Ngày mùng bốn tháng mười, Hoàng Vũ đánh hạ thành Nha. Thành bị phá, tướng thủ thành Thác Bạt Hoằng tự vẫn mà chết.
Ngày mùng sáu tháng mười, đại quân Hoàng Triều vây Nam đô.
Ngày mùng bảy tháng mười, Nam vương mặc áo vải ra khỏi thành, dâng lên tấm lệnh chí tôn của Nam quốc “Huyền Mặc lệnh”, cúi đầu xưng thần với Hoàng quốc.
Ngày tám tháng mười, Hoàng Triều ban tước vị “Nam Thành hầu” cho Nam vương, đồng thời sai người “hộ tống” Nam hầu cùng với bốn trăm nhân thân phủ hầu trở về Hoàng quốc để an bài. Quân sư Liễu Vũ Sinh của Hoa quốc chủ động chờ lệnh.
Tại Đế Đô, ba trăm bảy mươi hai năm trước, Thủy đế xưng đế nơi đây, dựng cung điện xây tường thành, phong văn thần thưởng võ tướng, chiếu cáo thiên hạ Đế Quốc Đông Triều được thành lập, mở ra một trang huy hoàng tráng lệ của Đế Quốc Đông Triều. Hơn ba trăm năm trôi qua, Đế đô tựa như một con hùng sư nhìn xuống toàn bộ lãnh thổ Trung Nguyên, uy nghiêm cùng khí phách, phú quý cùng hoa lệ, quyền lợi cùng mưu kế, xa xỉ cùng hoang hoại, giữa nơi phồn hoa gấm vóc, giữa nơi sương thu cỏ dại. Trải qua trăm năm bể dâu, cho tới nay, nó chỉ còn là một tòa thành đô cổ kính đượm vẻ già nua, cái vẻ huy hoàng cùng tráng lệ xưa kia đã bị một thứ gọi là dòng sông thời gian chầm chậm gột rửa, có khi ở một góc tường hồng nơi cung điện, ở một khoảnh lá tía nơi ngự viên, ở nơi sương gió đầy châu ngọc, giữa tiếng sênh ca thâu đêm, còn có thể tìm thấy chút hào hoa phong nhã xưa cũ.
Hoàng cung Đế Đô, cung Định Thao.
“Cựu thần tham kiến bệ hạ!”
Âm thanh sang sảng như tiếng rống vang lên, trong thư phòng phía nam cung Định Thao, một lão tướng tóc bạc trắng cung kính hành lễ với người đàn ông vận thường phục sắc tím đậm đang tập trung vẽ tranh trước bàn.
“Ừ, Đông tướng quân tới đây, xin hãy mau mau đứng lên.” Người đàn ông đang vẽ tranh ra hiệu cho nội thị hầu hạ bên cạnh nâng lão tướng quân đang quỳ trên mặt đất.
“Tạ ơn bệ hạ!” Lão tướng quân ấy thế mà lại không cần người đỡ dậy, không mất chút sức nào tự mình đứng lên, động tác đơn giản như thế, lại được thực hiện vô cùng thoải mái nhanh nhẹn.
Vị lão tướng quân này là đại tướng quân Đông Thù Phóng được sắc phong Kí An hầu, đứng vào hàng đại tướng quân của Đế quốc Đông Triều. Tại nơi quần hùng cát cứ cấu xé nhau, giữa loạn thế phân tranh không ngừng nghỉ, ông ta lại chỉ trung thành tận tâm bảo vệ hoàng thất Đông Triều, mười năm như một! Dẫu tuổi đã quá lục tuần, thế nhưng nhìn từ vẻ bề ngoài, ngoại trừ mái đầu bạc pha sương, ông trông như người tráng niên mới ngoài bốn mươi, mặt vuông chữ quốc ngay thẳng tựa đao khắc, mày rậm ngang chữ nhất như nét mực đậm họa thành, vóc người cao lớn tráng kiện, tựa như phất tay một cái là tạo nên khí thế đánh bạt ngàn cân, mỗi một người khi nhìn thấy ông ta thì suy nghĩ nổi lên trong lòng hoàn toàn là: người này hẳn phải là một vị đại tướng quân!
“Ái khanh tới vừa lúc, nhìn xem bức “Hoa dưới trăng” này trẫm vẽ thế nào?” Nam tử áo tím bừng bừng hứng thú chỉ vào tác phẩm gần như hoàn thiện ở trên bàn. Người đó là hoàng đế của Đế quốc Đông Triều hiện nay – Kì đế, tuổi chừng ngoài bốn mươi, dáng người trung bình, mặt trắng râu thưa, thần thái không mang khí phách của bậc đế giả, lại mang tư thái nho nhã của một vị học giả.
“Thần là người thô tục, vốn chẳng am hiểu viết văn, làm sao biết được cái tuyệt diệu trong kiệt tác của bệ hạ.” Đông Thù Phóng chẳng hề dời bước đến phía trước nhìn bức họa. chỉ hơi cúi người đáp lời.
“Ồ.” Kì đế có phần thất vọng, ánh mắt từ trên người Đông Thù Phóng quay trở về trên bức họa, nhìn tác phẩm của chính mình, sau đó ánh mắt ấy từ từ thay đổi, từ từ trở nên dịu dàng, trở nên nồng nhiệt, chầm chậm tựa như chìm đắt tất cả tâm hồn vào trong bức họa, dáng vẻ kia tựa như nam nhân nhìn thấy mỹ nữ mà mình yêu nhất, chăm chú mà si mê.
“Bức ‘Hoa dưới trăng’ này của công tử Tả Nguyệt trẫm đã họa phỏng theo không dưới mười lần, nhưng lần này là tốt nhất, chính là…” Bước chân di chuyển, tầm mắt từ trên bức họa của mình dời đến bức họa ở phía trước bàn, rồi lại quay trở về trên bức tranh của mình, cứ coi đi coi lại như thế, sau đó tiếng thì thào tự nhẩm không ngừng tràn ra “Không ổn, không ổn! Công tử Tả Nguyệt vẽ chỗ này là tình và cảnh hòa làm một thể, khiến người nhìn thấy như thể được đặt vào trong tranh, thật là tuyệt không nên lời! Nhìn trăng này mà xem, như ẩn như hiện, sáng tỏ như ngọc, lại mông lung mịt mờ. Hoa này tựa như hé nở lại như e ấp, ngậm nhụy nở hoa, thật như giai nhân e thẹn … Tuyệt! Tuyệt! Thật sự là tuyệt diệu! Khó trách được xưng là Nguyệt Tú công tử, trẫm sao có thể bì kịp!” Dứt lời, bút trong tay bèn hạ xuống bức tranh của chính mình, một bức ‘Hoa dưới trăng’ còn chưa hoàn chỉnh kia cứ vậy mà kết thúc.
Mà Đông Thù Phóng đứng nhìn ở một bên, trong ánh mắt kia là vài phần cảm thán cùng nỗi lo lắng thất vọng không biết phải làm sao.
“Bệ hạ!” Đông Thù Phóng trầm giọng gọi, lay tỉnh vị hoàng đế đang từ trong niềm thương tiếc “tài hoa của mình thua kém người khác” dậy.
“Ừ.” Kì đế xoay người mặt đối diện với vị cựu thần trung thành và tận tâm này, “Đông ái khanh có chuyện gì?”
“Bệ hạ, ngài là vua một nước, nhẽ ra phải lấy quốc sự làm trọng, không thể vì cái này … Chút viêc nhàn nhã này mà làm lỡ chính sự!” Đông Thù Phóng cố gắng lựa từ uyển chuyển. Nếu vị trước mặt này không phải là hoàng đế mà là con cháu hay bộ hạ của ông ta, với tính tình của ông ấy, sợ đã sớm mắng to: nước gần như đã mất, người lúc này còn rảnh đấy mà làm mấy việc nhàn rỗi vô dụng này sao?!
Vị Kỳ đế này, từ khi lên ngôi đến nay, chưa bao giờ đặt tâm tư vào quốc sự, đối với tất cả việc triều chính, quân chính, ông ta ủy thác toàn bộ cho Đông Thù Phóng, hoàn toàn không sợ phó thác quyền lực cho người mà bị người cướp mất. Đế Quốc Đông Triều tuy danh tiếng còn, nước đã mất, nhưng chỉ cần hoàng đế còn, Đế Đô còn, như vậy triều đình vẫn tồn tại như cũ. Cho nên mỗi ngày tấu sớ từ các vương vực vẫn trình đến như trước, tấu nhiều nhất là việc các chư hầu nổi loạn, tấu giặc cướp nổi lên bốn phương, nhưng vị hoàng đế này xem xong liền vứt ở một bên, mày không thèm nhíu một cái, giống như những việc kia không phải xảy ra trên vương thổ của ông ấy. Ông ta cũng không giống như vài vị tổ tiên của mình, mê rượu mê sắc, ham tài hiếu chiến, ham giết chóc … Đam mê của ông ta đúng là mềm mỏng phong nhã hơn, ông ấy chỉ mê thư họa. Đới với thư họa, ông ấy có sự nhiệt tình lớn lao, cả ngày họa phỏng theo nhưng tác phẩm kiệt xuất của danh gia, nhưng ông ta chưa bao giờ họa lấy một bức tranh của chính mình!
“Ừ.” Đối với lời khuyên can của Đông Thù Phóng, Kỳ đế bằng lòng với dáng vẻ chẳng hề quan tâm, “Có ái khanh đây, trẫm chẳng cần quan tâm mấy việc không đâu này.”
Đông Thù Phóng nghe vậy không khỏi dở khóc dở cười, nhìn tổng thể lịch sử, chắc là cũng chỉ có vị hoàng đế trước mắt này coi việc triều chính là việc không đâu, mà coi mấy chuyện vẽ tranh viết chữ làm chính sự. Hoàng đế như vậy ư, ông biết làm sao cho phải?
“Bệ hạ!” Đông Thù Phóng tạm dẹp đi những tưởng tượng viển vông này, đưa tâm tư trở lại với mục đích tiến cung lần này: “Nghịch thần Bạch vương đã tới thành Thương, vượt qua thành Giao là tới Đế đô, mà vị Tức vương giương cờ “Dẹp yên thiên hạ” kia đã theo sát phía sau, tình thế đã vào cảnh vô cùng nguy nan, xin bệ hạ …”
Những lời tấu Đông Thù Phóng ủ trong bụng một đêm mới nói được mở đầu bèn không thể tiếp tục được nữa, đó là bởi vì vị hoàng đế mà ông xác nhận rằng khi nghe vậy sẽ sợ hãi trước mặt lúc này lại lộ ra nụ cười, mà nụ cười này trong nhiều năm qua lại là lần đầu tiên làm ông ta cảm thấy người trước mặt đây là một vị hoàng đế, là bậc hoàng đế chí tôn tối cao!
Kỳ đế cười nhạt nhìn vẻ mặt lo âu của thần tử trước mặt, ông ấy lo lắng là vì vận mệnh vừa rối rắm vừa hư hại của Đế quốc Đông Triều, chỉ tiếc là … Trong mắt kia không kìm được mà hiện lên nét trào phúng, nhưng vừa nhìn đến ánh mắt vừa nôn nóng lại không mất đi vẻ kiên nhẫn của lão thần kia, nét trào phúng bèn hóa thành cảm kích cùng thở dài.
“Đông tướng quân, trẫm đăng vị cũng đã gần hai mươi năm rồi nhỉ?” Kỳ đế thản nhiên mở miệng, cũng không định suy nghĩ chính xác xem mình cuối cùng là đã đăng vị được bao nhiêu năm, “Từ khi trẫm lên ngôi tới này, đều giao hết mọi việc cho khanh làm, mà trẫm lại lánh ở cung Định Thao này viết lách, vẽ tranh, đọc sách, nghe mưa…” Nói xong Kỳ đế cười tự giễu, “Nói đến nói đi, trẫm thực sự là một tên vua tầm thường, nhiều năm như vậy, chỉ khổ cho khanh thôi. Mà khanh thì một lòng phụ tá trẫm, một lòng bảo vệ Đế quốc Đông Triều, mười năm như một. Một tấm trung trinh này có thể nói là nghìn đời khó tìm!”
“Đó là nghĩa vụ của vi thần.” Đông Thù Phóng cung kính nói.
Kỳ đế lắc đầu, ánh mắt xuyên qua Đông Thù Phóng, từ từ rơi vào nơi xa xăm, giống như nhìn thấy quang cảnh nào đó mà say sưa.
“Vừa rồi khanh nói Tức vương đã tới gần thành Thương rồi à? Nhanh thế cơ à, không hổ là hậu duệ của “Lan Minh vương”. Môt lát sau, ánh mắt Kỳ đế lại rơi xuống người Đông Thù Phóng, “Thế còn hậu duệ của ‘Phượng vương’ – cô Phong vương mang danh xưng “Phượng Hoàng vương” ấy đã đến đâu rồi? Có cả hậu duệ của ‘Diễm vương’ nữa, cậu đến đâu rồi?”
“Phong vương sau khi đoạt được thành Uyên tại đất vua bèn di chuyển đến thành Quyên, còn Hoàng vương đã đánh chiếm Nam quốc, cũng hạ được sáu thành thuộc đất vua, giờ đã tới thành Trình.” Đông Thù Phóng đáp. Khi nói chuyện đầu mày không tự chủ được mà nhíu chặt lại, ánh mắt kia vừa sắc bén vừa khinh thường, trong lòng không khỏi lầm bầm: lũ loạn thần tặc tử này, hừ!
“À, cũng không tệ.” Kỳ đế nghe vậy gật đầu tán thưởng, “Bọn họ cũng không làm nhục thánh danh này của tổ tiên, chỉ có ta là loại con cháu bất hiếu không có khả năng thừa kế oai phong lẫm liệt của tổ tiên… Chỉ là không biết ai trong bọn họ tới Đế đô trước nhỉ…”
“Bệ hạ!” Đông Thù Phóng chợt thốt lên.
“Ờ.” Kỳ đế cười cười không lấy làm thú vị, mắt nhìn vị cựu thần trung thành này, ánh mắt như vậy đúng là sáng trong như gương, không còn vẻ chẳng màng như xưa. Đông Thù Phóng giờ khắc này không khỏi có phần ngạc nhiên mà kính sợ nhìn vị hoàng đế của ông ta, chẳng nhẽ bệ hạ cuối cùng cũng thức tỉnh trách nhiệm bậc quốc quân của một nước ư?
“Đông tướng quân, chúng ta còn bao nhiêu người?” Kỳ đế điềm nhiên hỏi, tới khi nhìn thấy ánh mắt có phần nghi hoặc của Đông Thù Phóng, không khỏi bồi thêm một câu, “Ý trẫm là, chúng ta còn bao nhiêu quân?”
“Bẩm bệ hạ, Cấm quân dưới trướng thần có mười vạn quân Cấm Vệ bảo hộ Đế đô, hơn nữa còn có quân thủ hộ ở các thành khác, ít nhất cũng phải tập hợp được hai mươi vạn đại quân.” Đông Thù Phóng đáp.
“À, hóa ra còn nhiều người như vậy sao.” Kỳ đế dường như có phần không ngờ, thoáng trầm ngâm, sau đó nói, “Vậy Đông tướng quân lĩnh tám vạn quân Cấm Vệ đi thảo phạt Phong vương đi?”
“Thảo phạt Phong vương?” Đông Thù Phóng cứ tưởng mình nghe nhầm, trừng mắt nhìn Kỳ đế, “Bệ hạ, việc này sao có thể?” Ông ta đã bất chấp việc nói năng có đụng chạm hoàng đế hay không. “Nếu lúc này lĩnh quân Cấm Vệ đi thảo phạt Phong vương, vậy Đế đô làm sao bây giờ? Bạch vương và Tức vương đều có đến mười vạn đại quân, hai vạn quân Cấm Vệ tại Đế đô làm sao có thể ngăn cản? Đến lúc đó…”
Kì đế cũng không thèm để ý khoát tay: “Đông tướng quân không phải vừa mới nói xong sao, nếu tập hợp quân thủ hộ các thành, ít nhất có thể gom được hai mươi vạn đại quân, trẫm sẽ thu thập đại quân các thành đến bảo vệ Đế đô là được. Chỉ cần Đông tướng quân bắt được Phong vương, sau đó lại quay lại kìm chân Tức vương, rồi cùng trẫm hai mặt giáp công, Tức vương tựa như ngao kẹp ở giữa, dễ như trở bàn tay. Hạ được Tức vương, đại tướng quân lại chỉ huy quân đánh về phía Hoàng vương hướng đông, nam, đánh bại Hoàng vương, thế là thiên hạ há không phải được bình định rồi sao?”
“Chuyện này…” Đông Thù Phóng không khỏi bật thốt, lời hoàng đế có vẻ rất có đạo lý, chỉ là sự tình liệu có thuận lợi dễ dàng như vậy không?
“Chẳng nhẽ Đông tướng quân không nắm chắc có thể thắng Phong vương? Hay là Đông tướng quân không tin trẫm không có năng lực bảo vệ được Đế đô?” Giọng nói của Kỳ đế chợt trở nên sắc bén.
“Lão thần không dám!” Đông Thù Phóng vội vàng cúi đầu nói.
“Vậy thì tốt rồi.” Giọng nói của Kỳ đế lại trở về như thường, “Như vậy Đông tướng quân từ giờ lập tức lên đường thảo phạt Phong Vương đi.”
“Bệ hạ, đại quân đánh giặc không phải ngày một ngày hai, còn cần phải chuẩn bị các loại việc tiền chiến nữa …” Đông Thù Phóng vừa mở miệng, lại bị Kỳ đế ngắt lời.
“Sao nào? Chẳng nhẽ đại tướng quân sợ? Chẳng nhẽ còn cần tới mười mấy ngày để chuẩn bị tâm lý sao?” Kỳ đế bỗng lạnh lùng nói, ánh mắt kia dường như mang mấy phần coi thường, “Xem ra đại tướng quân thật sự già rồi, nghe nói Phong Tích Vân kia mấy năm gần đây tên tuổi vang dội, tài văn tài võ đều không phải hạng tầm thường, lập nên Phong Vân kỵ hung hãn vô địch, có lẽ đại tướng quân đúng là không dám đấu một trận rồi!”
“Thần …” Đông Thù Phóng sau khi nhìn vị hoàng để đang ngồi thật lâu, bèn khom người quỳ xuống, “Thần xin tuân theo ý chỉ của bệ hạ!” Lão thần cúi thấp đầu, giọng nói khàn khàn cố nén nỗi bi phẫn!
“Được rồi.” Kỳ đế gật đầu vừa lòng, “Trẫm có một tấm thánh chỉ chiêu hàng, khanh mang theo đi, nếu có thể chiêu hàng Phong vương, đó là tốt nhất, dù sao nàng ta vẫn là thần tử của Đông Triều ta, trẫm há có thể không chừa đường cho nàng quay đầu, hơn nữa điều đó cũng thể hiện sự khoan hồng độ lượng của trẫm. Nếu nàng quy hàng, Tức vương, Hoàng vương không chừng cũng noi theo, thế là trẫm chẳng uổng lấy một người cũng có thể bình định thiên hạ!” Kỳ đế hăm hở hạ bút viết xuống thánh chỉ chiêu hàng, có lẽ nội dung chiếu thư cũng không dài, chỉ một lát là viết xong, sau đó bảo nội thị niêm phong lại.
Đông Thù Phóng nhận lấy chiếu chỉ chiêu hàng được hoàng đế niêm phong từ tay nội thị, ngẩng đầu nhìn hoàng đế một cái rồi lại cúi đầu xuống, giấu đi chút cười gượng gạo cùng nét tiều tụy tràn ngập, “Bệ hạ nhân từ như thế, chỉ mong nghịch thần có thể thấy và hiểu được thánh tâm, sớm quy hàng, nguyện trung thành với bệ hạ!”
“Tốt lắm, khanh đi đi.” Kỳ đế phất tay.
“Thần cáo lui.” Đông Thù Phóng lui ra. Bóng dáng rời đi kia giờ phút này lại ngầm lộ ra chút gì đó già nua và mệt mỏi.
Cung Định Thao yên tĩnh trở lại, ánh mắt của Kỳ đế lại rơi trở về trên bức ‘Hoa dưới trăng’ kia của Tả Nguyệt Công Tử, nhìn rất lâu, rồi khẽ cười giễu, mỉa mai cùng trào phúng lạnh lẽo hết thảy xen lẫn vào nụ cười này, lại vẫn giấu lấy chút ý tứ mà người ta không làm sao lý giải được:” Đông ái khanh à, thân thể một người nếu như cả tứ chi đều mục ruỗng, vậy thì cái đầu kia có minh mẫn hay khôn khéo trở lại cũng không thể cứu được nữa! Đã bao nhiêu năm vậy rồi mà khanh còn chưa hiểu sao?’
“Rõ là phiền toái!” Trong dinh quan thành Thương, Hạ Khí Thù nhìn công văn trên án vừa đưa tới lầm bầm.
“Phiền toái gì?” Tiếng cười khẽ từ cửa truyền tới, chỉ thấy Nhậm Xuyên Vũ nhẹ nhàng thong dong bước vào, “Loại chuyện gì lại có thể làm cho Hạ công tử thông minh cảm thấy phiền toái thế?” Trong lời nói ẩn chứa sự chế nhạo.
“Hừ! Sở dĩ tôi gặp phiền toái như vậy còn không phải bởi vì huynh!” Hạ Khí Thù cau mày nhìn người tiến vào, “Nếu không phải bởi vì lòng sâu xa hiểm ác, làm lệch phương hướng, vương làm sao đến mức giao việc trù bị lương thảo này cho tôi! Mấy chuyện vụn vặt đó vốn tất cả đều là giao cho người chẳng cần động tứ chi như huynh mới phải chứ!”
“Hả?” Nhậm Xuyên Vũ xoa cẳm, không bận tâm đến sự lên án cay độc của Hạ Khí Thù, cười cợt thoải mái như trước, “Chẳng nhẽ không phải là vì Hạ công tử thông minh có năng lực, cho nên vương mới phó thác trọng trách cho cậu sao?”
“Thông minh tài cán của tôi có cần dùng đến thì cũng phải dùng vào việc lập công nơi chiến trường chém giết quanh minh chính đại, không giống ai đó chuyên môn dùng âm mưu ngấm ngầm!” Hạ Khí Thù nói chẳng có chút nể nang nào. Mà luận tài đối đáp với Xuyên Vũ, cũng chỉ có vị Hạ Khí Thù cay độc này là có thể tranh hơn thua mồm miệng với Nhậm Xuyên Vũ.
“Khí Thù.”
Mắt thấy sắp phát động một trận tranh luận, lại bị một người cao lớn đẩy cửa vào cắt ngang.
“Lương thảo trong thành còn dư cho năm ngày, cho những ngày sau đó thì còn chưa tới, vì sao thế?” Kiều Cẩn hỏi Hạ Khí Thù, đi theo sau là Đoạn Mộc Văn Thanh, Nhậm Xuyên Vân.
“Ài!” Hạ Khí Thù thở dài một hơi, “Trên núi Mạt mưa to mấy ngày liền, đất đá lở từ trên núi xuống làm tắc đường, lương thảo không thể vận chuyển tới đây.”
Kiều Cẩn nghe vậy nhướng mày, nhìn Hạ Khí Thù, “Quân đội bụng rỗng thì không thắng trận được đâu nhé.”
“Tôi biết.” Hạ Khí Thù phiền não vỗ đầu, “Nhưng muốn vận chuyển lương thảo, phải khai thông đường. Vả lại nếu tiết kiệm lương thảo thành Thương, lại có thêm lương từ thành Diệc chuyển đến, hẳn là có thể chống cự thêm hơn mười ngày nữa, đến lúc đó chắc là lương thảo cũng vận chuyển tới nơi rồi, có điều…” Hạ Khí Thù nhìn về phía đồng liêu. “Bạch vương hiện đã tới thành Giao, quân ta chắc chắn phải xuất phát trước trong hai ngày tới, phải biết là qua thành Giao là tới Đế đô rồi, nên chúng ta không thể dừng ở đây mười ngày được. Mà nếu lương thảo không tới, đại quân làm sao đi được?”
“Thật là phiền toái!” Đoan Mộc Văn Thanh cũng nhắc lại nỗi phiền não của Hạ Khí Thù, “ Việc hành quân là không thể hoãn lại, cũng có khả năng Bạch Vương tấn công Đế đô, không thể để ông ta tóm được hoàng đế.”
“Chẳng nhẽ không có cách nào giải quyết được sao?” Nhậm Xuyên Vân hỏi.
“Có nhé.” Hạ Khí Thù cười như không liếc tướng quân Xuyên Vân nhỏ tuổi nhất giữa đám người, “Chém giết thôi! Cậu có bằng lòng dẫn quân đi chém giết dân chúng không?”
Nhậm Xuyên Vân nghe vậy không khỏi trợn mắt: “Nếu chém giết thật tôi cũng không ngại, nhưng mà vương của chúng ta cũng không đồng ý cho tôi đi làm loại chuyện phá hủy danh dự quân ta thế này.”
“Lúc này không phải lúc nói đùa đâu.” Kiều Cẩn phất tay, nhìn Hạ Khí Thù, “Có cách nào khác không?”
“Có.” Hạ Khí Thù gật đầu, nhưng câu kế lại là, “Có điều tôi cũng vừa mới nhận được tin này thôi, cho nên tạm thời chưa nghĩ ra cách gì.”
“Có phải chờ tới lúc đại quân bụng rỗng xuất phát thì mới nghĩ ra đúng không?” Đoan Mộc Văn Thanh nghe vậy không khỏi lầm bầm.
“Ây dà, chẳng qua chỉ là chút chuyện cỏn con, lại khiến các cậu phiền não như vậy, nếu không phải lớn lên cùng mấy cậu, tôi còn hoài nghi các cậu không phải bốn tướng quân Mặc Vũ kỵ uy chấn thiên hạ kia ấy chứ!” Nhậm Xuyên Vũ im lặng một hồi ở bên lúc này lắc đầu than thở.
“Ca ca, huynh có cách gì à?” Nhậm Xuyên Vũ sáng mắt lên nhìn về phía huynh trưởng.
“Tất nhiên.” Nhậm Xuyên Vũ vỗ cằm gật đầu, “Có thể viết thư nhờ vả Phong vương, trước khi thực hiện phản chính tại Đế đô, Phong Vân kỵ hẳn là sẽ không dễ dàng ra trận, nhất định nghỉ ngơi dưỡng sức. Cho nên quân ta theo kế hoạch đi đến thành Giao trước, mà lương thảo thì xin mời Phong vương từ thành Quyên đưa tới chia cho chúng ta, lại nhờ họ phái binh trước tiên tới núi Mạt mở thông đường, áp tải đội lương bắt kịp chúng ta, thế không phải là được rồi sao.”
Bốn người kia nghe vậy không khỏi ngẩn người, biện pháp của Nhậm Xuyên Vũ quả là không tồi, chỉ là ngẫm lại cho cẩn thận thì …
“Tôi vẫn còn một vấn đề muốn hỏi huynh.” Hạ Khí Thù nhìn chằm chằm Nhậm Xuyên Vũ, “Có vẻ như ngay từ đầu, khi huynh còn chưa từng gặp Phong vương, huynh lúc nào cũng chĩa mũi nhọn vào ngài ấy, nhằm vào Phong Vân kỵ? Vì sao? Huynh rõ ràng biết Phong vương và vương chúng ta không chỉ là có hôn ước đơn giản như vậy. Họ quen biết nhau mười năm trên giang hồ, tình nghĩa giữa họ người thường không thể bì kịp, mà hai nước có thể hòa hợp như vậy càng là nhờ hai người họ, cũng bởi vậy mà chúng ta mới có thể nhanh chóng đánh bại Bạch quốc! Thế nhưng vì sao huynh cứ cố tình làm những chuyện ly gián hai vương, hai quân hả? Người luôn tự phụ mình thông minh tài trí chỉ dưới một mình vương như huynh vì sao lại luôn làm ra vài hành động không sáng suốt như vậy?”
Hạ Khí Thù vừa dứt lời, ba người còn lại cũng không khỏi đều quay đầu nhìn về phía Nhậm Xuyên Vũ, đây cũng là nghi hoặc tồn tại trong lòng họ.
“Hờ, rốt cuộc thì người tốt vẫn khó làm.” Nhậm Xuyên Vũ bị bốn ánh mắt bắn xuyên không khỏi cười có phần cay đắng, “Chẳng nhẽ ở trong mắt các cậu, Nhậm Xuyên Vũ tôi thật sự lại là kẻ tiểu nhân như thế?”
“Huynh có phải tiểu nhân hay không tôi không biết, nhưng huynh chẳng phải quân tử!” Đoan Mộc Văn Thanh mở miệng, “Chẳng qua chúng tôi chưa bao giờ hoài nghi tấm lòng trung thành của huynh với vương thôi!”
“Ấy dà.” Nhậm Xuyên Vũ nghe vậy cười khổ, ánh mắt bình tĩnh nhìn một thanh bảo kiếm trên giá kiếm giữa phòng, rất lâu sau mới mở miệng hỏi: “Các cậu cảm thấy Phong vương thế nào?”
Bốn người trầm mặc một lát, cuối cùng vẫn là Kiều Cẩn lên tiếng: “Dung mạo phong thái dáng vẻ trời ban, tài hoa tuyệt thế!”
Đây là lời tán tụng mà thiên hạ truyền tụng rộng rãi, trước kia còn cảm thấy có phần ca ngợi quá đà, nhưng giờ phút này bọn họ cũng thật sự thấy thuyết phục tự đáy lòng, thực sự cảm thấy đó đúng là thực danh.
Nhậm Xuyên Vũ khẽ gật đầu, giống như cũng đồng cảm. Sau đó anh ta nói: “Từ xưa đã có hai loại phụ nữ, khiến thiên hạ hết lòng mến mộ, cũng như thế khiến thiên hạ khuynh đảo!”
Bốn người nghe vậy đều không khỏi thấy chấn động trong lòng, một câu này dường như mở ra một cánh cửa, một số chuyện trước kia họ chưa từng nghĩ tới theo cánh cửa đó mà ùa ra.
“Một loại là, lấy nhan sắc khuynh đảo quốc gia.” Ánh mắt Nhậm Xuyên Vũ vẫn dán vào thanh bảo kiếm như cũ, “Loại phụ nữ này đều có nhan sắc tuyệt trần, có thể dụ dỗ ánh mắt, khuynh đảo lòng người, mê hoặc tâm hồn, khuấy đảo nhân phách! Cứ thế người người lâm vào mông muội…Bỏ mình ném mệnh, bỏ thân thích phản bạn bè, bán nhà bán nước… Dù là bị đọa xuống địa ngục cũng không tiếc, chỉ cầu giai nhân âu yếm! Đó là hồng nhan họa thủy!”
“Một loại khác, lại là tài trí cái thế.” Nhậm Xuyên Vũ dời mắtnhìn về phía Kiều Cẩn, “Loại phụ nữ này thông tuệ vượt trội, phong thái cao quý rực rỡ. Ở bên ngoài, khiến cho chúng anh tài cảm phục, trên triều, khiến chúng thần tuân phục, chơi đùa thiên hạ trong lòng bàn tay! Nữ tử như vậy, nhất định tự phụ tài trí, dã tâm bừng bừng, nhất định không cam lòng dưới cơ người khác, nhẹ thì nắm giữ một nhà một nước, nặng thì nắm giữ cả thiên hạ trong lòng bàn tay!”
Lời vừa dứt, bốn người đều không khỏi nghiêm mặt.
“Phong vương này, ngài ấy chẳng những có nhan sắc …” Nhậm Xuyên Vũ bỗng nhiên cười cười, cười đến mức bùi ngùi vô hạn, “Ngài ấy còn có tài, có đức, có võ, thậm chí là … Ngài ấy có nước, có của, có dân, có quân, có một đám văn thần võ tướng trung thành với ngài, cùng muôn vạn lòng dân Phong quốc! Nữ tử như thế … Ngài ấy có thể đứng sau người khác sao?”
Trong phòng tĩnh lặng, không ai lên tiếng, đều là tự suy ngẫm, nghĩ về vị nữ vương đẹp đẽ tao nhã, tài trí tuyệt đỉnh ấy, nhìn như hòa nhã, nhưng nàng chỉ cần trừng họ một cái, lại khiến họ cảm thấy áp lực sâu sắc.
“Ngài ấy đã có hôn ước với vương, đợi sau khi đại hôn với vương, ngài ấy tất nhiên là ở phía sau vương rồi.” Đoan Mộc Văn Thanh dằn giọng nói, từ xưa đến nay vẫn thế không phải sao?
“Điểm này càng làm người ta lo lắng.” Con người Nhậm Xuyên Vũ lộ ra vẻ ưu tư âm thầm, “Vì nghênh đón Phong vương mà trải đường hoa, vì nghi thức hòa ước mà dựng đài Tức Phong, vì người mà trồng gốc ‘Lan Nhân Bích Nguyệt’ mất tám năm… Cái đó chẳng lẽ các cậu nhìn không ra sao?”
“Cái đó có gì mà không ổn? Hai vương tình cảm sâu nặng, chỉ biết là càng có lợi cho liên minh hữu nghị hai nước.” Đoan Mộc Văn Thanh vô cùng vui mừng khi thấy vương có thể vì ai đó mà làm một số chuyện, vương như vậy mới coi như có chút vị nhân tình, mà không phải hoàn mỹ vô tình không giống con người!
“Hừ, tình nghĩa thắm thiết, có thể làm hai quốc gia hòa làm một thể sao? Các cậu nghĩ đơn giản quá đấy!” Nhậm Xuyên Vũ cười lạnh lùng.
“Đúng vậy, vương đạo là con đường chỉ dành cho một người đi!” Nhậm Xuyên Vũ thở dài, mày hơi duỗi, “Tự xưa đến nay, bất cứ một vị đế vương nào, đều là tuyệt đối đứng ở nơi cao nhất, đi ở đằng trước nhất! Không ai có thể cùng sánh vai với ngài, không ai có thể đứng phía trước ngài! Chỉ có đứng ở phía sau ngài … Là hàng nghìn hàng vạn thần dân nối gót ngài!”
“Hơn nữa, một vị đế vương, ở trong lòng ngài, chiếm vị trí hàng đầu chỉ có thể là thiên hạ! Du cho là bất cứ kẻ nào, cũng không thể vượt qua! Bởi vì đó sẽ là ràng buộc, ngăn cản ngài tiến đến vị trí cao nhất!” Nhậm Xuyên Vũ hơi nắm chặt hai nắm tay, “Thủy đế, với một thân giáp vải mà giành được thiên hạ, tài năng mạnh mẽ sách lược vĩ đại biết bao! Thế mà hôm nay … Đế quốc Đông Triều chia năm xẻ bảy, chư hầu tranh bá, chiến loạn liên miên, dân chúng lầm than … Cục diện này thế mà lại do Thủy đế một tay tạo thành! Bảy tướng trung với ngài, nhưng trăm năm sau hậu duệ của họ liệu có còn trung trinh một lòng không? Thủy đế ngài ấy há chẳng biết sao? Thế nhưng ngài vẫn phong quốc! Mà vì sao ngài lại phong quốc? Còn không phải là vì Phượng vương! Vì một nữ nhân mà lập nước như thế! Đế vương như vậy quả thật vốn không phải là vị đế vương đủ tư cách, vốn là không xứng làm vương!” Nhậm Xuyên Vũ mắt lạnh như kiếm, “Các cậu chẳng nhẽ muốn nhìn vương đi con đường xưa của Thủy đế sao? Muốn thiên hạ đổi bằng máu bằng thịt bằng mạng cuả chính mình cũng rơi vào kết cục như hôm nay sao?!”
Nhậm Xuyên Vũ ngẩng đầu, ánh mắt xuyên qua bốn tướng, ánh dương chiếu từ song cửa vào bị vỏ bảo kiếm bằng đồng khúc xạ, thành vệt rơi vào trong con ngươi, nhưng không có cách nào khiến đôi đồng tử trở nên ấm áp, đôi đồng tử kia lạnh lẽo tột độ, giọng nói kia cũng chẳng có độ ấm, như băng vỡ vụn từ mặt hồ gương, lạo rạo mang theo cái đông giá của hồ băng: “Các cậu đều thấy tận mắt, Phong Vân kỵ, Phong quốc đều trung thành với ngài ấy, phục tùng ngài ấy! Nếu có một ngày… Rút kiếm đối địch, với chúng ta là … Với vương, ngài ấy là kẻ địch hàng đầu nguy hiểm nhất! Cho nên … Hoặc là làm suy yếu lực lượng của ngài ấy! Hoặc là … Ngài ấy tuyệt đối không thể tồn tại! Bỏi vì chúng ta thề sống nguyện chết trung thành chỉ với một vương mà thôi!”
Ngoài song cửa ánh dương diễm lệ chiếu rọi, thời tiết tháng mười mặc dù không gọi là nóng bức, nhưng nhất định không thể lạnh. Thế mà trong phòng, thời khắc này lạnh lẽo tĩnh mịch, bốn người đứng lẳng lặng, sóng lòng trào dâng mãnh liệt cuồn cuộn!
Vào lúc Tích Vân thấy Mặc Vũ kỵ tức tốc gửi thư xin trợ giúp, tuyệt nhiên không thấy một chút do dự cùng nghi hoặc nào.
“Trình Tri, rút một nửa lương thảo từ trong thành ra, cậu lĩnh ba nghìn người tới hộ tống Mặc Vũ kỵ.”
“Từ Uyên, cậu lĩnh năm nghìn người tới núi Mạt trước.”
“Vâng!” Từ Uyên, Trình Tri lĩnh mệnh rời đi.
Nhìn bóng dáng họ rời đi, Tu Cửu Dung bỗng nhớ tới một chuyện.
“Vương, mấy tháng luân phiên công thành, quân ta tuy thương vong ít, nhưng cũng mất đi gần một ngàn người, mà bị thương cũng phải hơn hai ngàn người, hơn nữa chiếm thành xong phải đóng quân ở lại, mà lúc này phái ra tám ngàn, cẩn thận mà tính, quân có thể tham chiến trong thành chưa đến ba vạn. Mặc Vũ kỵ hai mươi vạn đại quân, chẳng nhẽ rút ra một vạn quân vận chuyển lương thảo cũng không thể sao? Quân Bạch cũng không phải là Tranh Thiên kỵ nhé!”
“Ồ, không cần để ý, Cửu Dung.” Tích Vân nghe vậy không khỏi cười nhạt trấn an ái tướng, “Dù sao trước khi Tức vương đánh Đế đô tạm thời không cần đánh chiếm bất cứ thành nào, lúc này tạm thời tĩnh dưỡng cho tốt, cho nên giúp bọn họ vận chuyển lương thảo cũng không hề gì.”
Tại thời khắc này, bọn họ cũng không biết Đông Thù Phóng phụng mệnh lĩnh tám vạn cấm vệ quân tiến về thành Quyên. Tích Vân tuy là danh tướng dụng binh như thần, nhưng nàng cũng không phải nhà tiên tri. Nàng lấy trí óc người dụng binh mà suy nghĩ, Tranh Thiên kỵ nước Hoàng đang vội vã nuốt thành trì đất vua vào bụng, mà quân Bạch vội vội vàng vàng chạy trối chết còn chả kịp, trong khi Đế Đô lúc này quả thực lên toàn bộ tinh thần phòng bị để chuẩn bị ngăn quân Bạch, quân Phong, thực sự nghĩ không ra trừ phi nàng chủ động xuất binh, thì còn có chiến sự gì đến cửa được nữa. Cũng là bởi vì nàng chỉ dùng đầu óc nhà binh mà suy nghĩ, cho nên nàng không thể tưởng tượng được một nước đi xa xôi kia của vị Kỳ đế vốn chẳng hiểu việc dụng binh, cứ thế ngày sau vô số hồn thiêng lạc trong núi với máu tươi cùng đao kiếm tấu nên khúc bi ca lừng lẫy đoạn trường.
Nếu như bọn họ có thể đoán trước chuyện sau này, như vậy Nhậm Xuyên Vũ hắn sẽ càng vui vẻ gửi thư xin cứu trợ, mà Tích Vân, nàng tuyệt đối tình nguyện hai quân chia rời cũng tuyệt đối không phái binh vận chuyển lương thảo! Chỉ là nếu bọn họ đoán được xa hơn thế, Nhậm Xuyên Vũ có lẽ ngay từ đầu đã không chĩa mũi dùi vào Tích Vân, ngay từ đầu hắn sẽ coi nàng như Bồ tát mà phụng thờ! Còn Tích Vân, nếu như có thể biết được đủ chuyện ngày sau, nàng còn có thể đính hôn cùng Lan Tức, cùng Phong quốc kết đồng minh không? Còn có thể không màng tư lợi trợ thủ Lan Tức đoạt thiên hạ không?
Ngày mùng sáu tháng mười, đại quân Hoàng Triều vây Nam đô.
Ngày mùng bảy tháng mười, Nam vương mặc áo vải ra khỏi thành, dâng lên tấm lệnh chí tôn của Nam quốc “Huyền Mặc lệnh”, cúi đầu xưng thần với Hoàng quốc.
Ngày tám tháng mười, Hoàng Triều ban tước vị “Nam Thành hầu” cho Nam vương, đồng thời sai người “hộ tống” Nam hầu cùng với bốn trăm nhân thân phủ hầu trở về Hoàng quốc để an bài. Quân sư Liễu Vũ Sinh của Hoa quốc chủ động chờ lệnh.
Tại Đế Đô, ba trăm bảy mươi hai năm trước, Thủy đế xưng đế nơi đây, dựng cung điện xây tường thành, phong văn thần thưởng võ tướng, chiếu cáo thiên hạ Đế Quốc Đông Triều được thành lập, mở ra một trang huy hoàng tráng lệ của Đế Quốc Đông Triều. Hơn ba trăm năm trôi qua, Đế đô tựa như một con hùng sư nhìn xuống toàn bộ lãnh thổ Trung Nguyên, uy nghiêm cùng khí phách, phú quý cùng hoa lệ, quyền lợi cùng mưu kế, xa xỉ cùng hoang hoại, giữa nơi phồn hoa gấm vóc, giữa nơi sương thu cỏ dại. Trải qua trăm năm bể dâu, cho tới nay, nó chỉ còn là một tòa thành đô cổ kính đượm vẻ già nua, cái vẻ huy hoàng cùng tráng lệ xưa kia đã bị một thứ gọi là dòng sông thời gian chầm chậm gột rửa, có khi ở một góc tường hồng nơi cung điện, ở một khoảnh lá tía nơi ngự viên, ở nơi sương gió đầy châu ngọc, giữa tiếng sênh ca thâu đêm, còn có thể tìm thấy chút hào hoa phong nhã xưa cũ.
Hoàng cung Đế Đô, cung Định Thao.
“Cựu thần tham kiến bệ hạ!”
Âm thanh sang sảng như tiếng rống vang lên, trong thư phòng phía nam cung Định Thao, một lão tướng tóc bạc trắng cung kính hành lễ với người đàn ông vận thường phục sắc tím đậm đang tập trung vẽ tranh trước bàn.
“Ừ, Đông tướng quân tới đây, xin hãy mau mau đứng lên.” Người đàn ông đang vẽ tranh ra hiệu cho nội thị hầu hạ bên cạnh nâng lão tướng quân đang quỳ trên mặt đất.
“Tạ ơn bệ hạ!” Lão tướng quân ấy thế mà lại không cần người đỡ dậy, không mất chút sức nào tự mình đứng lên, động tác đơn giản như thế, lại được thực hiện vô cùng thoải mái nhanh nhẹn.
Vị lão tướng quân này là đại tướng quân Đông Thù Phóng được sắc phong Kí An hầu, đứng vào hàng đại tướng quân của Đế quốc Đông Triều. Tại nơi quần hùng cát cứ cấu xé nhau, giữa loạn thế phân tranh không ngừng nghỉ, ông ta lại chỉ trung thành tận tâm bảo vệ hoàng thất Đông Triều, mười năm như một! Dẫu tuổi đã quá lục tuần, thế nhưng nhìn từ vẻ bề ngoài, ngoại trừ mái đầu bạc pha sương, ông trông như người tráng niên mới ngoài bốn mươi, mặt vuông chữ quốc ngay thẳng tựa đao khắc, mày rậm ngang chữ nhất như nét mực đậm họa thành, vóc người cao lớn tráng kiện, tựa như phất tay một cái là tạo nên khí thế đánh bạt ngàn cân, mỗi một người khi nhìn thấy ông ta thì suy nghĩ nổi lên trong lòng hoàn toàn là: người này hẳn phải là một vị đại tướng quân!
“Ái khanh tới vừa lúc, nhìn xem bức “Hoa dưới trăng” này trẫm vẽ thế nào?” Nam tử áo tím bừng bừng hứng thú chỉ vào tác phẩm gần như hoàn thiện ở trên bàn. Người đó là hoàng đế của Đế quốc Đông Triều hiện nay – Kì đế, tuổi chừng ngoài bốn mươi, dáng người trung bình, mặt trắng râu thưa, thần thái không mang khí phách của bậc đế giả, lại mang tư thái nho nhã của một vị học giả.
“Thần là người thô tục, vốn chẳng am hiểu viết văn, làm sao biết được cái tuyệt diệu trong kiệt tác của bệ hạ.” Đông Thù Phóng chẳng hề dời bước đến phía trước nhìn bức họa. chỉ hơi cúi người đáp lời.
“Ồ.” Kì đế có phần thất vọng, ánh mắt từ trên người Đông Thù Phóng quay trở về trên bức họa, nhìn tác phẩm của chính mình, sau đó ánh mắt ấy từ từ thay đổi, từ từ trở nên dịu dàng, trở nên nồng nhiệt, chầm chậm tựa như chìm đắt tất cả tâm hồn vào trong bức họa, dáng vẻ kia tựa như nam nhân nhìn thấy mỹ nữ mà mình yêu nhất, chăm chú mà si mê.
“Bức ‘Hoa dưới trăng’ này của công tử Tả Nguyệt trẫm đã họa phỏng theo không dưới mười lần, nhưng lần này là tốt nhất, chính là…” Bước chân di chuyển, tầm mắt từ trên bức họa của mình dời đến bức họa ở phía trước bàn, rồi lại quay trở về trên bức tranh của mình, cứ coi đi coi lại như thế, sau đó tiếng thì thào tự nhẩm không ngừng tràn ra “Không ổn, không ổn! Công tử Tả Nguyệt vẽ chỗ này là tình và cảnh hòa làm một thể, khiến người nhìn thấy như thể được đặt vào trong tranh, thật là tuyệt không nên lời! Nhìn trăng này mà xem, như ẩn như hiện, sáng tỏ như ngọc, lại mông lung mịt mờ. Hoa này tựa như hé nở lại như e ấp, ngậm nhụy nở hoa, thật như giai nhân e thẹn … Tuyệt! Tuyệt! Thật sự là tuyệt diệu! Khó trách được xưng là Nguyệt Tú công tử, trẫm sao có thể bì kịp!” Dứt lời, bút trong tay bèn hạ xuống bức tranh của chính mình, một bức ‘Hoa dưới trăng’ còn chưa hoàn chỉnh kia cứ vậy mà kết thúc.
Mà Đông Thù Phóng đứng nhìn ở một bên, trong ánh mắt kia là vài phần cảm thán cùng nỗi lo lắng thất vọng không biết phải làm sao.
“Bệ hạ!” Đông Thù Phóng trầm giọng gọi, lay tỉnh vị hoàng đế đang từ trong niềm thương tiếc “tài hoa của mình thua kém người khác” dậy.
“Ừ.” Kì đế xoay người mặt đối diện với vị cựu thần trung thành và tận tâm này, “Đông ái khanh có chuyện gì?”
“Bệ hạ, ngài là vua một nước, nhẽ ra phải lấy quốc sự làm trọng, không thể vì cái này … Chút viêc nhàn nhã này mà làm lỡ chính sự!” Đông Thù Phóng cố gắng lựa từ uyển chuyển. Nếu vị trước mặt này không phải là hoàng đế mà là con cháu hay bộ hạ của ông ta, với tính tình của ông ấy, sợ đã sớm mắng to: nước gần như đã mất, người lúc này còn rảnh đấy mà làm mấy việc nhàn rỗi vô dụng này sao?!
Vị Kỳ đế này, từ khi lên ngôi đến nay, chưa bao giờ đặt tâm tư vào quốc sự, đối với tất cả việc triều chính, quân chính, ông ta ủy thác toàn bộ cho Đông Thù Phóng, hoàn toàn không sợ phó thác quyền lực cho người mà bị người cướp mất. Đế Quốc Đông Triều tuy danh tiếng còn, nước đã mất, nhưng chỉ cần hoàng đế còn, Đế Đô còn, như vậy triều đình vẫn tồn tại như cũ. Cho nên mỗi ngày tấu sớ từ các vương vực vẫn trình đến như trước, tấu nhiều nhất là việc các chư hầu nổi loạn, tấu giặc cướp nổi lên bốn phương, nhưng vị hoàng đế này xem xong liền vứt ở một bên, mày không thèm nhíu một cái, giống như những việc kia không phải xảy ra trên vương thổ của ông ấy. Ông ta cũng không giống như vài vị tổ tiên của mình, mê rượu mê sắc, ham tài hiếu chiến, ham giết chóc … Đam mê của ông ta đúng là mềm mỏng phong nhã hơn, ông ấy chỉ mê thư họa. Đới với thư họa, ông ấy có sự nhiệt tình lớn lao, cả ngày họa phỏng theo nhưng tác phẩm kiệt xuất của danh gia, nhưng ông ta chưa bao giờ họa lấy một bức tranh của chính mình!
“Ừ.” Đối với lời khuyên can của Đông Thù Phóng, Kỳ đế bằng lòng với dáng vẻ chẳng hề quan tâm, “Có ái khanh đây, trẫm chẳng cần quan tâm mấy việc không đâu này.”
Đông Thù Phóng nghe vậy không khỏi dở khóc dở cười, nhìn tổng thể lịch sử, chắc là cũng chỉ có vị hoàng đế trước mắt này coi việc triều chính là việc không đâu, mà coi mấy chuyện vẽ tranh viết chữ làm chính sự. Hoàng đế như vậy ư, ông biết làm sao cho phải?
“Bệ hạ!” Đông Thù Phóng tạm dẹp đi những tưởng tượng viển vông này, đưa tâm tư trở lại với mục đích tiến cung lần này: “Nghịch thần Bạch vương đã tới thành Thương, vượt qua thành Giao là tới Đế đô, mà vị Tức vương giương cờ “Dẹp yên thiên hạ” kia đã theo sát phía sau, tình thế đã vào cảnh vô cùng nguy nan, xin bệ hạ …”
Những lời tấu Đông Thù Phóng ủ trong bụng một đêm mới nói được mở đầu bèn không thể tiếp tục được nữa, đó là bởi vì vị hoàng đế mà ông xác nhận rằng khi nghe vậy sẽ sợ hãi trước mặt lúc này lại lộ ra nụ cười, mà nụ cười này trong nhiều năm qua lại là lần đầu tiên làm ông ta cảm thấy người trước mặt đây là một vị hoàng đế, là bậc hoàng đế chí tôn tối cao!
Kỳ đế cười nhạt nhìn vẻ mặt lo âu của thần tử trước mặt, ông ấy lo lắng là vì vận mệnh vừa rối rắm vừa hư hại của Đế quốc Đông Triều, chỉ tiếc là … Trong mắt kia không kìm được mà hiện lên nét trào phúng, nhưng vừa nhìn đến ánh mắt vừa nôn nóng lại không mất đi vẻ kiên nhẫn của lão thần kia, nét trào phúng bèn hóa thành cảm kích cùng thở dài.
“Đông tướng quân, trẫm đăng vị cũng đã gần hai mươi năm rồi nhỉ?” Kỳ đế thản nhiên mở miệng, cũng không định suy nghĩ chính xác xem mình cuối cùng là đã đăng vị được bao nhiêu năm, “Từ khi trẫm lên ngôi tới này, đều giao hết mọi việc cho khanh làm, mà trẫm lại lánh ở cung Định Thao này viết lách, vẽ tranh, đọc sách, nghe mưa…” Nói xong Kỳ đế cười tự giễu, “Nói đến nói đi, trẫm thực sự là một tên vua tầm thường, nhiều năm như vậy, chỉ khổ cho khanh thôi. Mà khanh thì một lòng phụ tá trẫm, một lòng bảo vệ Đế quốc Đông Triều, mười năm như một. Một tấm trung trinh này có thể nói là nghìn đời khó tìm!”
“Đó là nghĩa vụ của vi thần.” Đông Thù Phóng cung kính nói.
Kỳ đế lắc đầu, ánh mắt xuyên qua Đông Thù Phóng, từ từ rơi vào nơi xa xăm, giống như nhìn thấy quang cảnh nào đó mà say sưa.
“Vừa rồi khanh nói Tức vương đã tới gần thành Thương rồi à? Nhanh thế cơ à, không hổ là hậu duệ của “Lan Minh vương”. Môt lát sau, ánh mắt Kỳ đế lại rơi xuống người Đông Thù Phóng, “Thế còn hậu duệ của ‘Phượng vương’ – cô Phong vương mang danh xưng “Phượng Hoàng vương” ấy đã đến đâu rồi? Có cả hậu duệ của ‘Diễm vương’ nữa, cậu đến đâu rồi?”
“Phong vương sau khi đoạt được thành Uyên tại đất vua bèn di chuyển đến thành Quyên, còn Hoàng vương đã đánh chiếm Nam quốc, cũng hạ được sáu thành thuộc đất vua, giờ đã tới thành Trình.” Đông Thù Phóng đáp. Khi nói chuyện đầu mày không tự chủ được mà nhíu chặt lại, ánh mắt kia vừa sắc bén vừa khinh thường, trong lòng không khỏi lầm bầm: lũ loạn thần tặc tử này, hừ!
“À, cũng không tệ.” Kỳ đế nghe vậy gật đầu tán thưởng, “Bọn họ cũng không làm nhục thánh danh này của tổ tiên, chỉ có ta là loại con cháu bất hiếu không có khả năng thừa kế oai phong lẫm liệt của tổ tiên… Chỉ là không biết ai trong bọn họ tới Đế đô trước nhỉ…”
“Bệ hạ!” Đông Thù Phóng chợt thốt lên.
“Ờ.” Kỳ đế cười cười không lấy làm thú vị, mắt nhìn vị cựu thần trung thành này, ánh mắt như vậy đúng là sáng trong như gương, không còn vẻ chẳng màng như xưa. Đông Thù Phóng giờ khắc này không khỏi có phần ngạc nhiên mà kính sợ nhìn vị hoàng đế của ông ta, chẳng nhẽ bệ hạ cuối cùng cũng thức tỉnh trách nhiệm bậc quốc quân của một nước ư?
“Đông tướng quân, chúng ta còn bao nhiêu người?” Kỳ đế điềm nhiên hỏi, tới khi nhìn thấy ánh mắt có phần nghi hoặc của Đông Thù Phóng, không khỏi bồi thêm một câu, “Ý trẫm là, chúng ta còn bao nhiêu quân?”
“Bẩm bệ hạ, Cấm quân dưới trướng thần có mười vạn quân Cấm Vệ bảo hộ Đế đô, hơn nữa còn có quân thủ hộ ở các thành khác, ít nhất cũng phải tập hợp được hai mươi vạn đại quân.” Đông Thù Phóng đáp.
“À, hóa ra còn nhiều người như vậy sao.” Kỳ đế dường như có phần không ngờ, thoáng trầm ngâm, sau đó nói, “Vậy Đông tướng quân lĩnh tám vạn quân Cấm Vệ đi thảo phạt Phong vương đi?”
“Thảo phạt Phong vương?” Đông Thù Phóng cứ tưởng mình nghe nhầm, trừng mắt nhìn Kỳ đế, “Bệ hạ, việc này sao có thể?” Ông ta đã bất chấp việc nói năng có đụng chạm hoàng đế hay không. “Nếu lúc này lĩnh quân Cấm Vệ đi thảo phạt Phong vương, vậy Đế đô làm sao bây giờ? Bạch vương và Tức vương đều có đến mười vạn đại quân, hai vạn quân Cấm Vệ tại Đế đô làm sao có thể ngăn cản? Đến lúc đó…”
Kì đế cũng không thèm để ý khoát tay: “Đông tướng quân không phải vừa mới nói xong sao, nếu tập hợp quân thủ hộ các thành, ít nhất có thể gom được hai mươi vạn đại quân, trẫm sẽ thu thập đại quân các thành đến bảo vệ Đế đô là được. Chỉ cần Đông tướng quân bắt được Phong vương, sau đó lại quay lại kìm chân Tức vương, rồi cùng trẫm hai mặt giáp công, Tức vương tựa như ngao kẹp ở giữa, dễ như trở bàn tay. Hạ được Tức vương, đại tướng quân lại chỉ huy quân đánh về phía Hoàng vương hướng đông, nam, đánh bại Hoàng vương, thế là thiên hạ há không phải được bình định rồi sao?”
“Chuyện này…” Đông Thù Phóng không khỏi bật thốt, lời hoàng đế có vẻ rất có đạo lý, chỉ là sự tình liệu có thuận lợi dễ dàng như vậy không?
“Chẳng nhẽ Đông tướng quân không nắm chắc có thể thắng Phong vương? Hay là Đông tướng quân không tin trẫm không có năng lực bảo vệ được Đế đô?” Giọng nói của Kỳ đế chợt trở nên sắc bén.
“Lão thần không dám!” Đông Thù Phóng vội vàng cúi đầu nói.
“Vậy thì tốt rồi.” Giọng nói của Kỳ đế lại trở về như thường, “Như vậy Đông tướng quân từ giờ lập tức lên đường thảo phạt Phong Vương đi.”
“Bệ hạ, đại quân đánh giặc không phải ngày một ngày hai, còn cần phải chuẩn bị các loại việc tiền chiến nữa …” Đông Thù Phóng vừa mở miệng, lại bị Kỳ đế ngắt lời.
“Sao nào? Chẳng nhẽ đại tướng quân sợ? Chẳng nhẽ còn cần tới mười mấy ngày để chuẩn bị tâm lý sao?” Kỳ đế bỗng lạnh lùng nói, ánh mắt kia dường như mang mấy phần coi thường, “Xem ra đại tướng quân thật sự già rồi, nghe nói Phong Tích Vân kia mấy năm gần đây tên tuổi vang dội, tài văn tài võ đều không phải hạng tầm thường, lập nên Phong Vân kỵ hung hãn vô địch, có lẽ đại tướng quân đúng là không dám đấu một trận rồi!”
“Thần …” Đông Thù Phóng sau khi nhìn vị hoàng để đang ngồi thật lâu, bèn khom người quỳ xuống, “Thần xin tuân theo ý chỉ của bệ hạ!” Lão thần cúi thấp đầu, giọng nói khàn khàn cố nén nỗi bi phẫn!
“Được rồi.” Kỳ đế gật đầu vừa lòng, “Trẫm có một tấm thánh chỉ chiêu hàng, khanh mang theo đi, nếu có thể chiêu hàng Phong vương, đó là tốt nhất, dù sao nàng ta vẫn là thần tử của Đông Triều ta, trẫm há có thể không chừa đường cho nàng quay đầu, hơn nữa điều đó cũng thể hiện sự khoan hồng độ lượng của trẫm. Nếu nàng quy hàng, Tức vương, Hoàng vương không chừng cũng noi theo, thế là trẫm chẳng uổng lấy một người cũng có thể bình định thiên hạ!” Kỳ đế hăm hở hạ bút viết xuống thánh chỉ chiêu hàng, có lẽ nội dung chiếu thư cũng không dài, chỉ một lát là viết xong, sau đó bảo nội thị niêm phong lại.
Đông Thù Phóng nhận lấy chiếu chỉ chiêu hàng được hoàng đế niêm phong từ tay nội thị, ngẩng đầu nhìn hoàng đế một cái rồi lại cúi đầu xuống, giấu đi chút cười gượng gạo cùng nét tiều tụy tràn ngập, “Bệ hạ nhân từ như thế, chỉ mong nghịch thần có thể thấy và hiểu được thánh tâm, sớm quy hàng, nguyện trung thành với bệ hạ!”
“Tốt lắm, khanh đi đi.” Kỳ đế phất tay.
“Thần cáo lui.” Đông Thù Phóng lui ra. Bóng dáng rời đi kia giờ phút này lại ngầm lộ ra chút gì đó già nua và mệt mỏi.
Cung Định Thao yên tĩnh trở lại, ánh mắt của Kỳ đế lại rơi trở về trên bức ‘Hoa dưới trăng’ kia của Tả Nguyệt Công Tử, nhìn rất lâu, rồi khẽ cười giễu, mỉa mai cùng trào phúng lạnh lẽo hết thảy xen lẫn vào nụ cười này, lại vẫn giấu lấy chút ý tứ mà người ta không làm sao lý giải được:” Đông ái khanh à, thân thể một người nếu như cả tứ chi đều mục ruỗng, vậy thì cái đầu kia có minh mẫn hay khôn khéo trở lại cũng không thể cứu được nữa! Đã bao nhiêu năm vậy rồi mà khanh còn chưa hiểu sao?’
“Rõ là phiền toái!” Trong dinh quan thành Thương, Hạ Khí Thù nhìn công văn trên án vừa đưa tới lầm bầm.
“Phiền toái gì?” Tiếng cười khẽ từ cửa truyền tới, chỉ thấy Nhậm Xuyên Vũ nhẹ nhàng thong dong bước vào, “Loại chuyện gì lại có thể làm cho Hạ công tử thông minh cảm thấy phiền toái thế?” Trong lời nói ẩn chứa sự chế nhạo.
“Hừ! Sở dĩ tôi gặp phiền toái như vậy còn không phải bởi vì huynh!” Hạ Khí Thù cau mày nhìn người tiến vào, “Nếu không phải bởi vì lòng sâu xa hiểm ác, làm lệch phương hướng, vương làm sao đến mức giao việc trù bị lương thảo này cho tôi! Mấy chuyện vụn vặt đó vốn tất cả đều là giao cho người chẳng cần động tứ chi như huynh mới phải chứ!”
“Hả?” Nhậm Xuyên Vũ xoa cẳm, không bận tâm đến sự lên án cay độc của Hạ Khí Thù, cười cợt thoải mái như trước, “Chẳng nhẽ không phải là vì Hạ công tử thông minh có năng lực, cho nên vương mới phó thác trọng trách cho cậu sao?”
“Thông minh tài cán của tôi có cần dùng đến thì cũng phải dùng vào việc lập công nơi chiến trường chém giết quanh minh chính đại, không giống ai đó chuyên môn dùng âm mưu ngấm ngầm!” Hạ Khí Thù nói chẳng có chút nể nang nào. Mà luận tài đối đáp với Xuyên Vũ, cũng chỉ có vị Hạ Khí Thù cay độc này là có thể tranh hơn thua mồm miệng với Nhậm Xuyên Vũ.
“Khí Thù.”
Mắt thấy sắp phát động một trận tranh luận, lại bị một người cao lớn đẩy cửa vào cắt ngang.
“Lương thảo trong thành còn dư cho năm ngày, cho những ngày sau đó thì còn chưa tới, vì sao thế?” Kiều Cẩn hỏi Hạ Khí Thù, đi theo sau là Đoạn Mộc Văn Thanh, Nhậm Xuyên Vân.
“Ài!” Hạ Khí Thù thở dài một hơi, “Trên núi Mạt mưa to mấy ngày liền, đất đá lở từ trên núi xuống làm tắc đường, lương thảo không thể vận chuyển tới đây.”
Kiều Cẩn nghe vậy nhướng mày, nhìn Hạ Khí Thù, “Quân đội bụng rỗng thì không thắng trận được đâu nhé.”
“Tôi biết.” Hạ Khí Thù phiền não vỗ đầu, “Nhưng muốn vận chuyển lương thảo, phải khai thông đường. Vả lại nếu tiết kiệm lương thảo thành Thương, lại có thêm lương từ thành Diệc chuyển đến, hẳn là có thể chống cự thêm hơn mười ngày nữa, đến lúc đó chắc là lương thảo cũng vận chuyển tới nơi rồi, có điều…” Hạ Khí Thù nhìn về phía đồng liêu. “Bạch vương hiện đã tới thành Giao, quân ta chắc chắn phải xuất phát trước trong hai ngày tới, phải biết là qua thành Giao là tới Đế đô rồi, nên chúng ta không thể dừng ở đây mười ngày được. Mà nếu lương thảo không tới, đại quân làm sao đi được?”
“Thật là phiền toái!” Đoan Mộc Văn Thanh cũng nhắc lại nỗi phiền não của Hạ Khí Thù, “ Việc hành quân là không thể hoãn lại, cũng có khả năng Bạch Vương tấn công Đế đô, không thể để ông ta tóm được hoàng đế.”
“Chẳng nhẽ không có cách nào giải quyết được sao?” Nhậm Xuyên Vân hỏi.
“Có nhé.” Hạ Khí Thù cười như không liếc tướng quân Xuyên Vân nhỏ tuổi nhất giữa đám người, “Chém giết thôi! Cậu có bằng lòng dẫn quân đi chém giết dân chúng không?”
Nhậm Xuyên Vân nghe vậy không khỏi trợn mắt: “Nếu chém giết thật tôi cũng không ngại, nhưng mà vương của chúng ta cũng không đồng ý cho tôi đi làm loại chuyện phá hủy danh dự quân ta thế này.”
“Lúc này không phải lúc nói đùa đâu.” Kiều Cẩn phất tay, nhìn Hạ Khí Thù, “Có cách nào khác không?”
“Có.” Hạ Khí Thù gật đầu, nhưng câu kế lại là, “Có điều tôi cũng vừa mới nhận được tin này thôi, cho nên tạm thời chưa nghĩ ra cách gì.”
“Có phải chờ tới lúc đại quân bụng rỗng xuất phát thì mới nghĩ ra đúng không?” Đoan Mộc Văn Thanh nghe vậy không khỏi lầm bầm.
“Ây dà, chẳng qua chỉ là chút chuyện cỏn con, lại khiến các cậu phiền não như vậy, nếu không phải lớn lên cùng mấy cậu, tôi còn hoài nghi các cậu không phải bốn tướng quân Mặc Vũ kỵ uy chấn thiên hạ kia ấy chứ!” Nhậm Xuyên Vũ im lặng một hồi ở bên lúc này lắc đầu than thở.
“Ca ca, huynh có cách gì à?” Nhậm Xuyên Vũ sáng mắt lên nhìn về phía huynh trưởng.
“Tất nhiên.” Nhậm Xuyên Vũ vỗ cằm gật đầu, “Có thể viết thư nhờ vả Phong vương, trước khi thực hiện phản chính tại Đế đô, Phong Vân kỵ hẳn là sẽ không dễ dàng ra trận, nhất định nghỉ ngơi dưỡng sức. Cho nên quân ta theo kế hoạch đi đến thành Giao trước, mà lương thảo thì xin mời Phong vương từ thành Quyên đưa tới chia cho chúng ta, lại nhờ họ phái binh trước tiên tới núi Mạt mở thông đường, áp tải đội lương bắt kịp chúng ta, thế không phải là được rồi sao.”
Bốn người kia nghe vậy không khỏi ngẩn người, biện pháp của Nhậm Xuyên Vũ quả là không tồi, chỉ là ngẫm lại cho cẩn thận thì …
“Tôi vẫn còn một vấn đề muốn hỏi huynh.” Hạ Khí Thù nhìn chằm chằm Nhậm Xuyên Vũ, “Có vẻ như ngay từ đầu, khi huynh còn chưa từng gặp Phong vương, huynh lúc nào cũng chĩa mũi nhọn vào ngài ấy, nhằm vào Phong Vân kỵ? Vì sao? Huynh rõ ràng biết Phong vương và vương chúng ta không chỉ là có hôn ước đơn giản như vậy. Họ quen biết nhau mười năm trên giang hồ, tình nghĩa giữa họ người thường không thể bì kịp, mà hai nước có thể hòa hợp như vậy càng là nhờ hai người họ, cũng bởi vậy mà chúng ta mới có thể nhanh chóng đánh bại Bạch quốc! Thế nhưng vì sao huynh cứ cố tình làm những chuyện ly gián hai vương, hai quân hả? Người luôn tự phụ mình thông minh tài trí chỉ dưới một mình vương như huynh vì sao lại luôn làm ra vài hành động không sáng suốt như vậy?”
Hạ Khí Thù vừa dứt lời, ba người còn lại cũng không khỏi đều quay đầu nhìn về phía Nhậm Xuyên Vũ, đây cũng là nghi hoặc tồn tại trong lòng họ.
“Hờ, rốt cuộc thì người tốt vẫn khó làm.” Nhậm Xuyên Vũ bị bốn ánh mắt bắn xuyên không khỏi cười có phần cay đắng, “Chẳng nhẽ ở trong mắt các cậu, Nhậm Xuyên Vũ tôi thật sự lại là kẻ tiểu nhân như thế?”
“Huynh có phải tiểu nhân hay không tôi không biết, nhưng huynh chẳng phải quân tử!” Đoan Mộc Văn Thanh mở miệng, “Chẳng qua chúng tôi chưa bao giờ hoài nghi tấm lòng trung thành của huynh với vương thôi!”
“Ấy dà.” Nhậm Xuyên Vũ nghe vậy cười khổ, ánh mắt bình tĩnh nhìn một thanh bảo kiếm trên giá kiếm giữa phòng, rất lâu sau mới mở miệng hỏi: “Các cậu cảm thấy Phong vương thế nào?”
Bốn người trầm mặc một lát, cuối cùng vẫn là Kiều Cẩn lên tiếng: “Dung mạo phong thái dáng vẻ trời ban, tài hoa tuyệt thế!”
Đây là lời tán tụng mà thiên hạ truyền tụng rộng rãi, trước kia còn cảm thấy có phần ca ngợi quá đà, nhưng giờ phút này bọn họ cũng thật sự thấy thuyết phục tự đáy lòng, thực sự cảm thấy đó đúng là thực danh.
Nhậm Xuyên Vũ khẽ gật đầu, giống như cũng đồng cảm. Sau đó anh ta nói: “Từ xưa đã có hai loại phụ nữ, khiến thiên hạ hết lòng mến mộ, cũng như thế khiến thiên hạ khuynh đảo!”
Bốn người nghe vậy đều không khỏi thấy chấn động trong lòng, một câu này dường như mở ra một cánh cửa, một số chuyện trước kia họ chưa từng nghĩ tới theo cánh cửa đó mà ùa ra.
“Một loại là, lấy nhan sắc khuynh đảo quốc gia.” Ánh mắt Nhậm Xuyên Vũ vẫn dán vào thanh bảo kiếm như cũ, “Loại phụ nữ này đều có nhan sắc tuyệt trần, có thể dụ dỗ ánh mắt, khuynh đảo lòng người, mê hoặc tâm hồn, khuấy đảo nhân phách! Cứ thế người người lâm vào mông muội…Bỏ mình ném mệnh, bỏ thân thích phản bạn bè, bán nhà bán nước… Dù là bị đọa xuống địa ngục cũng không tiếc, chỉ cầu giai nhân âu yếm! Đó là hồng nhan họa thủy!”
“Một loại khác, lại là tài trí cái thế.” Nhậm Xuyên Vũ dời mắtnhìn về phía Kiều Cẩn, “Loại phụ nữ này thông tuệ vượt trội, phong thái cao quý rực rỡ. Ở bên ngoài, khiến cho chúng anh tài cảm phục, trên triều, khiến chúng thần tuân phục, chơi đùa thiên hạ trong lòng bàn tay! Nữ tử như vậy, nhất định tự phụ tài trí, dã tâm bừng bừng, nhất định không cam lòng dưới cơ người khác, nhẹ thì nắm giữ một nhà một nước, nặng thì nắm giữ cả thiên hạ trong lòng bàn tay!”
Lời vừa dứt, bốn người đều không khỏi nghiêm mặt.
“Phong vương này, ngài ấy chẳng những có nhan sắc …” Nhậm Xuyên Vũ bỗng nhiên cười cười, cười đến mức bùi ngùi vô hạn, “Ngài ấy còn có tài, có đức, có võ, thậm chí là … Ngài ấy có nước, có của, có dân, có quân, có một đám văn thần võ tướng trung thành với ngài, cùng muôn vạn lòng dân Phong quốc! Nữ tử như thế … Ngài ấy có thể đứng sau người khác sao?”
Trong phòng tĩnh lặng, không ai lên tiếng, đều là tự suy ngẫm, nghĩ về vị nữ vương đẹp đẽ tao nhã, tài trí tuyệt đỉnh ấy, nhìn như hòa nhã, nhưng nàng chỉ cần trừng họ một cái, lại khiến họ cảm thấy áp lực sâu sắc.
“Ngài ấy đã có hôn ước với vương, đợi sau khi đại hôn với vương, ngài ấy tất nhiên là ở phía sau vương rồi.” Đoan Mộc Văn Thanh dằn giọng nói, từ xưa đến nay vẫn thế không phải sao?
“Điểm này càng làm người ta lo lắng.” Con người Nhậm Xuyên Vũ lộ ra vẻ ưu tư âm thầm, “Vì nghênh đón Phong vương mà trải đường hoa, vì nghi thức hòa ước mà dựng đài Tức Phong, vì người mà trồng gốc ‘Lan Nhân Bích Nguyệt’ mất tám năm… Cái đó chẳng lẽ các cậu nhìn không ra sao?”
“Cái đó có gì mà không ổn? Hai vương tình cảm sâu nặng, chỉ biết là càng có lợi cho liên minh hữu nghị hai nước.” Đoan Mộc Văn Thanh vô cùng vui mừng khi thấy vương có thể vì ai đó mà làm một số chuyện, vương như vậy mới coi như có chút vị nhân tình, mà không phải hoàn mỹ vô tình không giống con người!
“Hừ, tình nghĩa thắm thiết, có thể làm hai quốc gia hòa làm một thể sao? Các cậu nghĩ đơn giản quá đấy!” Nhậm Xuyên Vũ cười lạnh lùng.
“Đúng vậy, vương đạo là con đường chỉ dành cho một người đi!” Nhậm Xuyên Vũ thở dài, mày hơi duỗi, “Tự xưa đến nay, bất cứ một vị đế vương nào, đều là tuyệt đối đứng ở nơi cao nhất, đi ở đằng trước nhất! Không ai có thể cùng sánh vai với ngài, không ai có thể đứng phía trước ngài! Chỉ có đứng ở phía sau ngài … Là hàng nghìn hàng vạn thần dân nối gót ngài!”
“Hơn nữa, một vị đế vương, ở trong lòng ngài, chiếm vị trí hàng đầu chỉ có thể là thiên hạ! Du cho là bất cứ kẻ nào, cũng không thể vượt qua! Bởi vì đó sẽ là ràng buộc, ngăn cản ngài tiến đến vị trí cao nhất!” Nhậm Xuyên Vũ hơi nắm chặt hai nắm tay, “Thủy đế, với một thân giáp vải mà giành được thiên hạ, tài năng mạnh mẽ sách lược vĩ đại biết bao! Thế mà hôm nay … Đế quốc Đông Triều chia năm xẻ bảy, chư hầu tranh bá, chiến loạn liên miên, dân chúng lầm than … Cục diện này thế mà lại do Thủy đế một tay tạo thành! Bảy tướng trung với ngài, nhưng trăm năm sau hậu duệ của họ liệu có còn trung trinh một lòng không? Thủy đế ngài ấy há chẳng biết sao? Thế nhưng ngài vẫn phong quốc! Mà vì sao ngài lại phong quốc? Còn không phải là vì Phượng vương! Vì một nữ nhân mà lập nước như thế! Đế vương như vậy quả thật vốn không phải là vị đế vương đủ tư cách, vốn là không xứng làm vương!” Nhậm Xuyên Vũ mắt lạnh như kiếm, “Các cậu chẳng nhẽ muốn nhìn vương đi con đường xưa của Thủy đế sao? Muốn thiên hạ đổi bằng máu bằng thịt bằng mạng cuả chính mình cũng rơi vào kết cục như hôm nay sao?!”
Nhậm Xuyên Vũ ngẩng đầu, ánh mắt xuyên qua bốn tướng, ánh dương chiếu từ song cửa vào bị vỏ bảo kiếm bằng đồng khúc xạ, thành vệt rơi vào trong con ngươi, nhưng không có cách nào khiến đôi đồng tử trở nên ấm áp, đôi đồng tử kia lạnh lẽo tột độ, giọng nói kia cũng chẳng có độ ấm, như băng vỡ vụn từ mặt hồ gương, lạo rạo mang theo cái đông giá của hồ băng: “Các cậu đều thấy tận mắt, Phong Vân kỵ, Phong quốc đều trung thành với ngài ấy, phục tùng ngài ấy! Nếu có một ngày… Rút kiếm đối địch, với chúng ta là … Với vương, ngài ấy là kẻ địch hàng đầu nguy hiểm nhất! Cho nên … Hoặc là làm suy yếu lực lượng của ngài ấy! Hoặc là … Ngài ấy tuyệt đối không thể tồn tại! Bỏi vì chúng ta thề sống nguyện chết trung thành chỉ với một vương mà thôi!”
Ngoài song cửa ánh dương diễm lệ chiếu rọi, thời tiết tháng mười mặc dù không gọi là nóng bức, nhưng nhất định không thể lạnh. Thế mà trong phòng, thời khắc này lạnh lẽo tĩnh mịch, bốn người đứng lẳng lặng, sóng lòng trào dâng mãnh liệt cuồn cuộn!
Vào lúc Tích Vân thấy Mặc Vũ kỵ tức tốc gửi thư xin trợ giúp, tuyệt nhiên không thấy một chút do dự cùng nghi hoặc nào.
“Trình Tri, rút một nửa lương thảo từ trong thành ra, cậu lĩnh ba nghìn người tới hộ tống Mặc Vũ kỵ.”
“Từ Uyên, cậu lĩnh năm nghìn người tới núi Mạt trước.”
“Vâng!” Từ Uyên, Trình Tri lĩnh mệnh rời đi.
Nhìn bóng dáng họ rời đi, Tu Cửu Dung bỗng nhớ tới một chuyện.
“Vương, mấy tháng luân phiên công thành, quân ta tuy thương vong ít, nhưng cũng mất đi gần một ngàn người, mà bị thương cũng phải hơn hai ngàn người, hơn nữa chiếm thành xong phải đóng quân ở lại, mà lúc này phái ra tám ngàn, cẩn thận mà tính, quân có thể tham chiến trong thành chưa đến ba vạn. Mặc Vũ kỵ hai mươi vạn đại quân, chẳng nhẽ rút ra một vạn quân vận chuyển lương thảo cũng không thể sao? Quân Bạch cũng không phải là Tranh Thiên kỵ nhé!”
“Ồ, không cần để ý, Cửu Dung.” Tích Vân nghe vậy không khỏi cười nhạt trấn an ái tướng, “Dù sao trước khi Tức vương đánh Đế đô tạm thời không cần đánh chiếm bất cứ thành nào, lúc này tạm thời tĩnh dưỡng cho tốt, cho nên giúp bọn họ vận chuyển lương thảo cũng không hề gì.”
Tại thời khắc này, bọn họ cũng không biết Đông Thù Phóng phụng mệnh lĩnh tám vạn cấm vệ quân tiến về thành Quyên. Tích Vân tuy là danh tướng dụng binh như thần, nhưng nàng cũng không phải nhà tiên tri. Nàng lấy trí óc người dụng binh mà suy nghĩ, Tranh Thiên kỵ nước Hoàng đang vội vã nuốt thành trì đất vua vào bụng, mà quân Bạch vội vội vàng vàng chạy trối chết còn chả kịp, trong khi Đế Đô lúc này quả thực lên toàn bộ tinh thần phòng bị để chuẩn bị ngăn quân Bạch, quân Phong, thực sự nghĩ không ra trừ phi nàng chủ động xuất binh, thì còn có chiến sự gì đến cửa được nữa. Cũng là bởi vì nàng chỉ dùng đầu óc nhà binh mà suy nghĩ, cho nên nàng không thể tưởng tượng được một nước đi xa xôi kia của vị Kỳ đế vốn chẳng hiểu việc dụng binh, cứ thế ngày sau vô số hồn thiêng lạc trong núi với máu tươi cùng đao kiếm tấu nên khúc bi ca lừng lẫy đoạn trường.
Nếu như bọn họ có thể đoán trước chuyện sau này, như vậy Nhậm Xuyên Vũ hắn sẽ càng vui vẻ gửi thư xin cứu trợ, mà Tích Vân, nàng tuyệt đối tình nguyện hai quân chia rời cũng tuyệt đối không phái binh vận chuyển lương thảo! Chỉ là nếu bọn họ đoán được xa hơn thế, Nhậm Xuyên Vũ có lẽ ngay từ đầu đã không chĩa mũi dùi vào Tích Vân, ngay từ đầu hắn sẽ coi nàng như Bồ tát mà phụng thờ! Còn Tích Vân, nếu như có thể biết được đủ chuyện ngày sau, nàng còn có thể đính hôn cùng Lan Tức, cùng Phong quốc kết đồng minh không? Còn có thể không màng tư lợi trợ thủ Lan Tức đoạt thiên hạ không?
/55
|