Dựa mình ở bên thùng xe của xe ngựa, Trương Thế Nhân thả hai cái đùi tự do, nhắm mắt lại nghỉ ngơi, một bộ dáng nhàn nhã và thoải mái. Đại Khuyển ngồi ở bên cạnh mà đánh xe, thỉnh thoảng lấy ra mộ khối thịt chó đông cứng được thầm cách thủy bỏ trong một bao giấy dầu ăn ngấu nghiến. Cùng nằm trong bao giấy dầu với món thịt chó hầm cách thủy là mười mấy cái bánh bao thịt do bà chủ quán Kê Kê Đỗ Hồng Tuyến tự tay làm ra. Đêm đó nàng ta cố ý làm ra mấy món này, định đưa chúng cho Trương Thế Nhân làm lương khô trên đường, ai ngờ Trương Thế Nhân bị thương nặng như vậy, phải nghỉ thêm vài ngày nữa mới có thể tốt lên.
Nhưng mà thời tiết ở nơi này rất lạnh, đồ ăn để qua vài ngày cũng không tài nào hỏng mất, cho nên khi đặt nó ở trên lò lửa, thì mùi hương đậm đặc của miếng thịt được hâm nóng bay ra, xông vào mũi.
Xe ngựa của Trương Thế Nhân đi ở sau cùng của đoàn xe, ở phía trước là bảy cỗ xe ngựa của các cô nương xinh đẹp Hải Dương Quán. Trước cùng là chiếc xe hộ vệ của Hải Dương Quán, tiếp theo là chiếc xe của Lê đại nương và Lê cô nương, đánh xe chính là lão già què.
- Theo tiến độ hiện nay, để đến Thanh Long cũng cần bốn tháng ròng.
Đang nhắm mắt nghỉ ngơi thì Trương Thế Nhân bỗng nhiên nói một câu, giọng nói có chút bất đắc dĩ.
- Không lỡ cuộc thi của ngươi đâu.
Đại Khuyển nhai nuốt thịt chó, bởi vì nó bị đông lạnh, cho nên hắn đều phải thêm một chút sức:
- Cuộc thi của Kinh Võ Viện diễn ra vào cuối tháng sáu, hiện tại mới là tháng giêng, cho dù đi mất năm tháng thì cũng không lỡ được. Kinh Võ Viện của Đại Nam tổ chức thi ba năm một lần, cũng bởi vì Đại Nam quá lớn, cho nên thí sinh ở Ung quận phải lên đường từ năm trước, đi đường cũng mất sáu, bảy tháng.
- Luôn sợ chậm trễ lại còn phải hướng về Binh Bộ, Hộ Bộ, Lại Bộ, những cái… nha môn đi qua, cũng không biết có bị bọn họ làm khó dễ hay không.
Trương Thế Nhân có chút lo lắng nói ra:
- Nghe nói đám quan viên trong đế đô là một đám mắt cao hơn đầu, họ xem thường nhất chính là những người sống ở ngoài đế đô. Chẳng khác gì giang sơn Đại Nam chia làm hai phần. Một phần là đế đô, cao không thể chạm. Một phần là địa phương khác, thấp hơn người một đầu.
Đại Khuyển khuyên nhủ:
- Ngươi là thí sinh ở trong quân đội, đương nhiên Binh Bộ sẽ không là vấn đề gì khó. Kinh Võ Viện chiêu sinh thì đã có năm phần mười thí sinh xuất phát từ trong quân, năm phần mười còn lại xuất phát từ dân gian, Binh Bộ ước gì thí sinh trong quân đều thi thuận lợi một chút, nếu như bị thí sinh trong dân gian đoạt danh tiếng thì bọn họ cũng mất mặt. Lại nói, vài chục năm thành Gia Trang mới có một người như ngươi, chẳng lẽ còn không có khảo thí thì đã đem ngươi đá xuống? Mặt khác trong tay chúng ta không phải có bạc sao, nhét một tấm thiệp hồng cho họ, mỗi thiệp một trăm lượng bạc là được.
- Phi!
Trương Thế Nhân nhổ ra một ngụm nước miếng, cười nói:
- Ngươi cho rằng quan viên đế đô là những kẻ nhà quê chưa từng va chạm xã hội? Một trăm lượng bạc ròng liền muốn thu mua họ?
- Sao? Vậy còn muốn bỏ ra bao nhiêu bạc?
Trương Thế Nhân trầm tư một lúc, nói:
- Có thế nào thì cũng phải ba trăm lượng chứ?
Đại Khuyển bỗng nhiên kinh hãi, không nhịn được mắng:
- Muốn uống máu người sao!
Hai cái nhà quê không có kiến thức nhiều về chốn đế đô Đại Nam phồn hoa, bởi vì vấn đề một trăm lượng bạc hay ba trăm lượng bạc mà tranh luận, mặt đỏ tới mang tai. Mộc Tiểu Yêu đang nằm ngủ trong xe không khỏi trở mình, trong lòng tự nhủ: “Không phải là bạc sao, coi mặt mày tên nào có vấn đề thì nhét vào là được. Buổi tối lại đi trộm về thì có tốn mất cái gì chứ?”
Vậy cũng là một cái chưa từng va chạm xã hội…
- Đại Khuyển, sau này đến đế đô thì ngươi phải gọi ta là công tử.
Trương Thế Nhân mở mắt ra, nhìn lên những đám mây bay bay trên bầu trời, nói thật tình:
- Ta cũng muốn có một cái tên có chút thâm ý, Thế Nhân, Thế Nhân… Lúc trước chính mình nghĩ ra cái tên này cũng quá bình dân rồi. Còn phải suy nghĩ ra cái tên nào có được tao nhã, lịch sự. Đại Khuyển, ngươi cùng suy nghĩ giúp ta… Được rồi, theo tên của ngươi thì đã biết ngươi cũng không giúp đỡ được cái gì.
Đại Khuyển cười hì hì rồi lại cười mỉm, dứt khoát không trả lời.
Nghĩ được một lúc mà Trương Thế Nhân vẫn không nghĩ ra được cái tên nào tốt. Hắn vén rèm lên, tiến vào trong xe ngựa. Nhìn thấy Mộc Tiểu Yêu đang ngủ thì đi tới ngồi cạnh nàng, lắc cánh tay nàng:
- Tiểu Yêu tỷ, ta muốn một tên khác.
Đột nhiên Mộc Tiểu Yêu bừng tỉnh, ngồi thẳng người, con mắt nhắm về nhìn về Trương Thế Nhân:
- Ngươi muốn một tên khác? Ta biết ngay mà… Không thể đi cùng đi chung với người của Hải Dương Quán.
- Có quan hệ gì?
Trương Thế Nhân khó hiểu.
- Ngươi muốn một tên khác, thì sao không tự mình đi nhìn những xe ngựa phía trước? Ngươi chui vào đây nói với ta làm gì? Trong tay của ngươi cũng có ít nhất mấy vạn lượng bạc, cho dù nữ tử của Hải Dương Quán lại cao sang, thì bỏ ra mấy vạn lượng còn không một được một tên khác? Đừng làm phiền ta! Ta muốn đi ngủ.
Trương Thế Nhân kinh ngạc nói:
- Ta không phải là muốn tên khác sao, như thế nào mà lửa giận lại lớn như vậy?
- Ngươi muốn đi đâu thì đi! Bớt tới làm phiền ta!
- Để cho ta dùng tiền mua tên khác… Thô lỗ bao nhiêu?
Trương Thế Nhân lầm bầm một câu, quay ngươi lại rồi chui ra.
Ở sau lưng hắn, Mộc Tiểu Yêu cả giận nói:
- Tên khác không cần tiền, ngươi định lấy không sao?
Trong đầu Trương Thế Nhân chỉ có tên gọi cùng danh hào, đâu nghĩ đến việc Mộc Tiểu Yêu hiểu sai ý. Nghĩ đến lúc đến đế đô cũng không thể biểu hiện ra một bộ học trò quá nghèo, nên hắn cho rằng cái tên gọi cùng danh hào đều phải văn nhã chút ít mới tốt. Mặc dù hắn có trí nhớ của hai đời, nhưng đối với cái thế giới xa lạ này lại không hề hiểu rõ. Thậm chí hắn không biết cái tên gọi của con người ở thế giới này cùng cùng thế giới bên kia không giống nhau. Ở thế giới này, chỉ có người cha là có thể đặt tên cho đứa con, ngay cả người mẹ cũng không thể có tư cách này.
- Được rồi, tên Thế Nhân là tên đã vào quân tịch rồi, muốn thay đổi cũng không thay đổi được.
Hắn thở dài, sau đó hỏi Đại Khuyển ở bên cạnh:
- Ta lấy danh hào là Tây Pha cư sĩ, như thế nào?
- Vì cái gì gọi là Tây Pha?
- Bởi vì có một người lấy danh hào Đông Pha, hắn ta có danh khí rất lớn. Ngẫm lại xem, chúng ta là những người đến từ phía tây, phía tây thành Gia Trang là sơn mạch Sơn Khê, trong mắt ta thì đó là cái gò đất, từ một cái gò đất ở phía tây Đại Nam đi đến, danh hào Tây Pha cư sĩ cũng hợp với tình hình.
- Ngươi có hiềm nghi đạo danh hào.
- Đạo danh hào… Danh hào của hắn là Đông Pha, danh hào của ta là Tây Pha, như thế là đạo danh hào?
- Nếu không thì là cái gì?
…
Thành Gia Trang.
Ngày thứ tư sau khi Trương Thế Nhân rời đi, một đội khoảng chừng hai trăm kỵ binh tinh nhuệ theo đường lớn tiến thẳng đến trước cửa đông thành Gia Trang. Trên áo giáp của đội kỵ binh này phủ một tầng bụi đất, nhưng vẫn có thể nhìn ra được những chiếc áo giáp này cực kỳ tinh xảo. Không phải giáp da, mà chân chân chính chính là giáp đỏ. Không chỉ là giáp đỏ, ở bên trong còn có một tầng giáp sắt tuy không quá trầm trọng nhưng cực kỳ chắc chắn. Cân nặng của toàn thân áo giáp ít nhất cũng có sáu, bảy mươi cân.
Toàn bộ những kỵ sĩ trên lưng ngựa lại là một đám người trẻ tuổi mà khôi ngô và cường tráng. Bởi vậy cũng có thể thấy những chiến mã họ đang ngồi lên đều không phải là phàm vật. Phải biết những kỵ sĩ kia đều có thân hình cao lớn, sợ rằng người nào cũng có trọng lượng không nhẹ hơn một trăm năm mươi cân. Hơn nữa họ mặc những chiếc áo giáp nặng nề như vậy, lại còn có binh khí, bọc hành lý, đồ quân dụng… Vậy nếu không phải là những con ngựa tốt thì có thể nào chạy được khi gánh chịu một thứ nặng nề như thế kia!
Giáp nặng, đao bản to, mũ sắt, áo choàng đỏ.
Lại thêm vào một cái chiến kỳ Thanh Long của Đại Nam đang tỏa ra màu vàng kim óng ánh ở dưới ánh sáng mặt trời. Tuy rằng quân số cũng không nhiều, nhưng vẫn có khí chất bao la, hùng vĩ của một loại thiên quân vạn mã.
Ở Đại Nam, có thể nhìn thấy một đội kỵ binh thuần túy cũng không phải dễ dàng, nói chi là việc nhìn thấy một đội kỵ binh hạng nặng như vậy? Đó là khó càng thêm khó.
Bởi vì Đế quốc Thiên Thuận tiến hành phong tỏa, những bộ lạc trên thảo nguyên đều không được phép bán chiến mã cho Đại Nam, dù là những cái tiểu quốc ở Tây Vực thì cũng không có một con chiến mã nào lưu lạc đến Đại Nam. Thế nên tuy rằng Đại Nam có đất rộng của nhiều, nhưng từ xưa đến nay đều thiếu ngựa, cái điều mà đã làm cho các đời Hoàng đế của Đại Nam đều muốn chửi thề.
Cho nền từ khi Đại Nam lập quốc đến nay, kỵ binh vẫn là thứ mà các tướng quân ao ước được sở hữu.
Mười sáu Vệ chiến binh Đại Nam, mỗi một Vệ luôn duy trì ở khoảng năm vạn người. Coi như là tất cả họ đều được điều đi bảo vệ thành Thanh Long, được xưng là Thiên Tử Lục Quân Tả Vũ Vệ, Hữu Vũ Vệ, Tả Võ Vệ, Hữu Võ Vệ, Tả Lĩnh Quân Vệ, Hữu Lĩnh Quân Vệ… thì trong đội ngũ ba mươi mấy vạn tinh binh này cũng không thể gom đủ hai vạn kỵ binh.
Khinh kỵ binh còn như vậy, thì không cần nói đến những kỵ binh hạng nặng khó đào tạo.
Toàn bộ Đại Nam, ngoại trừ trong Thiên Tử Lục Quân, chỉ có Hữu Kiêu Vệ là có một đội năm trăm kỵ binh hạng nặng. Mặc dù quân số chỉ có năm trăm người, nhưng Đại tướng quân Hữu Kiêu Vệ Nguyễn Viễn Sơn dùng năm năm trong vô vàn khó khăn mới tạo nên. Đại Nam không thiếu lương thực, chế tạo giáp nặng cũng không phải việc khó, khó là khó ở việc tìm kiếm được năm trăm người có thể mặc trọng giáp mà cưỡi chiến mã tung hoành chém giết.
Hữu Kiêu Vệ kinh doanh ở Tây Bắc nhiều năm như vậy, vơ vét từ đủ loại con đường mới có được năm trăm con chiến mã tốt nhất. Thậm chí họ không tiếc việc mạo hiểm bị triều đình trách tội vì gây nên vòng xoáy chiến tranh mà đánh cướp đoàn sứ giả Thổ Tư Quốc của Tây Vực đến yết kiến Hoàng đế Đại Nam vào bốn năm trước. Lúc ấy, những tinh binh Hữu Kiêu Vệ giả mạo mã tặc trói gô cả đoàn sứ giả ở một bên, lôi tất cả mấy con chiến mã đi, ngay cả một cọng lông ngựa còn chưa từng để lại.
Việc này do đích thân Nguyễn Viễn Sơn trực tiếp ra lệnh, chính hắn cũng biết được việc này không có khả năng giấu giếm được Hoàng đế Đại Nam. Trên thực tế, khi Hoàng đế Đại Nam nghe xong vương tử của Thổ Tư Quốc khóc lóc kể lể thì ngay lập tức hiểu được việc gì đã xảy ra. Tên Hoàng đế cáo già này ra sức trấn an, còn ban thưởng cho sứ đoàn Thổ Tư Quốc không ít tơ lụa và đồ sứ. Sau đó Hoàng đế bệ hạ đã tự tay viết một lá thư mắng Nguyễn Viễn Sơn, sau khi xem xong, Nguyễn Viễn Sơn không chỉ không có sợ hãi, mà ngược lại, cười ha ha.
“Ngu ngốc! Thật vất vả Trẫm mới lừa được mấy cái tiểu quốc Tây Vực phái sứ giả đến yết kiến, cái thứ nhất mới tiến vào thì đã bị ngươi cướp, những kẻ phía sau còn dám đi vào sao? Ngươi là cái đồ ngu si, chẳng lẽ có chờ cũng không chờ được đến lúc bọn chúng rời đi lại cướp?”
Năm trong tên kỵ binh hạng nặng chính là thân binh của Đại tướng quân Hữu Kiêu Vệ Nguyễn Viễn Sơn.
Khi binh lính canh giữ cửa đông thành Gia Trang nhận ra những kỵ binh hạng nặng này thì lập tức mở cửa thành để họ đi vào, thậm chí không cần nhìn lệnh bài mà tên Giáo Úy cầm đầu đưa ra. Âu cũng là do Đế quốc Thiên Thuận thiếu hụt sắt thép, bọn họ không nỡ lòng phí sắt ở trên trọng giáp. Lại nói người ở trên thảo nguyên vẫn cho rằng kỵ binh thì cần phải nhanh, tuy kỵ binh mang thêm trọng giáp có uy lực kinh người nhưng tốc độ lại không thể so sánh cùng khinh kỵ binh.
Giáo Úy dẫn đội căn bản là chẳng muốn cùng binh lính canh giữ cửa thành nói chuyện, trực tiếp dẫn quân hướng thẳng về phủ tướng quân mà đi.
Khi họ đến cửa lớn của phủ tướng quân, binh sĩ thủ vệ lập tức tiến lên ngăn cản. Người Giáo Úy nọ chẳng muốn nói một lời, nhân tiện vứt lệnh bài cho binh sĩ thủ vệ, xuống ngựa, rồi nhanh chóng đi vào phủ tướng quân.
Một Giáo Úy của kỵ binh hạng nặng lại ngang ngược và càn rỡ như vậy thì những người khác trong Hữu Kiêu Vệ đều kiệt ngạo bất tuân cũng không phải chỉ là lời đồn.
Nguyễn Văn Dũng nghe được âm thanh ở bên ngoài thì đi ra khỏi thư phòng, lạnh nhạt liếc nhìn cái tên Giáo Úy kia:
- Cho dù ngươi là một Giáo Úy dưới trướng của Đại tướng quân, nhưng chẳng lẽ ngươi có thể quên đi quân luật của Đại Nam? Thấy bản tướng quân, vì cái gì mà ngươi không hành lễ? Trước khi cái lệnh trách phạt của triều đình được phê chuẩn, Tiểu Tướng thành Gia Trang vẫn là ta.
Tên Giáo Úy kia sửng sốt một chút, lập tức hừ lạnh một tiếng, tùy tiện chào một cái:
- Dẹp ngay lò lửa trái phải. Đại tướng quân đã đích thân đến đây.
Nguyễn Văn Dũng thất kinh, nhất thời trong lòng như bị xiết chặt.
…
…
Bởi vì Đại tướng quân Nguyễn Viễn Sơn không thích mùi của tro than nên lò lửa trong thư phòng đã bị dời đi. Cái mũi của hắn có chút tật xấu, khi nghe thấy mùi vị kia thì nhất định không thoải mái. Thời gian hắn còn ở đế đô, tật xấu này còn không xuất hiện thường xuyên, nhưng khi đến vùng Tây Bắc có thời tiết lạnh giá thì xuất hiện càng ngày càng nhiều, Có thể bởi vì hắn không ngửi được than tro, binh lính dưới trướng của hắn đều cảm thấy phiền muộn.
Mặc một thân quần áo bình thường của kỵ binh, Nguyễn Viễn Sơn quan sát cách xếp đặt đồ đạc trong thư phòng, hai đầu lông mày mang theo một chút bất mãn.
Thân là Đại tướng quân Hữu Kiêu Vệ, tự ý rời đi đại doanh thì cũng phải chịu sự trách tội của triều đình. Hắn tuy ương ngạnh, nhưng cũng không phải lỗ mãng.
- Ngươi có biết vì sao ta tới?
Nhìn một bức tranh mãnh hổ hạ sơn treo trên vách tường, với giọng bình thản, hắn hỏi một câu.
- Bởi vì Ngô Bồi Thắng đã chết.
Đang quỳ trên mặt đất, Nguyễn Văn Dũng trả lời rất đơn giản, nhưng câu nói kia lại chỉ ra toàn bộ phiền phức. Cái gì tham ô, cái gì mà quân đội mở sòng bạc,… những việc này không thể so sánh với việc Ngô Bồi Thắng đã chết, nếu mà so, chúng đều là những việc không đáng nhắc đến.
- Không đúng!
Nguyễn Viễn Sơn quay đầu lại nhìn Nguyễn Văn Dũng, trong giọng nói mang theo mấy phần tức giận:
- Là bởi vì ngươi làm việc không hoàn toàn sạch sẽ! Ngô Bồi Thắng đã phải chết thì phải có cái chết triệt để mới được! Trong quân lính có nhiều người biết rõ chuyện này như vậy, vì cái gì mà ngươi không giết? Còn có cái tên Trương Thế Nhân kia, một mầm vạ như vậy vì sao chưa trừ?
Nguyễn Văn Dũng cười khổ:
- Ta đã đánh mất quân tâm.
- Quân tâm của tám trăm người chẳng đáng là gì!
Nguyễn Viễn Sơn hừ một tiếng, hỏi:
- Dân chúng trong thành cũng biết chân tướng?
- Không biết.
- Vậy còn tốt… Tàn sát hàng loạt dân chúng trong thành đúng là có chút phiền phức.
Nhưng mà thời tiết ở nơi này rất lạnh, đồ ăn để qua vài ngày cũng không tài nào hỏng mất, cho nên khi đặt nó ở trên lò lửa, thì mùi hương đậm đặc của miếng thịt được hâm nóng bay ra, xông vào mũi.
Xe ngựa của Trương Thế Nhân đi ở sau cùng của đoàn xe, ở phía trước là bảy cỗ xe ngựa của các cô nương xinh đẹp Hải Dương Quán. Trước cùng là chiếc xe hộ vệ của Hải Dương Quán, tiếp theo là chiếc xe của Lê đại nương và Lê cô nương, đánh xe chính là lão già què.
- Theo tiến độ hiện nay, để đến Thanh Long cũng cần bốn tháng ròng.
Đang nhắm mắt nghỉ ngơi thì Trương Thế Nhân bỗng nhiên nói một câu, giọng nói có chút bất đắc dĩ.
- Không lỡ cuộc thi của ngươi đâu.
Đại Khuyển nhai nuốt thịt chó, bởi vì nó bị đông lạnh, cho nên hắn đều phải thêm một chút sức:
- Cuộc thi của Kinh Võ Viện diễn ra vào cuối tháng sáu, hiện tại mới là tháng giêng, cho dù đi mất năm tháng thì cũng không lỡ được. Kinh Võ Viện của Đại Nam tổ chức thi ba năm một lần, cũng bởi vì Đại Nam quá lớn, cho nên thí sinh ở Ung quận phải lên đường từ năm trước, đi đường cũng mất sáu, bảy tháng.
- Luôn sợ chậm trễ lại còn phải hướng về Binh Bộ, Hộ Bộ, Lại Bộ, những cái… nha môn đi qua, cũng không biết có bị bọn họ làm khó dễ hay không.
Trương Thế Nhân có chút lo lắng nói ra:
- Nghe nói đám quan viên trong đế đô là một đám mắt cao hơn đầu, họ xem thường nhất chính là những người sống ở ngoài đế đô. Chẳng khác gì giang sơn Đại Nam chia làm hai phần. Một phần là đế đô, cao không thể chạm. Một phần là địa phương khác, thấp hơn người một đầu.
Đại Khuyển khuyên nhủ:
- Ngươi là thí sinh ở trong quân đội, đương nhiên Binh Bộ sẽ không là vấn đề gì khó. Kinh Võ Viện chiêu sinh thì đã có năm phần mười thí sinh xuất phát từ trong quân, năm phần mười còn lại xuất phát từ dân gian, Binh Bộ ước gì thí sinh trong quân đều thi thuận lợi một chút, nếu như bị thí sinh trong dân gian đoạt danh tiếng thì bọn họ cũng mất mặt. Lại nói, vài chục năm thành Gia Trang mới có một người như ngươi, chẳng lẽ còn không có khảo thí thì đã đem ngươi đá xuống? Mặt khác trong tay chúng ta không phải có bạc sao, nhét một tấm thiệp hồng cho họ, mỗi thiệp một trăm lượng bạc là được.
- Phi!
Trương Thế Nhân nhổ ra một ngụm nước miếng, cười nói:
- Ngươi cho rằng quan viên đế đô là những kẻ nhà quê chưa từng va chạm xã hội? Một trăm lượng bạc ròng liền muốn thu mua họ?
- Sao? Vậy còn muốn bỏ ra bao nhiêu bạc?
Trương Thế Nhân trầm tư một lúc, nói:
- Có thế nào thì cũng phải ba trăm lượng chứ?
Đại Khuyển bỗng nhiên kinh hãi, không nhịn được mắng:
- Muốn uống máu người sao!
Hai cái nhà quê không có kiến thức nhiều về chốn đế đô Đại Nam phồn hoa, bởi vì vấn đề một trăm lượng bạc hay ba trăm lượng bạc mà tranh luận, mặt đỏ tới mang tai. Mộc Tiểu Yêu đang nằm ngủ trong xe không khỏi trở mình, trong lòng tự nhủ: “Không phải là bạc sao, coi mặt mày tên nào có vấn đề thì nhét vào là được. Buổi tối lại đi trộm về thì có tốn mất cái gì chứ?”
Vậy cũng là một cái chưa từng va chạm xã hội…
- Đại Khuyển, sau này đến đế đô thì ngươi phải gọi ta là công tử.
Trương Thế Nhân mở mắt ra, nhìn lên những đám mây bay bay trên bầu trời, nói thật tình:
- Ta cũng muốn có một cái tên có chút thâm ý, Thế Nhân, Thế Nhân… Lúc trước chính mình nghĩ ra cái tên này cũng quá bình dân rồi. Còn phải suy nghĩ ra cái tên nào có được tao nhã, lịch sự. Đại Khuyển, ngươi cùng suy nghĩ giúp ta… Được rồi, theo tên của ngươi thì đã biết ngươi cũng không giúp đỡ được cái gì.
Đại Khuyển cười hì hì rồi lại cười mỉm, dứt khoát không trả lời.
Nghĩ được một lúc mà Trương Thế Nhân vẫn không nghĩ ra được cái tên nào tốt. Hắn vén rèm lên, tiến vào trong xe ngựa. Nhìn thấy Mộc Tiểu Yêu đang ngủ thì đi tới ngồi cạnh nàng, lắc cánh tay nàng:
- Tiểu Yêu tỷ, ta muốn một tên khác.
Đột nhiên Mộc Tiểu Yêu bừng tỉnh, ngồi thẳng người, con mắt nhắm về nhìn về Trương Thế Nhân:
- Ngươi muốn một tên khác? Ta biết ngay mà… Không thể đi cùng đi chung với người của Hải Dương Quán.
- Có quan hệ gì?
Trương Thế Nhân khó hiểu.
- Ngươi muốn một tên khác, thì sao không tự mình đi nhìn những xe ngựa phía trước? Ngươi chui vào đây nói với ta làm gì? Trong tay của ngươi cũng có ít nhất mấy vạn lượng bạc, cho dù nữ tử của Hải Dương Quán lại cao sang, thì bỏ ra mấy vạn lượng còn không một được một tên khác? Đừng làm phiền ta! Ta muốn đi ngủ.
Trương Thế Nhân kinh ngạc nói:
- Ta không phải là muốn tên khác sao, như thế nào mà lửa giận lại lớn như vậy?
- Ngươi muốn đi đâu thì đi! Bớt tới làm phiền ta!
- Để cho ta dùng tiền mua tên khác… Thô lỗ bao nhiêu?
Trương Thế Nhân lầm bầm một câu, quay ngươi lại rồi chui ra.
Ở sau lưng hắn, Mộc Tiểu Yêu cả giận nói:
- Tên khác không cần tiền, ngươi định lấy không sao?
Trong đầu Trương Thế Nhân chỉ có tên gọi cùng danh hào, đâu nghĩ đến việc Mộc Tiểu Yêu hiểu sai ý. Nghĩ đến lúc đến đế đô cũng không thể biểu hiện ra một bộ học trò quá nghèo, nên hắn cho rằng cái tên gọi cùng danh hào đều phải văn nhã chút ít mới tốt. Mặc dù hắn có trí nhớ của hai đời, nhưng đối với cái thế giới xa lạ này lại không hề hiểu rõ. Thậm chí hắn không biết cái tên gọi của con người ở thế giới này cùng cùng thế giới bên kia không giống nhau. Ở thế giới này, chỉ có người cha là có thể đặt tên cho đứa con, ngay cả người mẹ cũng không thể có tư cách này.
- Được rồi, tên Thế Nhân là tên đã vào quân tịch rồi, muốn thay đổi cũng không thay đổi được.
Hắn thở dài, sau đó hỏi Đại Khuyển ở bên cạnh:
- Ta lấy danh hào là Tây Pha cư sĩ, như thế nào?
- Vì cái gì gọi là Tây Pha?
- Bởi vì có một người lấy danh hào Đông Pha, hắn ta có danh khí rất lớn. Ngẫm lại xem, chúng ta là những người đến từ phía tây, phía tây thành Gia Trang là sơn mạch Sơn Khê, trong mắt ta thì đó là cái gò đất, từ một cái gò đất ở phía tây Đại Nam đi đến, danh hào Tây Pha cư sĩ cũng hợp với tình hình.
- Ngươi có hiềm nghi đạo danh hào.
- Đạo danh hào… Danh hào của hắn là Đông Pha, danh hào của ta là Tây Pha, như thế là đạo danh hào?
- Nếu không thì là cái gì?
…
Thành Gia Trang.
Ngày thứ tư sau khi Trương Thế Nhân rời đi, một đội khoảng chừng hai trăm kỵ binh tinh nhuệ theo đường lớn tiến thẳng đến trước cửa đông thành Gia Trang. Trên áo giáp của đội kỵ binh này phủ một tầng bụi đất, nhưng vẫn có thể nhìn ra được những chiếc áo giáp này cực kỳ tinh xảo. Không phải giáp da, mà chân chân chính chính là giáp đỏ. Không chỉ là giáp đỏ, ở bên trong còn có một tầng giáp sắt tuy không quá trầm trọng nhưng cực kỳ chắc chắn. Cân nặng của toàn thân áo giáp ít nhất cũng có sáu, bảy mươi cân.
Toàn bộ những kỵ sĩ trên lưng ngựa lại là một đám người trẻ tuổi mà khôi ngô và cường tráng. Bởi vậy cũng có thể thấy những chiến mã họ đang ngồi lên đều không phải là phàm vật. Phải biết những kỵ sĩ kia đều có thân hình cao lớn, sợ rằng người nào cũng có trọng lượng không nhẹ hơn một trăm năm mươi cân. Hơn nữa họ mặc những chiếc áo giáp nặng nề như vậy, lại còn có binh khí, bọc hành lý, đồ quân dụng… Vậy nếu không phải là những con ngựa tốt thì có thể nào chạy được khi gánh chịu một thứ nặng nề như thế kia!
Giáp nặng, đao bản to, mũ sắt, áo choàng đỏ.
Lại thêm vào một cái chiến kỳ Thanh Long của Đại Nam đang tỏa ra màu vàng kim óng ánh ở dưới ánh sáng mặt trời. Tuy rằng quân số cũng không nhiều, nhưng vẫn có khí chất bao la, hùng vĩ của một loại thiên quân vạn mã.
Ở Đại Nam, có thể nhìn thấy một đội kỵ binh thuần túy cũng không phải dễ dàng, nói chi là việc nhìn thấy một đội kỵ binh hạng nặng như vậy? Đó là khó càng thêm khó.
Bởi vì Đế quốc Thiên Thuận tiến hành phong tỏa, những bộ lạc trên thảo nguyên đều không được phép bán chiến mã cho Đại Nam, dù là những cái tiểu quốc ở Tây Vực thì cũng không có một con chiến mã nào lưu lạc đến Đại Nam. Thế nên tuy rằng Đại Nam có đất rộng của nhiều, nhưng từ xưa đến nay đều thiếu ngựa, cái điều mà đã làm cho các đời Hoàng đế của Đại Nam đều muốn chửi thề.
Cho nền từ khi Đại Nam lập quốc đến nay, kỵ binh vẫn là thứ mà các tướng quân ao ước được sở hữu.
Mười sáu Vệ chiến binh Đại Nam, mỗi một Vệ luôn duy trì ở khoảng năm vạn người. Coi như là tất cả họ đều được điều đi bảo vệ thành Thanh Long, được xưng là Thiên Tử Lục Quân Tả Vũ Vệ, Hữu Vũ Vệ, Tả Võ Vệ, Hữu Võ Vệ, Tả Lĩnh Quân Vệ, Hữu Lĩnh Quân Vệ… thì trong đội ngũ ba mươi mấy vạn tinh binh này cũng không thể gom đủ hai vạn kỵ binh.
Khinh kỵ binh còn như vậy, thì không cần nói đến những kỵ binh hạng nặng khó đào tạo.
Toàn bộ Đại Nam, ngoại trừ trong Thiên Tử Lục Quân, chỉ có Hữu Kiêu Vệ là có một đội năm trăm kỵ binh hạng nặng. Mặc dù quân số chỉ có năm trăm người, nhưng Đại tướng quân Hữu Kiêu Vệ Nguyễn Viễn Sơn dùng năm năm trong vô vàn khó khăn mới tạo nên. Đại Nam không thiếu lương thực, chế tạo giáp nặng cũng không phải việc khó, khó là khó ở việc tìm kiếm được năm trăm người có thể mặc trọng giáp mà cưỡi chiến mã tung hoành chém giết.
Hữu Kiêu Vệ kinh doanh ở Tây Bắc nhiều năm như vậy, vơ vét từ đủ loại con đường mới có được năm trăm con chiến mã tốt nhất. Thậm chí họ không tiếc việc mạo hiểm bị triều đình trách tội vì gây nên vòng xoáy chiến tranh mà đánh cướp đoàn sứ giả Thổ Tư Quốc của Tây Vực đến yết kiến Hoàng đế Đại Nam vào bốn năm trước. Lúc ấy, những tinh binh Hữu Kiêu Vệ giả mạo mã tặc trói gô cả đoàn sứ giả ở một bên, lôi tất cả mấy con chiến mã đi, ngay cả một cọng lông ngựa còn chưa từng để lại.
Việc này do đích thân Nguyễn Viễn Sơn trực tiếp ra lệnh, chính hắn cũng biết được việc này không có khả năng giấu giếm được Hoàng đế Đại Nam. Trên thực tế, khi Hoàng đế Đại Nam nghe xong vương tử của Thổ Tư Quốc khóc lóc kể lể thì ngay lập tức hiểu được việc gì đã xảy ra. Tên Hoàng đế cáo già này ra sức trấn an, còn ban thưởng cho sứ đoàn Thổ Tư Quốc không ít tơ lụa và đồ sứ. Sau đó Hoàng đế bệ hạ đã tự tay viết một lá thư mắng Nguyễn Viễn Sơn, sau khi xem xong, Nguyễn Viễn Sơn không chỉ không có sợ hãi, mà ngược lại, cười ha ha.
“Ngu ngốc! Thật vất vả Trẫm mới lừa được mấy cái tiểu quốc Tây Vực phái sứ giả đến yết kiến, cái thứ nhất mới tiến vào thì đã bị ngươi cướp, những kẻ phía sau còn dám đi vào sao? Ngươi là cái đồ ngu si, chẳng lẽ có chờ cũng không chờ được đến lúc bọn chúng rời đi lại cướp?”
Năm trong tên kỵ binh hạng nặng chính là thân binh của Đại tướng quân Hữu Kiêu Vệ Nguyễn Viễn Sơn.
Khi binh lính canh giữ cửa đông thành Gia Trang nhận ra những kỵ binh hạng nặng này thì lập tức mở cửa thành để họ đi vào, thậm chí không cần nhìn lệnh bài mà tên Giáo Úy cầm đầu đưa ra. Âu cũng là do Đế quốc Thiên Thuận thiếu hụt sắt thép, bọn họ không nỡ lòng phí sắt ở trên trọng giáp. Lại nói người ở trên thảo nguyên vẫn cho rằng kỵ binh thì cần phải nhanh, tuy kỵ binh mang thêm trọng giáp có uy lực kinh người nhưng tốc độ lại không thể so sánh cùng khinh kỵ binh.
Giáo Úy dẫn đội căn bản là chẳng muốn cùng binh lính canh giữ cửa thành nói chuyện, trực tiếp dẫn quân hướng thẳng về phủ tướng quân mà đi.
Khi họ đến cửa lớn của phủ tướng quân, binh sĩ thủ vệ lập tức tiến lên ngăn cản. Người Giáo Úy nọ chẳng muốn nói một lời, nhân tiện vứt lệnh bài cho binh sĩ thủ vệ, xuống ngựa, rồi nhanh chóng đi vào phủ tướng quân.
Một Giáo Úy của kỵ binh hạng nặng lại ngang ngược và càn rỡ như vậy thì những người khác trong Hữu Kiêu Vệ đều kiệt ngạo bất tuân cũng không phải chỉ là lời đồn.
Nguyễn Văn Dũng nghe được âm thanh ở bên ngoài thì đi ra khỏi thư phòng, lạnh nhạt liếc nhìn cái tên Giáo Úy kia:
- Cho dù ngươi là một Giáo Úy dưới trướng của Đại tướng quân, nhưng chẳng lẽ ngươi có thể quên đi quân luật của Đại Nam? Thấy bản tướng quân, vì cái gì mà ngươi không hành lễ? Trước khi cái lệnh trách phạt của triều đình được phê chuẩn, Tiểu Tướng thành Gia Trang vẫn là ta.
Tên Giáo Úy kia sửng sốt một chút, lập tức hừ lạnh một tiếng, tùy tiện chào một cái:
- Dẹp ngay lò lửa trái phải. Đại tướng quân đã đích thân đến đây.
Nguyễn Văn Dũng thất kinh, nhất thời trong lòng như bị xiết chặt.
…
…
Bởi vì Đại tướng quân Nguyễn Viễn Sơn không thích mùi của tro than nên lò lửa trong thư phòng đã bị dời đi. Cái mũi của hắn có chút tật xấu, khi nghe thấy mùi vị kia thì nhất định không thoải mái. Thời gian hắn còn ở đế đô, tật xấu này còn không xuất hiện thường xuyên, nhưng khi đến vùng Tây Bắc có thời tiết lạnh giá thì xuất hiện càng ngày càng nhiều, Có thể bởi vì hắn không ngửi được than tro, binh lính dưới trướng của hắn đều cảm thấy phiền muộn.
Mặc một thân quần áo bình thường của kỵ binh, Nguyễn Viễn Sơn quan sát cách xếp đặt đồ đạc trong thư phòng, hai đầu lông mày mang theo một chút bất mãn.
Thân là Đại tướng quân Hữu Kiêu Vệ, tự ý rời đi đại doanh thì cũng phải chịu sự trách tội của triều đình. Hắn tuy ương ngạnh, nhưng cũng không phải lỗ mãng.
- Ngươi có biết vì sao ta tới?
Nhìn một bức tranh mãnh hổ hạ sơn treo trên vách tường, với giọng bình thản, hắn hỏi một câu.
- Bởi vì Ngô Bồi Thắng đã chết.
Đang quỳ trên mặt đất, Nguyễn Văn Dũng trả lời rất đơn giản, nhưng câu nói kia lại chỉ ra toàn bộ phiền phức. Cái gì tham ô, cái gì mà quân đội mở sòng bạc,… những việc này không thể so sánh với việc Ngô Bồi Thắng đã chết, nếu mà so, chúng đều là những việc không đáng nhắc đến.
- Không đúng!
Nguyễn Viễn Sơn quay đầu lại nhìn Nguyễn Văn Dũng, trong giọng nói mang theo mấy phần tức giận:
- Là bởi vì ngươi làm việc không hoàn toàn sạch sẽ! Ngô Bồi Thắng đã phải chết thì phải có cái chết triệt để mới được! Trong quân lính có nhiều người biết rõ chuyện này như vậy, vì cái gì mà ngươi không giết? Còn có cái tên Trương Thế Nhân kia, một mầm vạ như vậy vì sao chưa trừ?
Nguyễn Văn Dũng cười khổ:
- Ta đã đánh mất quân tâm.
- Quân tâm của tám trăm người chẳng đáng là gì!
Nguyễn Viễn Sơn hừ một tiếng, hỏi:
- Dân chúng trong thành cũng biết chân tướng?
- Không biết.
- Vậy còn tốt… Tàn sát hàng loạt dân chúng trong thành đúng là có chút phiền phức.
/241
|