên hả? Úi giời, mấy nghìn năm mới có một người thôi!”

Tiểu Tây đang định nói lại thì người phục vụ bưng món cải thảo xào lên, thơm phức tươi ngon, Quốc gắp một miếng thật to đút cho vợ. Món cải thảo này xào chua ngọt thật vừa miệng, mà vẫn còn chút vị hăng của cải, mùi vị đúng là hết sảy. Tây cứ nhai nhồm nhoàm đầy miệng, vừa ăn vừa khen ngon, rồi đột nhiên quay sang hỏi ý kiến Quốc.

“Ngon không anh! Anh Quốc à, cây này trồng thế nào nhỉ?”

“Những hạt mầm trên cây cải đó, khi chúng vẫn còn mềm thì đem gieo xuống đất.”

“Hạt gieo rồi thì làm thế nào để thành cây?”

“Không cần làm gì nữa.”

Ăn cơm xong, Quốc đưa Tây về tận cơ quan. Đi taxi. Trên đường về, đâu đâu họ cũng thấy những đôi tình nhân và những đóa hồng trong ngày lễ tình nhân. Xe ngang qua một công trường đang xây dựng, ở đó, những người công nhân đang cặm cụi làm việc, ai nấy mặt mày lem luốc đầy đất, khác xa với những kẻ đang say trong ngày lễ tình yêu nơi đô thành này.

“Lễ tình nhân chưa qua mà đã phải bắt đầu làm việc, phải chăng họ vừa từ quê lên hay cũng chẳng được về quê.” Nhìn những người công nhân làm việc qua cửa sổ ô tô, Tây chợt thấy xốn lòng. Lặng im giây lát, Tây lại suy tư: “Anh Quốc à, nếu mình sinh ra con trai mà phải lao động vất vả thế kia thì có gì tốt đâu.”

“Chẳng phải khoe khoang, nhưng chúng ta sẽ sinh ra một Lý Gia Thành[1] cũng nên.”

“Chắc nhờ giống tốt của anh nên mới sinh ra được một Lý Gia Thành nữa... Nếu là em, thì sẽ nói hợp lý hơn thế này: hay mình sẽ sinh con gái. Anh xem Dương Ngọc Hoàn đó, ‘Thiên sinh lệ chất nan tự khí, nhất chiêu tuyển tại quân vương trắc’[2] Kết quả cuối cùng thì sao nào? Bản thân biến thành phượng hoàng trên cao.”

“Cũng đúng, đúng là con đường phát triển của nữ giới rộng lớn.” Quốc gật đầu thừa nhận, “tiến cao thì có Võ Tắc Thiên, “ngã ngựa” lại có Dương Ngọc Hoàn. Chẳng giống như nam giới bọn anh, chỉ có thể tiến lên mà chẳng xuống được.”

“Em thì thấy rằng mẹ anh sinh ra hai anh em anh thật chẳng có tác dụng gì. Nếu sinh ra một đứa con gái xinh xắn, như Dương Ngọc Hoàn chẳng hạn, anh em các anh chẳng phải thành quốc cữu hết rồi sao? Mẹ anh lại còn được làm thiên hạ quốc mẫu nữa chứ. Đâu có như bây giờ, vẫn là “Người mẹ tóc bạc”, “Người mẹ dưới ánh nến leo lét” nơi thôn quê”. Lúc này trong taxi đang phát bài hát “Người mẹ tóc bạc”, Tây có thể nói là tức cảnh ngụ ý. “Người mẹ tóc bạc” và “Người mẹ dưới ánh nến leo lét” là hai bài thuộc cùng một dòng nhạc, dòng trữ tình điển hình.

“Thôi được rồi, có thai rồi, tích đức chút đi.” Quốc lườm Tây một cái, rồi cười đầy ẩn ý. “Thực tế thì nếu sinh con gái, chỉ sợ không giống Dương Ngọc Hoàn lại giống em ý chứ. Hừm, có câu nói rất đúng rằng, chỉ thừa nam đâu có thừa nữ, đến cô gái như em đây còn có người như anh lấy nữa là.”

Tây khẽ hét lên một tiếng rồi đánh nhẹ Quốc, Quốc đỡ được tay Tây nói tiếp: “Cẩn thận đấy kẻo động lưng lại ảnh hưởng đến đứa bé!” Rồi hai người ôm nhau trìu mến. Lát sau, Quốc ân cần nói: “Anh sẽ đưa em về tận cơ quan mới quay về.”

Tây đáp lại còn dịu dàng hơn vậy: “Anh đi đi. Làm việc tốt nhé, vì con của chúng ta, gắng kiếm nhiều tiền hơn nhé.”

Ấy là thời khắc ngập tràn yêu thương mà đã lâu lắm rồi hai vợ chồng mới có được. Và cũng chính vào lúc ấy, tiếng chuông điện thoại êm đềm của Quốc lại reo lên. Đó là bố Quốc. Từ quê xa xôi, bố Quốc dẫn đoàn bốn người gồm bác Quốc và cậu con trai lên bệnh viện khám bệnh, đã rời khỏi nhà xe phía Nam Bắc Kinh và đang đi tới bệnh viện của mẹ Tây. Bố gọi điện để Quốc thông báo với Tiểu Tây bảo cùng tới bệnh viện với họ, nếu có gì còn dễ dàng giúp họ liên hệ.

Thời khắc “ngập tràn yêu thương” ấy bỗng chốc tan biến như mây khói.

Vừa hay lúc ấy, xe cũng tới trước cổng nhà xuất bản, Tây mở cửa bước xuống xe nhưng Quốc kịp kéo lại, khẽ gọi: “Tiểu Tây” với ánh mắt như khẩn khoản.

“Mọi người lên chẳng thèm nói một lời là sao?” Tây giận giữ nói qua kẽ răng. Thực ra không phải vậy, mà vì gia đình Quốc sợ gia đình Tây từ chối nên đành tiền trảm hậu tấu vậy. Ai nói nông dân ngốc nghếch? Tinh ranh thì có! “Bố anh coi mẹ em là người như thế nào hả? Là thái y trong cung chắc, suốt ngày chẳng có việc gì làm chỉ chờ gia đình anh truyền lệnh chắc? Anh có biết mỗi ngày mẹ phải mổ mấy ca không? Em nói cho anh nghe, không phải em không thể đến bệnh viện mà là em không chắc có thể gặp được mẹ. Nếu mẹ đang mổ cho bệnh nhân thì ai đến cũng vậy mà thôi.”

Quốc chẳng nói lời nào mặc cho Tây mắng mỏ giận dữ, nhưng cơn tức giận thì cũng lên tới tận đỉnh đầu. Nói đến là đến ngay, mà đến là cả một tiểu đội, ngoài việc chữa bệnh còn chuyện ăn ở nữa chứ. Theo tính cách của bố Quốc thì còn đòi phải dẫn họ đi thăm thú Bắc Kinh. Còn ăn ở thế nào, chơi bời ra sao lại là chuyện của Quốc, Quốc là người Bắc Kinh duy nhất của thôn mà, lại là niềm tự hào cả đời của bố Quốc. Cũng không ít lần Quốc định nói với bố về chuyện này, xin bố đừng làm thế này nữa. Tận trong lòng, trong đầu Quốc cũng đã suy nghĩ xem nên nói gì và nói như thế nào. N lần: Quốc sẽ nói gì và bố bảo sao, bố bảo thế này Quốc sẽ phải đáp lại thế nào. Lời chối từ thì khó nói ra, xét về lôgic mà nói thì tình cảm là chân thật, có đôi lúc còn tự thấy cảm động đến phát khóc. Thế nhưng cứ mỗi lần đối diện với bố là bao nhiêu câu, chữ định sẵn trong đầu bỗng nhiên đi đâu hết. Bạn thử nghĩ xem, gặp bố thì cũng chỉ ở hai nơi, hoặc Bắc Kinh hoặc ở quê. Nếu ở Bắc Kinh, là bố gọi mình tới, những lời nói ấy dù có nói khéo léo tới đâu cũng sẽ làm cho bố thấy không thoải mái, như thể là “đuổi” bố đi. Nhưng đáng tiếc là, những gì không nói được ở Bắc Kinh thì về quê cũng chẳng dám nói, à không, phải nói là càng không dám nói, nói không thành lời. Cứ về tới quê là Quốc lại chui vào cái vòng luẩn quẩn của em ngại và lo âu thường trực, thế nên những lời muốn nói và cả những lời định nói đều hoàn toàn ngược lại: Ở nhà có việc gì, cứ tìm con!

Xe taxi phía trước không chờ được nữa nên hỏi họ định thế nào, mau đi, và đi đâu; nếu không đi nữa thì trả tiền. Quốc chẳng nói lời nào, chỉ nhìn mãi Tiểu Tây, rồi thở dài một tiếng, Quốc quay lại bảo tài xế địa điểm đến và cho xe đi tiếp. Quốc nắm lấy tay Tây đầy cảm động, còn Tây rụt tay lại như thể giận hờn. Quốc đành rụt tay lại rồi nhẹ nhàng ngồi nhích sang bên như muốn nói “Quốc đã hiểu rồi”. Vừa cẩn thận vừa hồi hộp, Quốc như đang ngồi bên cạnh một quả bom, Quốc phải nghĩ cách làm sao để quả bom ấy không phát nổ: bệnh viện quá to, mà phòng ban thì nhiều, bệnh nhân cứ xếp hàng la liệt bên ngoài. Nếu không có người của bệnh viện dẫn đường, đừng nói là người từ nông thôn lên, một mình Quốc đi cũng chẳng tìm nổi bác sĩ và phòng bệnh của mình, nếu hỏi bảo vệ thì cũng phải đứng đó đợi. Hơn nữa, khám bệnh xong vẫn còn rất nhiều việc Quốc phải làm, à không, cả hai mới đúng: là Quốc và Tiểu Tây.

Quả nhiên đúng như những gì Tây nói, chủ nhiệm khoa ngoại, bác sĩ Lã đang làm phẫu thuật. Một ca ghép gan. Phẫu thuật tiến hành suốt từ chín giờ sáng đến giờ, bác sĩ Lã còn chẳng kịp ăn cơm trưa, mà chẳng ai biết bao giờ ca phẫu thuật mới xong, Tiểu Tây chỉ biết dẫn bố chồng và Quốc tới đợi ở sảnh khu vực điều trị. Ở đó, bác sĩ, hộ lý bận rộn đi lại tấp nập, tự nhiên lại có năm kẻ nhàn rỗi như họ ngồi chờ, vừa chướng mắt, vừa cản trở công việc, ai ai cũng nhìn họ đầy ngạc nhiên, Tây chỉ biết vờ như không để ý... Tiếng xe cấp cứu từ ngoài cửa vọng vào, Tiểu Tây cứ sốt ruột chờ đợi, cuối cùng cũng chờ được, đó là cô y tá đang mặc bộ quần áo phẫu thuật màu xanh sẫm. Cô y tá một tay giơ cao chai nước truyền, một tay đỡ cáng bệnh nhân vừa được xe cấp cứu chở về, nếu đây chính là bệnh nhân vừa được ghép gan thì có lẽ mẹ Tây sẽ ở ngay sau đó.

Khi mẹ tới, Tây không trông thấy tức thì. Lúc ấy, Tây vừa hay có điện thoại của Giản Giai gọi tới bàn về cuốn sách hai người làm chung “Nhân tỉ hoàng hoa”. Nhưng trưởng ban lại phản đối kịch liệt cuốn sách này của họ, bảo rằng: “không bán được”. Trưởng ban cho rằng tên sách phải mang tính kích thích mạnh mẽ, nếu không “khó có thể lọt vào mắt xanh của độc giả trong biển sách này”. Lúc đó, Tây bực mình nói rằng hay đặt tên là “thi thể thiếu nữ mất đầu dưới tàu điện ngầm.” Giản Giai bảo rằng trưởng phòng phát hành đề nghị cái tên “Ba năm tôi được trai bao”. Lúc đầu, Tây nghĩ rằng cái tên này thực sự rất hay, chắc chắn bán chạy, mà cũng không quá dung tục. Nếu Giai không gọi điện đến bàn thì Tây cũng định mai đi làm sẽ nói, nhưng nghe giọng Giản Giai có vẻ không ưng, Tây mới chợt nhận ra ba chữ “được giai bao” quả thực quá nhạy cảm. Tây phải nghĩ cách để thuyết phục Giai về vấn đề này. Cần phải nghe theo ý kiến của phòng phát hành về vấn đề tên sách vì suy cho cùng họ mới chính là những người trực tiếp tiếp xúc với thị trường và cũng là người thực sự hiểu thị trường cần cái gì. Chúng ta đừng có lúc nào cũng coi mình là người có văn hóa, cứ ví những người phong lưu như những vòng hoa tang hay gì gì đó, dù thích hay không nếu sách không bán được cũng để làm gì chứ? Đang bàn tới vấn đề bán được ra thị trường thì tiếng nói bên cạnh làm ngắt đoạn, đó là tiếng của bố Quốc. “Ôi, bà thông gia! Chào bà!” Vừa nói chân vừa bước nhanh lại gần, khi Tây ngước lên nhìn thì bố Quốc đã nắm chặt hai tay mẹ Tây. Mẹ Tây thực sự đã mệt lử, năm nay bà gần sáu mươi tuổi rồi, lại vừa thực hiện ca phẫu thuật năm, sáu tiếng đồng hồ, bà cố hết sức chào hỏi bố Quốc đồng thời liếc nhìn con gái tỏ vẻ không bằng lòng. Đây cũng là điều mà Tây đã lường trước. Nếu là Tây, Tây cũng chẳng vừa ý, nhưng Tây biết nói gì đây? Chẳng thể nói được gì chỉ còn cách là vội vàng cúp máy và trơ mặt ra.

“Mẹ!... Họ, tới khám bệnh.”

“Đây là bác của Tiểu Tây!”

Quả nhiên bố chồng không bằng lòng với cách giới thiệu qua loa của Tây, bèn chỉ vào người đàn ông đứng bên cạnh và giới thiệu thêm khiến cho mẹ Tây như cười trong đau khổ. Đó là quan niệm bên nhà chồng Tây, chỉ cần lấy nhau thì của chàng cũng là của nàng, của nàng cũng là của chàng, mọi thứ đều chung nhau, họ hàng cũng vậy. Không chỉ vào người đàn ông đấy nữa, bố Quốc vẫn nói tiếp: nếu nói đây là “anh của bà” chắc cũng không sai nhỉ? Lúc ấy lại có tiếng còi xe cấp cứu vang lên ngoài cửa, bệnh nhân giường số 32 quay về, mọi người đứng ở cửa đều phải tản đi hết, vì thế sáu, bảy người họ cũng không thể đứng chặn tại cửa mãi. Suy nghĩ một lát về hậu quả, mẹ Tây bèn quyết định, trước tiên dẫn “bác trai” đi xét nghiệm, còn Tiểu Tây dẫn những người khác tới phòng họp chờ.

Xét nghiệm cũng là việc vô cùng phức tạp, vốn dĩ bệnh viện mỗi năm tổ chức khám sức khỏe một lần mà mẹ Tây còn ngại đi, bây giờ lại phải thân chinh dẫn một người lạ đi hết phòng này tới phòng khác. Quả thực, vừa đứng phẫu thuật năm, sáu tiếng, bữa trưa chưa kịp ăn, hai chân bà nặng trĩu, chẳng thể lê bước. Không thể làm hết mọi xét nghiệm, mà cũng không thể đưa ra kết luận ngay lập tức, có một số xét nghiệm phải vài ngày mới có kết quả. Tóm lại là vấn đề này còn lâu mới chấm dứt. Chuyện như thế này không thể kéo dài mãi, nhất định phải nói chuyện với Tiểu Tây. Chuyện kiểu như thế này xét về tình, về lý, mặt nào cũng không ổn. Xét nghiệm một vòng trở về phòng chờ, mẹ Tây thấy khắp phòng nghi ngút khói thuốc, bố Quốc đang hút thuốc. Điều này càng làm cho mẹ Tây cảm thấy không vui. Chẳng nhẽ Tây không biết rằng ở khu vực phòng chờ này cấm không được hút thuốc? Song mẹ vẫn chẳng nói gì, chỉ bảo con gái ra mở cửa sổ, và chính mình cùng ra mở để khỏi phải đối mặt với bố Quốc. Từ khi họ trở về phòng, bố Quốc cứ oang oang nói mãi như thể ông ta là chủ ở đây không bằng.

“Anh kiểm tra thế nào?… Nào nào, ngồi xuống đây rồi hãy nói. Đừng ngại, ở đây cũng như nhà mình mà. Bà thông gia của tôi là trưởng khoa ở đây, quyền hành rất lớn!” Nghe vậy, Tiểu Tây chỉ dám nhìn trộm mẹ một cái, mặt mẹ đanh lại. Nhưng như vậy cũng mới chỉ là bắt đầu, vở kịch hay còn ở phía sau cơ. “Lấy cốc, rót nước mau, đứng đó làm gì!” Lời nói này là dành cho chị y tá trưởng đang tới chào khách của bác sỹ Lã. Nghe vậy chị y tá đứng chết chân tại chỗ, quả thực chưa ai từng thấy trạng thái chết chân tại chỗ như vậy bao giờ.

Mặt Tiểu Tây đỏ ửng lên. Còn mẹ Tây mặt mày trùng xuống

/20

THICH DOC TRUYEN

Đa số thông tin và hình ảnh trên website đều được sưu tầm từ các nguồn trên Internet. Website hay upload-er không sở hữu hay chịu trách nhiệm bất kỳ thông tin nào trên đây. Nếu làm ảnh hưởng đến cá nhân hay tổ chức nào, khi được yêu cầu, chúng tôi sẽ xem xét và gỡ bỏ ngay lập tức.

LIÊN HỆ ADMIN

adsdoctruyen@gmail.com

DMCA.com Protection Status