Hà Hiệp đứng trên đỉnh núi cao, chắp tay sau lưng nhìn về phía tây.
Sính Đình đang ở trong biệt viện yên tĩnh đến chết chóc dưới kia, giữa gió tuyết mịt mù.
Nàng là thị nữ, là tri âm của Hà Hiệp mười lăm năm, cùng Hà Hiệp chơi đùa, đọc sách, nhìn hắn luyện kiếm và vỗ tay khen ngợi.
Mười lăm năm, ai dễ dàng vứt bỏ? Từ một cô nhi bé bỏng yếu ớt, Sính Đình trở thành tiểu thư khuê các, thanh tú mềm mại, một trong lưỡng cầm đất Quy Lạc, Bạch Sính Đình của vương phủ Kính An tựa như nụ hoa đang chờ ngày hé nở u cốc.
Bao kẻ ngoái nhìn, bao người tán thưởng.
Hà Hiệp cứ lặng lẽ giữ nàng, yêu thương nàng, cùng nàng du ngoạn bốn phương, thậm chí ra sa trường vật lộn với chiến tranh hiểm ác, bão tuyết cát vùi.
Nàng vốn là của hắn, cả về tình về lý đều là của hắn.
Nhưng hắn chưa từng tìm cách cố giữ nàng.
Sính Đình của hắn là con chim phượng hoàng với đôi cánh đủ sắc màu đang chờ nam nhân đầu đội trời chân đạp đất đến nắm lấy bàn tay nàng. Và rồi, phu xướng phụ tùy, tiêu dao nơi chân trời góc bể theo tâm nguyện của nàng.
Hơn ai hết, Hà Hiệp hiểu rõ trái tim Bạch Sính Đình treo trên vách cao muôn trượng.
Nhưng, kẻ dễ dàng lấy được trái tim nàng lại là Sở Bắc Tiệp.
Có thể bất cứ ai, nhưng không thể là Sở Bắc Tiệp, kẻ thù định mệnh của đời hắn.
Hà Hiệp phải tưởng tượng thế nào khi Sính Đình của mình lại dựa vào lòng Sở Bắc Tiệp, cùng kẻ địch muôn kiếp ngắm sao thưởng nguyệt, nói chuyện trên trời dưới đất, đàn hát cho Sở Bắc Tiệp nghe?
Hà Hiệp phải tiếp nhận thế nào khi hắn đã vì sự dịu dàng cất giấu tận đáy lòng mà chịu đựng biệt ly, từ bỏ Sính Đình, để rồi dâng nàng cho Sở Bắc Tiệp?
Hoa tuyết bay đầy trong gió.
Trời đã sắp tối, hôm nay là mồng Sáu.
“Thiếu gia?” Đông Chước bước lên chỗ cao, đứng sau Hà Hiệp một trượng, thõng tay, dừng bước.
“Đông Chước, giọng của ngươi vừa bi vừa trầm”, Hà Hiệp trầm giọng, “Ngươi nghĩ Sở Bắc Tiệp có thể về sao?”.
“Không.”
“Ngươi đang sầu não vì Sở Bắc Tiệp không kịp trở về?”
Đông Chước lắc đầu, muốn nói gì lại thôi, một lúc sau bỗng ngẩng lên bảo: “Thiếu gia hãy hạ lệnh tấn công. Biệt viện quá ít người bảo vệ, với bản lĩnh của thiếu gia, muốn bắt sống Sính Đình, bắt Sính Đình theo chúng ta, là một việc vô cùng dễ dàng. Đến khi trở về, chúng ta sẽ từ từ khuyên giải Sính Đình hồi tâm chuyển ý”.
Hà Hiệp không đáp, bóng hình trong nắng chiều lạnh lùng cứng rắn.
“Thiếu gia, hai người cùng lớn lên từ nhỏ, chẳng lẽ thiếu gia không hề xót thương Sính Đình?”
Đông Chước nhìn chăm chăm vào Hà Hiệp, trong lòng trào dâng nỗi đau không thể đè nén. Hắn bỗng quỳ sụp xuống, ngẩng đầu, nước mắt chợt rơi, khẩn cầu: “Thiếu gia biết rõ Sở Bắc Tiệp không kịp trở về, hà tất còn cố bóp nát trái tim Sính Đình?”.
Đôi mắt đen của Hà Hiệp bỗng trở nên âm trầm, giấu nỗi đau đang giày vò, chỉ còn vẻ vô tình và quyết liệt.
“Ta không chỉ muốn bóp nát trái tim Sính Đình…” Đáy mắt in hằn hai đốm lửa nơi biệt viện xa xa trong bóng tối, Hà Hiệp nghiến răng, “Ta còn muốn Sính Đình nản lòng với Sở Bắc Tiệp”.
Màn đêm buông xuống, biệt viện càng tĩnh lặng.
Bãi nghĩa địa nơi ngoại thành cũng không tĩnh lặng đến thế. Hoa tuyết bay trong không trung, chẳng một tiếng động. Cảm giác trước mắt chỉ là hư ảo, Sính Đình đưa tay khẽ chạm, mộng cảnh lập tức vỡ tan, hiện thực trống rỗng vô cùng.
Nàng nhìn chăm chăm về hướng đông.
Thời gian vô tình rơi qua các kẽ tay.
Nàng cứ nhìn chằm chằm như thế hồi lâu không chớp mắt, dường như từ khi sinh ra, chưa bao giờ có chuyện gì trọng đại như vậy đến với nàng.
Phương đông là đường về của Sở Bắc Tiệp. Nàng không nhìn thấy con đường thẳng tắp tiến về đông, nơi ấy đã bị ngăn cách bởi núi rừng, bởi binh mã của Hà Hiệp. Nhưng Sính Đình biết, những thứ đó không ngăn nổi bước chân chàng.
Hôm nay là mồng Sáu.
Trăng đã lên rồi. Sở Bắc Tiệp, chàng đang ở chốn nào?
Lặng lẽ vén rèm cửa, Túy Cúc cũng đã đợi bên ngoài từ rất lâu, lâu đến nỗi đêm mồng Sáu như đang ngưng tụ trong lồng ngực.
Túy Cúc lại gần Sính Đình, liếc trộm khuôn mặt nghiêng nghiêng của nàng, khuôn mặt đoan trang thanh tú dưới ánh trăng. Cảm giác run rẩy, Túy Cúc gần như không thể đứng vững.
“Bạch cô nương…”
Sính Đình quay lại, dịu dàng cười với Túy Cúc. Lúc này đây, nụ cười ung dung ấy còn khiến người ta đau hơn cả tiếng khóc thê lương.
Nhưng việc đã đến lúc không thể không nói.
Nhìn Sính Đình, Túy Cúc không cho phép ánh mắt mình có một tia do dự, cảm giác gió Bắc căm căm thổi tung lồng ngực, lạnh đến mức có thể bình tĩnh mà rành rọt buông lời cần nói: “Sau khi hai vương tử qua đời, Đại vương đã không còn vương tử. Nếu có vị nương nương nào sinh cho Đại vương một vương tử thì tốt. Còn không, sau này Vương gia sẽ trở thành chủ nhân của Đông Lâm”.
Ngắn gọn mấy câu mà lồng ngực Túy Cúc phập phồng, cảm giác như sợ ý chí của mình không đủ kiên định. Túy Cúc không dám rời mắt đi nơi khác, cứ nhìn chằm chằm vào Sính Đình.
“Nói tiếp đi”, Sính Đình lãnh đạm.
“Nếu hài nhi trong bụng cô nương là trai, đó sẽ là trưởng tử của Vương gia.”
“Túy Cúc…”, ánh mắt Sính Đình chăm chú nhìn người đối diện, “Ngươi muốn nói gì?”.
Túy Cúc ngừng lại, cúi đầu suy nghĩ giây lát, rồi cắn chặt môi dưới, vị tanh nồng lan khắp miệng, giọng trầm xuống: “Trong lòng cô nương cũng hiểu rõ, thân phận của hài nhi quan trọng với Đông Lâm đến mức nào. Hà Hiệp là kẻ thủ đoạn, nên cô nương không thể mang theo cốt nhục của Vương gia mà rơi vào tay Hà Hiệp”. Lời nói chém đinh chặt sắt, không chút nể tình. Túy Cúc quay đi, bưng bát thuốc vẫn còn ấm trên bàn đến trước mặt Sính Đình.
Ánh mắt chạm phải bát thuốc đen ngòm, Sính Đình bất giác giật lùi về sau.
“Cô nương, thai nhi còn nhỏ, Vương gia cũng chưa biết. Cô nương và Vương gia đều còn trẻ.” Vừa nói, Túy Cúc vừa bê bát thuốc tiến gần Sính Đình thêm một bước,
Sính Đình bỗng thấy trước mắt tối sầm, khẽ ôm bụng, liên tiếp lùi về sau, cho đến khi sống lưng áp sát vào bức tường lạnh cóng. Nàng bình tĩnh lại, đứng cho vững, nhìn bát thuốc, trầm giọng: “Chưa hết mồng Sáu, Vương gia nhất định sẽ về”.
“Nếu Vương gia không kịp về thì sao?”
Sính Đình cắn răng, gằn từng tiếng: “Nhất định Vương gia sẽ về”.
Bầu không khí nặng nề đến ngạt thở bao trùm cả căn phòng.
Sính Đình nhìn chằm chằm Túy Cúc.
Móng tay nàng cắm chặt vào lòng bàn tay, nhưng vẫn không có cảm giác đau.
Ánh mắt Sính Đình chẳng còn bồng bềnh sóng nước dịu dàng, mà như hồ nước chết, đóng thành băng đen, lấp lánh tia sáng kiên cường mà quyết đoán.
“Nếu chàng không về thật…”, Sính Đình ngẩng cao đầu kiêu hãnh, “Trăng chếch sang bên, ta sẽ uống”.
Túy Cúc nhìn Sính Đình, hít sâu một hơi.
Túy Cúc đặt bát thuốc xuống bàn, rồi quỳ xụp xuống, dập đầu ba cái trước Sính Đình, không nói một lời, đứng dậy vén rèm bước ra cửa, lảo đảo chạy vào phòng bên, gục đầu xuống gối, khóc thảm thiết.
Sở Bắc Tiệp vẫn đang phóng như bay trong đêm đen. Những ngọn núi trong đêm bỗng biến thành thảm cảnh nơi biệt viện.
Chàng không dám tưởng tượng khi mình về đến nơi, thảm cảnh sẽ thế nào?
Mai có còn nở?
Tiếng đàn có còn du dương trong gió?
Khói bếp có còn cuộn bay?
Sau lưng chàng, trừ một ngàn quân tinh nhuệ vì quá mệt mỏi đã quay về thành đô, còn lại hai ngàn quân tinh nhuệ và một ngàn bảy trăm quân của Thần Mâu, tổng cộng ba ngàn bảy trăm binh sĩ.
Tiếng vó ngựa rền vang như sấm, kỵ binh cuồn cuộn đạp núi băng sông.
Dây cương đã mài nát những vết chai sần trong lòng bàn tay Sở Bắc Tiệp, nhuộm màu máu đỏ.
Vốn cưỡi ngựa từ thuở còn thơ, lúc này chàng thi triển hết mọi khả năng, thúc ngựa phi như bay. Nhưng, vẫn có người còn nhanh hơn chàng, người đó thúc ngựa chen vào đoàn quân, sóng vai bên chàng, át đi tiếng gầm của gió mà thét hỏi: “Có phải Trấn Bắc vương Sở Bắc Tiệp?”.
Sở Bắc Tiệp không đáp, cứ cắn răng phi như bay về phía trước.
Chàng biết, con ngựa mới đổi này cũng quá mệt rồi. Ngựa vẫn chạy, nhưng tốc độ đã chậm hơn nhiều.
Dù vung roi đến mức nào đi nữa, ngựa vẫn chạy chậm lại, chàng cảm thấy như có lửa đốt trong lòng.
“Sở vương gia, xin dừng bước, ta từ Mạc Bắc tới, Thượng tướng quân Tắc Doãn có gửi cho Vương gia một bức thư…”
“Cút đi!”, Sở Bắc Tiệp gầm lên.
Chàng đang nóng lòng đuổi theo thời gian, sao có thể lãng phí dù chỉ là thời gian rút kiếm.
Người đó đang cưỡi một con ngựa tốt, hình như đã tìm Sở Bắc Tiệp nhiều ngày nay, nên không chịu rời đi, mà vẫn hiên ngang đón gió, cứ há miệng định nói lại bị gió ngăn cản, chỉ còn cách vừa thúc ngựa, vừa hét lớn: “Thượng tướng quân Tắc Doãn có thư khẩn gửi Vương gia. Vì không biết có thể trao đến tay Vương gia trước khi Vương gia rời khỏi thành đô hay không, nên đã viết hai bức. Một bức sai người bí mật đưa đến vương cung Đông Lâm, bức khác giao cho ta, lệnh cho ta chờ Vương gia trên đường thẳng tới biên cương”.
“Cút!”, Sở Bắc Tiệp giận dữ nhìn người lạ mặt, ánh mắt dừng trên con ngựa tốt.
“Vương gia!” Người này đã đến tận đất Đông Lâm tìm Sở Bắc Tiệp thì sợ gì cái chết, nên chẳng chịu từ bỏ mục đích, cố hét lên, “Chỉ mong Vương gia đọc thư của Thượng tướng quân Tắc Doãn, việc có liên quan đến Bạch Sính Đình cô nương…”.
Lời chưa nói hết, hắn bỗng thấy người bên cạnh chuyển động, Sở Bắc Tiệp đổi sang ngựa của mình. Chàng nắm lấy cổ áo người kia, trầm giọng: “Ta mượn ngựa của ngươi”.
Người này vốn là tướng tài đắc lực nhất dưới trướng Tắc Doãn, thân thủ không tệ, tuy bị Sở Bắc Tiệp túm lấy cổ áo, nhưng vẫn kịp nhảy vọt lên không trung, tránh bị đẩy xuống ngựa. Một tay thò vào trong người lấy ra bức thư Tắc Doãn đích thân viết, hắn nói nhanh: “Người hiến kế đầu độc hai vương tử chính là Hà Hiệp, không phải Bạch Sính Đình. Bức thư này do chính Thượng tướng quân nhà ta viết, những mong rửa sạch nỗi oan cho Bạch cô nương”.
Sắc mặt vẫn không thay đổi, Sở Bắc Tiệp nhận lấy bức thư, cũng chẳng thèm nhìn, ném luôn ra phía sau.
“A!” Người đưa thư kinh ngạc kêu lên một tiếng. Tận mắt thấy bức thư qúy giá mình phải tốn bao công sức đưa tới đã mất hút trong màn đêm dưới bước chân cuồn cuộn của đám kỵ binh, hắn trừng mắt, “Ngươi!”.
“Trong sạch hay không đã chẳng còn quan trọng nữa.” Ánh mắt kiên quyết, Sở Bắc Tiệp trầm giọng, “Dù phạm cả mười trọng tội, nàng vẫn là Bạch Sính Đình của ta”.
Một đòn giơ ra, ép người kia nhảy xuống ngựa, xoay người tránh sang bên đường.
Có được ngựa mới, Sở Bắc Tiệp dốc hết sức lực, tốc độ càng nhanh hơn, bỏ lại đội quân ở phía sau.
Nỗi nhớ nhung đến cồn cào, sự lo lắng khắc cốt ghi tâm, và cả cảm giác như bị thiêu đốt trong địa ngục, sẽ chỉ mất đi khi chàng được ôm dáng hình gầy gò mảnh mai trong vòng tay.
Sính Đình, Sính Đình, Sở Bắc Tiệp biết sai rồi.
Bạch Sính Đình thông minh, Bạch Sính Đình ngốc nghếch, Bạch Sính Đình lương thiện, Bạch Sính Đình độc ác, đều là Bạch Sính Đình mà Sở Bắc Tiệp yêu tha thiết.
Cả đời này không bao giờ thay đổi.
Trăng đã lên.
Trong ký ức của Sính Đình, ánh trăng chưa bao giờ khiến trái tim nàng tan nát đến mức này.
Ánh trăng hiền hòa chiếu rọi nhân gian, soi tỏ mọi nỗi ai oán khổ đau trong cuộc đời, lạnh lùng khiến người ta tê tái.
“Chúng ta thề với ánh trăng, không bao giờ phụ bạc.”
Cũng dưới ánh trăng này, nàng đau khổ đáng thương, chàng dịu dàng như nước.
“Đúng thế, từ nay trở đi, nàng là vương phi của ta, ta là phu quân của nàng.”
“Không được đâu…”
“Tại sao?”
“Thiếp là cầm kỹ.”
“Ta thích tiếng đàn của nàng.”
“Thiếp không xứng với Vương gia.”
“Ta xứng với nàng.”
“Thiếp… thiếp không đủ đẹp.”
“Cho một mình ta ngắm, thế là đủ.”
Lời nói như vẫn vang bên tai.
Trăng ơi, trăng còn ghi nhớ? Trên đỉnh ngọn Điển Thanh, Bạch Sính Đình giơ tay ra, từng tấc, từng tấc, rụt rè xuyên qua quốc hận cao như núi, vượt mọi khói lửa chiến tranh, vứt bỏ mười lăm năm công ơn dưỡng dục chưa biết ai đã phụ ai.
Nàng chỉ biết mình đã vượt qua khói lửa của trận chiến, vượt qua mười lăm mùa xuân, hạ, thu, đông ở vương phủ Kính An. Nàng chỉ biết mình đã giơ tay ra, xuyên thủng quốc hận cao như núi.
Kẻ si tình gặp chuyện quốc gia, chẳng lẽ không có chốn an thân?
Sính Đình ngẩng đầu, nhìn trăng treo nơi chân trời.
Trăng lạnh lùng lên cao, lặng lẽ leo qua cành cây, lên đến tận ngọn.
Phương Đông, vẫn bặt vô âm tín.
Bầu trời nặng nề, bốn phía im lặng chết chóc, cũng giống như từng người đang nín thở chờ đợi.
Sau lưng nàng, bát thuốc đen ngòm nguội ngắt.
Trăng sáng vô tình, thời gian vô tình. Nàng ngẩng đầu, nhìn mặt nguyệt vẫn đang trôi dần lên ngọn cây.
Môi nàng hằn những vết răng, bàn tay cũng rõ bao vết sẹo.
Mắt nàng cay cay, nóng rát, nhưng lệ vẫn chẳng rơi dù chỉ một giọt. Nàng sợ rằng khi tiếng khóc vang lên, ác mộng sẽ thành sự thật.
Sính Đình đứng bên cửa sổ, lưng thẳng tắp, sống lưng chẳng khác nào một thanh bảo kiếm. Nàng chỉ có thể đứng thật kiên cường, bởi chỉ cần khẽ cử động, nàng sẽ không thể trụ vững, mà vỡ thành ngọc nát, rồi bị gió cuốn đi, chẳng lưu lại dù là một vết tích.
“Từ hôm nay, nàng không được để mình đói, không được để mình lạnh, không được làm tổn thương bản thân.”
Nàng không sao quên được từng lời nói cũng như ánh mắt thâm trầm, lồng ngực ấm áp của Sở Bắc Tiệp.
Nếu đã thực sự yêu, sao còn lo quốc hận thù dày?
Nếu đã yêu chân thành tha thiết, yêu không từ bỏ, mặc con tạo xoay vần, vẫn chẳng thay đổi ý nguyện thuở ban đầu.
Có gì quan trọng hơn là trở về bên người yêu mình ngày đêm mong ngóng?
Thời gian cứ thế trôi đi.
Trăng sáng, xin đừng phụ ta!
Mười ngón tay ngọc của nàng túm chặt vạt áo trước ngực.
Trăng sáng không có tai, nhưng có lẽ nghe được tiếng lòng của Sính Đình, vậy mà vẫn tàn nhẫn bỏ mặc nàng.
Phương đông vẫn bặt vô âm tín.
Màu tuyệt vọng phủ đầy đôi mắt trong của nàng.
Trăng đã chếch sang bên.
Sính Đình ngẩn ngơ nhìn ánh trăng đã lên đến ngọn cây, ánh trăng vô tình, u ám, lạnh lùng.
Khoảnh khắc này, nàng đã quên ngày mồng Sáu, quên hết đội quân hùng mạnh đang bao vây ngoài kia, quên cả Túy Cúc, Hà Hiệp, quên lời thề của mình.
Nàng đã quên tất cả.
Cảm giác trống rỗng, tay chân cũng như tê dại.
Chỉ có tiếng trái tim vỡ thành trăm mảnh, chậm rãi mà đau nhói, từng mảnh, từng mảnh một.
Giống như hoa sen bằng thủy tinh đang gãy dần từng cánh.
Vỡ rồi.
Vương vãi khắp mặt đất.
“Cô nương…”
Sính Đình từ từ quay lại, nhìn về phía Túy Cúc mặt mũi bi thương đang đứng phía sau, rồi chuyển ánh mắt sang bát thuốc đen ngòm trên bàn.
Túy Cúc nước mắt ròng ròng nhìn Sính Đình bước về phía mình, hai tay bưng bát thuốc lên.
Bát thuốc nặng tựa ngàn cân, bàn tay Sính Đình run rẩy, khiến thuốc sánh ra ngoài, tiếng giọt thuốc rơi trên bàn làm căn phòng trầm mặc càng thêm ngạt thở.
Sính Đình mở to đôi mắt, như muốn nhìn thật rõ bát thuốc đen ngòm trước mặt, để rồi khắc ghi trong tim từng gợn sóng lăn tăn trên đó.
Đã hết dịu dàng.
Đã hết phong lưu.
Trong mắt nàng chỉ còn nỗi đau cùng sự tuyệt vọng đang giày vò, như thể phải mở to mắt nhìn người ta từ từ móc hết lục phủ ngũ tạng của mình ra ngoài.
Túy Cúc biết, mình sẽ không thể quên ánh mắt lúc này của Sính Đình.
Sính Đình bưng bát thuốc đưa lên miệng, dừng lại một chút, như thể đã hết sức lực. Môi chạm vào bát thuốc lạnh, cảm giác thê lương như mất sinh khí, nàng khẽ rùng mình, hai tay buông thõng.
Choang!
Bát thuốc vỡ tan, nước thuốc đen lênh láng dưới sàn.
Nước mắt vốn đã nuốt vào trong giờ tuôn trào như chuỗi trân châu bị đứt, lăn dài trên gò má.
Sính Đình khuỵu chân, ngồi phịch xuống đất, run rẩy trong đau khổ, hai tay ôm vai. Tiếng khóc xé gan xé ruột, vô cùng thê thảm bật ra từ đôi môi nhợt nhạt của nàng.
“Bạch cô nương…”
Túy Cúc thương xót vuốt tóc nàng. Sính Đình giật mình, ngẩng đầu lên, khuôn mặt đẫm nước mắt, cầu khẩn: “Túy Cúc, đừng ép ta. Ta xin người, đừng ép ta!”.
Cảm giác như bị rắn cắn, Túy Cúc rụt vội tay về.
Đây có phải là Bạch Sính Đình phong lưu khoáng đạt?
Có phải Bạch Sính Đình sau mấy ngày không ăn không uống, vẫn nằm nghiêng trên giường đọc sách, thoải mái hỏi: “Ngươi có ngửi thấy hương thơm của tuyết ngoài kia không?”
Có phải Bạch Sính Đình gảy đàn trong tuyết, cất tiếng ca trong gió, hào hứng hái nụ mai?
Không phải.
Nữ nhi phong lưu như tiên giáng trần đã không còn nữa.
Nàng đã bị hủy hoại trong tay Hà Hiệp, trong tay Đông Lâm vương, trong tay Sở Bắc Tiệp, và trong chính tay Túy Cúc.
Giang sơn tanh mùi máu, không có chỗ cho một Bạch Sính Đình kiêu ngạo, cố chấp.
Sính Đình ở ngay trước mắt mà như cách xa vạn dặm, chỉ cần Túy Cúc khẽ giơ tay chạm vào, nàng sẽ hóa thành sương khói, tan biến vào hư vô.
Bát thuốc do chính tay Túy Cúc sắc đang đổ loang trên mặt đất sao giống vết máu đen thế.
Túy Cúc nhìn Sính Đình khóc nấc mà đứt từng khúc ruột. Nàng không biết mình lại có thể tàn nhẫn đến nhường này.
Bóng Mạc Nhiên bỗng xuất hiện ngoài cửa phòng, “Xe ngựa Hà Hiệp sai người đưa tới đang chờ ngoài đại môn biệt viện”.
Tảng đá lớn đè lên trái tim mệt mỏi đầy thương tích của nàng.
Sính Đình bám vào tướng, từ từ đứng dậy gạt nước mắt, khuôn mặt dưới trăng trắng bệch hơn xác người, trầm giọng: “Biết rồi”.
Đã lập lời thề thì phải thực hiện.
Khuôn mặt kiên nghị, Mạc Nhiên lấy từ sau lưng ra một sợi dây thừng, ném về phía Túy Cúc cũng đang giàn giụa nước mắt, nói: “Trói Bạch cô nương lại”.
Mệnh lệnh khác thường phát ra với giọng vô cùng kiên quyết.
“Mạc Nhiên?”
“Bạch cô nương, không phải cô nương không giữ lời hứa, mà chỉ là vạn bất đắc dĩ…”, Mạc Nhiên giữ chặt thanh kiếm bên hông, “Nhưng, Mạc Nhiên đã hứa với Vương gia, còn ta thì còn cô nương!”.
Sở Bắc Tiệp bỏ lại đoàn quân phía sau nửa dặm.
Trăng vẫn trôi, như có lưỡi đao khắc một đường hằn lên tim chàng. Trăng càng lên cao, lòng chàng càng trĩu nặng. Lưỡi đao ấn mạnh vào tim, máu tươi nhỏ xuống ròng ròng.
Trăng đã chếch sang bên.
Chàng ngẩng đầu, nhìn về phía núi xa xa, trong tầm mắt chỉ có sắc tuyết, lạnh như tay chân gan ruột chàng.
Sính Đình, đợi ta!
Ta nguyện hai tay dâng lên nàng tất cả phúc phận phú quý đời này của mình.
Hãy đợi ta thêm lúc nữa.
Thêm một lúc.
Từ nay, ta sẽ không rời xa nàng nửa bước.
Từ nay, những chuyện quốc gia đại sự cũng không thể ngăn cách đôi ta.
Từ nay, khắp thiên hạ này, trong mắt Sở Bắc Tiệp chỉ có mình Bạch Sính Đình là đáng quý nhất.
Sính Đình, Sính Đình!
Mong nàng đợi ta thêm một lúc.
Sở Bắc Tiệp dốc hết sức lực xông vào rừng, tuấn mã hí vang, trong đêm đen đạp bằng bao cành khô, bóng cây chưa kịp in dấu chân chàng đã bị bỏ lại phía sau.
Qua hết cánh rừng này chính là biệt viện ẩn cư.
Vó ngựa đạp tung nền tuyết, phi đi trong bóng đem.
Rừng núi âm u, ánh trăng không thể xuyên qua lớp cành lá phủ đầy tuyết. Chàng không ngửi thấy mùi thơm của tuyết, mà cảm nhận được mùi thuốc súng quẩn quanh.
Ta trở về rồi!
Sính Đình, hãy để khi ngước lên, ta được thấy hình bóng nàng.
Muộn hai canh giờ này, ta sẽ bù đắp bằng cả cuộc đời mình.
Đôi mắt đen sâu ánh lên sự quyết đoán, Sở Bắc Tiệp rút kiếm, kẹp chặt lưng ngựa.
Tuấn mã lao đi như tên bắn, bay ra khỏi bạt ngàn rừng núi.
Biệt viện ẩn cư đã trong tầm nhìn, Sở Bắc Tiệp trợn trừng đôi mắt vằn những tia máu, hốc mắt như muốn nứt ra.
Ánh lửa đầy trời.
Mùi máu tanh nồng khắp không trung, lòng người lạnh hơn băng tuyết.
Tay chân cứng đờ, tim như ngừng đập.
Giá rét tàn nhẫn thẩm thấu vào trăm mạch.
Chút sức lực cuối cùng trào dâng giúp chàng đến được nơi biệt viện đang ngổn ngang thi thể, toàn những bóng hình quen thuộc, những thị vệ thân thiết trẻ tuổi của chàng.
Họ sớm tối cùng chàng luyện võ, can đảm chẳng sợ chết.
Tứ chi bị chặt đứt, không còn biết hướng đi, máu đã lạnh.
Khuôn mặt họ không chút khiếp sợ, bên cạnh những cái xác ấy là thi thể kẻ thù còn thảm thiết hơn.
Sở Bắc Tiệp bước đi trong máu. Đã gặp nhiều cảnh còn khủng khiếp hơn trên sa trường, nhưng giờ chàng mới biết, màu máu lại khiến lòng người đau đớn đến vậy.
Sính Đình, Sính Đình, nàng ở đâu?
Khẽ gọi nàng trong tim, chỉ sợ khi phát ra thành tiếng, chàng sẽ dọa cho cơ hội sống mong manh hoảng sợ mà chạy đi.
Khóe mắt bừng sáng, chàng phát hiện ra Mạc Nhiên.
Mạc Nhiên người đầy máu cùng vết thương, một mũi tên xuyên qua vai phải, ghim chặt xuống đất, thi thể tên tướng địch đang đè lên bụng hắn.
Mạc Nhiên còn đang thở.
“Mạc Nhiên? Mạc Nhiên!”, Sở Bắc Tiệp quỳ xuống, lo lắng gọi.
Như đã đợi tiếng gọi này từ lâu, Mạc Nhiên cố mở mắt, nhưng con ngươi đờ ra, chỉ đến khi thấy rõ khuôn mặt Sở Bắc Tiệp, con ngươi mới thu lại, vô cùng kích động: “Vương gia… Người về rồi…”.
“Đã xảy ra chuyện gì? Sính Đình đâu?”, Sở Bắc Tiệp trầm giọng, “Sính Đình đâu?”.
Chàng nhìn Mạc Nhiên chằm chằm, đôi mắt sắc nhọn cũng run rẩy vì khiếp đảm, như thể chỉ cần Mạc Nhiên mấp máy môi, nói ra một tiếng không hay, cũng có thể khiến trời long đất lở.
“Hà Hiệp đưa đi rồi”, Mạc Nhiên thở gấp, nhắm mắt cố dành dụm chút sức lực cuối cùng mở to hai mắt, thở ra ba chữ, “Mau đuổi theo!”.
Sở Bắc Tiệp đứng phắt dậy, quay người ra cổng.
Đúng lúc gặp Thẩm Mâu và mấy thuộc hạ vừa đến nơi, Sở Bắc Tiệp dừng chân, trầm giọng hạ lệnh: “Để lại quân y và hai trăm người trị liệu cho những binh sĩ bị thương! Còn lại theo ta!”. Trong nháy mắt, Sở Bắc Tiệp đã nhảy lên lưng ngựa.
Như cảm nhận được sự tin tưởng trước nay chưa từng có của Sở Bắc Tiệp, tuấn mã hí vang một tiếng, cả người đứng thẳng, rồi tiếp tục gõ móng trên nền tuyết.
Hà Hiệp, Phò mã Hà Hiệp của Vân Thường.
Ánh mắt sáng ngời xuất thần của Sở Bắc Tiệp nhìn về hướng Vân Thường.
Sính Đình đang ở đó.
Nàng bị dẫn đi Vân Thường, ít nhất trong một ngày rưỡi, nàng mới bị đưa ra khỏi biên giới Đông Lâm.
Chỉ cần Sính Đình còn sống, dù nàng ở chân trời góc bể cũng gần trong gang tấc.
“Vương gia!”, Thần Mâu vội vàng chạy từ trong biệt viện ra, bẩm báo, “Kẻ địch có tên chưa chết. Mạt tướng vừa hỏi một tên có chức danh, hắn nói chúng men theo núi Hoành Đoạn, vượt qua biên giới mà đến đây, chắc sẽ về theo đường cũ. Chúng rất đông quân, tám ngàn binh mã”.
Đứng trước nguy nan, Sở Bắc Tiệp càng bình tĩnh. Chàng đã nhanh chóng khôi phục lại sự trầm tĩnh khi lâm trận trên sa trường: “Hà Hiệp không biết ta đã về đến biệt viện. Nếu lúc đến hắn chia thành các đoàn nhỏ để đi, thì về cũng sẽ như thế, binh mã tập hợp ở biên giới Vân Thường”.
Tiếng vó ngựa rầm rập vang dội đất trời đã đến, cả những binh sĩ bị rơi lại phía sau cũng đuổi theo tới nơi.
Không đợi họ xuống ngựa, Sở Bắc Tiệp đã rút kiếm chỉ thẳng lên trời, cao giọng: “Các huynh đệ Đông Lâm, Vân Thường cướp đi Trấn Bắc vương phi, các huynh đệ còn sức đuổi theo không?”.
Trấn Bắc vương phi?
Kẻ nào lại dám cướp đi nữ nhân Trấn Bắc vương thương yêu?
Sau khoảnh khắc im lặng, tiếng trả lời rền vang chấn động núi rừng: “Còn!”
“Bọn chúng có tám nghìn binh mã, chúng ta chỉ hơn ba ngàn quân mệt mỏi chạy liên tục trong đêm.” Sở Bắc Tiệp chậm rãi đảo mắt qua những nam nhi trẻ tuổi của Đông Lâm, để tiếng nói trầm lắng của mình vang vọng bên tai họ, “Tìm không được nàng, sinh tử với ta chẳng còn quan trọng. Các ngươi có thể lựa chọn, đuổi theo hoặc ở lại”.
“Đuổi theo.”
Tiếng hô không chút do dự, rền vang như sấm, vọng khắp núi rừng, rung động cả cành cây đầy tuyết.
Đã phân công xong công việc khắc phục hậu quả ngổn ngang nơi biệt viện, Thần Mâu lên ngựa phóng theo Sở Bắc Tiệp, giọng kiên quyết: “Chỉ cần đi theo Vương gia, ai cũng sẵn lòng. Xin Vương gia hạ lệnh”.
Sở Bắc Tiệp hạ giọng: “Thả bồ câu đưa thư mang bên người của ngươi ra, yêu cầu quân Đông Lâm dọc biên giới bên sườn tây vùng núi Hoành Đoạn chặn quân địch Vân Thường. Hà Hiệp dám mạo hiểm vào sâu trong biên giới Đông Lâm, ngoài tám ngàn binh mã mang theo, chắc chắn sẽ có quân mai phục dọc biên giới Vân Thường, dặn các tướng quân nơi biên cương cẩn trọng kẻo rơi vào cảnh trước sau đều có địch.
Quân lệnh ban ra, Sở Bắc Tiệp tuốt gươm đón gió, chỉ thẳng lên trời: “Chúng ta đuổi theo!”.
“Đuổi theo!”
Ba ngàn thanh kiếm đồng loạt rút ra khỏi bao, đao quang sáng lóa.
Tiếng hô vang dội đất trời.
Tiếng vó ngựa xé toang nền tuyết, rền vang.
Gió lạnh cắt da cắt thịt, lại vô tình cứa lên vết thương trên mặt Sở Bắc Tiệp, ánh mắt đầy quyết tâm.
Sính Đình, dù nơi chân trời góc bể, nếu có nàng, cũng sẽ gần trong gang tấc.
Chỉ cần nàng vẫn ở đó.
Sính Đình đang ở trong biệt viện yên tĩnh đến chết chóc dưới kia, giữa gió tuyết mịt mù.
Nàng là thị nữ, là tri âm của Hà Hiệp mười lăm năm, cùng Hà Hiệp chơi đùa, đọc sách, nhìn hắn luyện kiếm và vỗ tay khen ngợi.
Mười lăm năm, ai dễ dàng vứt bỏ? Từ một cô nhi bé bỏng yếu ớt, Sính Đình trở thành tiểu thư khuê các, thanh tú mềm mại, một trong lưỡng cầm đất Quy Lạc, Bạch Sính Đình của vương phủ Kính An tựa như nụ hoa đang chờ ngày hé nở u cốc.
Bao kẻ ngoái nhìn, bao người tán thưởng.
Hà Hiệp cứ lặng lẽ giữ nàng, yêu thương nàng, cùng nàng du ngoạn bốn phương, thậm chí ra sa trường vật lộn với chiến tranh hiểm ác, bão tuyết cát vùi.
Nàng vốn là của hắn, cả về tình về lý đều là của hắn.
Nhưng hắn chưa từng tìm cách cố giữ nàng.
Sính Đình của hắn là con chim phượng hoàng với đôi cánh đủ sắc màu đang chờ nam nhân đầu đội trời chân đạp đất đến nắm lấy bàn tay nàng. Và rồi, phu xướng phụ tùy, tiêu dao nơi chân trời góc bể theo tâm nguyện của nàng.
Hơn ai hết, Hà Hiệp hiểu rõ trái tim Bạch Sính Đình treo trên vách cao muôn trượng.
Nhưng, kẻ dễ dàng lấy được trái tim nàng lại là Sở Bắc Tiệp.
Có thể bất cứ ai, nhưng không thể là Sở Bắc Tiệp, kẻ thù định mệnh của đời hắn.
Hà Hiệp phải tưởng tượng thế nào khi Sính Đình của mình lại dựa vào lòng Sở Bắc Tiệp, cùng kẻ địch muôn kiếp ngắm sao thưởng nguyệt, nói chuyện trên trời dưới đất, đàn hát cho Sở Bắc Tiệp nghe?
Hà Hiệp phải tiếp nhận thế nào khi hắn đã vì sự dịu dàng cất giấu tận đáy lòng mà chịu đựng biệt ly, từ bỏ Sính Đình, để rồi dâng nàng cho Sở Bắc Tiệp?
Hoa tuyết bay đầy trong gió.
Trời đã sắp tối, hôm nay là mồng Sáu.
“Thiếu gia?” Đông Chước bước lên chỗ cao, đứng sau Hà Hiệp một trượng, thõng tay, dừng bước.
“Đông Chước, giọng của ngươi vừa bi vừa trầm”, Hà Hiệp trầm giọng, “Ngươi nghĩ Sở Bắc Tiệp có thể về sao?”.
“Không.”
“Ngươi đang sầu não vì Sở Bắc Tiệp không kịp trở về?”
Đông Chước lắc đầu, muốn nói gì lại thôi, một lúc sau bỗng ngẩng lên bảo: “Thiếu gia hãy hạ lệnh tấn công. Biệt viện quá ít người bảo vệ, với bản lĩnh của thiếu gia, muốn bắt sống Sính Đình, bắt Sính Đình theo chúng ta, là một việc vô cùng dễ dàng. Đến khi trở về, chúng ta sẽ từ từ khuyên giải Sính Đình hồi tâm chuyển ý”.
Hà Hiệp không đáp, bóng hình trong nắng chiều lạnh lùng cứng rắn.
“Thiếu gia, hai người cùng lớn lên từ nhỏ, chẳng lẽ thiếu gia không hề xót thương Sính Đình?”
Đông Chước nhìn chăm chăm vào Hà Hiệp, trong lòng trào dâng nỗi đau không thể đè nén. Hắn bỗng quỳ sụp xuống, ngẩng đầu, nước mắt chợt rơi, khẩn cầu: “Thiếu gia biết rõ Sở Bắc Tiệp không kịp trở về, hà tất còn cố bóp nát trái tim Sính Đình?”.
Đôi mắt đen của Hà Hiệp bỗng trở nên âm trầm, giấu nỗi đau đang giày vò, chỉ còn vẻ vô tình và quyết liệt.
“Ta không chỉ muốn bóp nát trái tim Sính Đình…” Đáy mắt in hằn hai đốm lửa nơi biệt viện xa xa trong bóng tối, Hà Hiệp nghiến răng, “Ta còn muốn Sính Đình nản lòng với Sở Bắc Tiệp”.
Màn đêm buông xuống, biệt viện càng tĩnh lặng.
Bãi nghĩa địa nơi ngoại thành cũng không tĩnh lặng đến thế. Hoa tuyết bay trong không trung, chẳng một tiếng động. Cảm giác trước mắt chỉ là hư ảo, Sính Đình đưa tay khẽ chạm, mộng cảnh lập tức vỡ tan, hiện thực trống rỗng vô cùng.
Nàng nhìn chăm chăm về hướng đông.
Thời gian vô tình rơi qua các kẽ tay.
Nàng cứ nhìn chằm chằm như thế hồi lâu không chớp mắt, dường như từ khi sinh ra, chưa bao giờ có chuyện gì trọng đại như vậy đến với nàng.
Phương đông là đường về của Sở Bắc Tiệp. Nàng không nhìn thấy con đường thẳng tắp tiến về đông, nơi ấy đã bị ngăn cách bởi núi rừng, bởi binh mã của Hà Hiệp. Nhưng Sính Đình biết, những thứ đó không ngăn nổi bước chân chàng.
Hôm nay là mồng Sáu.
Trăng đã lên rồi. Sở Bắc Tiệp, chàng đang ở chốn nào?
Lặng lẽ vén rèm cửa, Túy Cúc cũng đã đợi bên ngoài từ rất lâu, lâu đến nỗi đêm mồng Sáu như đang ngưng tụ trong lồng ngực.
Túy Cúc lại gần Sính Đình, liếc trộm khuôn mặt nghiêng nghiêng của nàng, khuôn mặt đoan trang thanh tú dưới ánh trăng. Cảm giác run rẩy, Túy Cúc gần như không thể đứng vững.
“Bạch cô nương…”
Sính Đình quay lại, dịu dàng cười với Túy Cúc. Lúc này đây, nụ cười ung dung ấy còn khiến người ta đau hơn cả tiếng khóc thê lương.
Nhưng việc đã đến lúc không thể không nói.
Nhìn Sính Đình, Túy Cúc không cho phép ánh mắt mình có một tia do dự, cảm giác gió Bắc căm căm thổi tung lồng ngực, lạnh đến mức có thể bình tĩnh mà rành rọt buông lời cần nói: “Sau khi hai vương tử qua đời, Đại vương đã không còn vương tử. Nếu có vị nương nương nào sinh cho Đại vương một vương tử thì tốt. Còn không, sau này Vương gia sẽ trở thành chủ nhân của Đông Lâm”.
Ngắn gọn mấy câu mà lồng ngực Túy Cúc phập phồng, cảm giác như sợ ý chí của mình không đủ kiên định. Túy Cúc không dám rời mắt đi nơi khác, cứ nhìn chằm chằm vào Sính Đình.
“Nói tiếp đi”, Sính Đình lãnh đạm.
“Nếu hài nhi trong bụng cô nương là trai, đó sẽ là trưởng tử của Vương gia.”
“Túy Cúc…”, ánh mắt Sính Đình chăm chú nhìn người đối diện, “Ngươi muốn nói gì?”.
Túy Cúc ngừng lại, cúi đầu suy nghĩ giây lát, rồi cắn chặt môi dưới, vị tanh nồng lan khắp miệng, giọng trầm xuống: “Trong lòng cô nương cũng hiểu rõ, thân phận của hài nhi quan trọng với Đông Lâm đến mức nào. Hà Hiệp là kẻ thủ đoạn, nên cô nương không thể mang theo cốt nhục của Vương gia mà rơi vào tay Hà Hiệp”. Lời nói chém đinh chặt sắt, không chút nể tình. Túy Cúc quay đi, bưng bát thuốc vẫn còn ấm trên bàn đến trước mặt Sính Đình.
Ánh mắt chạm phải bát thuốc đen ngòm, Sính Đình bất giác giật lùi về sau.
“Cô nương, thai nhi còn nhỏ, Vương gia cũng chưa biết. Cô nương và Vương gia đều còn trẻ.” Vừa nói, Túy Cúc vừa bê bát thuốc tiến gần Sính Đình thêm một bước,
Sính Đình bỗng thấy trước mắt tối sầm, khẽ ôm bụng, liên tiếp lùi về sau, cho đến khi sống lưng áp sát vào bức tường lạnh cóng. Nàng bình tĩnh lại, đứng cho vững, nhìn bát thuốc, trầm giọng: “Chưa hết mồng Sáu, Vương gia nhất định sẽ về”.
“Nếu Vương gia không kịp về thì sao?”
Sính Đình cắn răng, gằn từng tiếng: “Nhất định Vương gia sẽ về”.
Bầu không khí nặng nề đến ngạt thở bao trùm cả căn phòng.
Sính Đình nhìn chằm chằm Túy Cúc.
Móng tay nàng cắm chặt vào lòng bàn tay, nhưng vẫn không có cảm giác đau.
Ánh mắt Sính Đình chẳng còn bồng bềnh sóng nước dịu dàng, mà như hồ nước chết, đóng thành băng đen, lấp lánh tia sáng kiên cường mà quyết đoán.
“Nếu chàng không về thật…”, Sính Đình ngẩng cao đầu kiêu hãnh, “Trăng chếch sang bên, ta sẽ uống”.
Túy Cúc nhìn Sính Đình, hít sâu một hơi.
Túy Cúc đặt bát thuốc xuống bàn, rồi quỳ xụp xuống, dập đầu ba cái trước Sính Đình, không nói một lời, đứng dậy vén rèm bước ra cửa, lảo đảo chạy vào phòng bên, gục đầu xuống gối, khóc thảm thiết.
Sở Bắc Tiệp vẫn đang phóng như bay trong đêm đen. Những ngọn núi trong đêm bỗng biến thành thảm cảnh nơi biệt viện.
Chàng không dám tưởng tượng khi mình về đến nơi, thảm cảnh sẽ thế nào?
Mai có còn nở?
Tiếng đàn có còn du dương trong gió?
Khói bếp có còn cuộn bay?
Sau lưng chàng, trừ một ngàn quân tinh nhuệ vì quá mệt mỏi đã quay về thành đô, còn lại hai ngàn quân tinh nhuệ và một ngàn bảy trăm quân của Thần Mâu, tổng cộng ba ngàn bảy trăm binh sĩ.
Tiếng vó ngựa rền vang như sấm, kỵ binh cuồn cuộn đạp núi băng sông.
Dây cương đã mài nát những vết chai sần trong lòng bàn tay Sở Bắc Tiệp, nhuộm màu máu đỏ.
Vốn cưỡi ngựa từ thuở còn thơ, lúc này chàng thi triển hết mọi khả năng, thúc ngựa phi như bay. Nhưng, vẫn có người còn nhanh hơn chàng, người đó thúc ngựa chen vào đoàn quân, sóng vai bên chàng, át đi tiếng gầm của gió mà thét hỏi: “Có phải Trấn Bắc vương Sở Bắc Tiệp?”.
Sở Bắc Tiệp không đáp, cứ cắn răng phi như bay về phía trước.
Chàng biết, con ngựa mới đổi này cũng quá mệt rồi. Ngựa vẫn chạy, nhưng tốc độ đã chậm hơn nhiều.
Dù vung roi đến mức nào đi nữa, ngựa vẫn chạy chậm lại, chàng cảm thấy như có lửa đốt trong lòng.
“Sở vương gia, xin dừng bước, ta từ Mạc Bắc tới, Thượng tướng quân Tắc Doãn có gửi cho Vương gia một bức thư…”
“Cút đi!”, Sở Bắc Tiệp gầm lên.
Chàng đang nóng lòng đuổi theo thời gian, sao có thể lãng phí dù chỉ là thời gian rút kiếm.
Người đó đang cưỡi một con ngựa tốt, hình như đã tìm Sở Bắc Tiệp nhiều ngày nay, nên không chịu rời đi, mà vẫn hiên ngang đón gió, cứ há miệng định nói lại bị gió ngăn cản, chỉ còn cách vừa thúc ngựa, vừa hét lớn: “Thượng tướng quân Tắc Doãn có thư khẩn gửi Vương gia. Vì không biết có thể trao đến tay Vương gia trước khi Vương gia rời khỏi thành đô hay không, nên đã viết hai bức. Một bức sai người bí mật đưa đến vương cung Đông Lâm, bức khác giao cho ta, lệnh cho ta chờ Vương gia trên đường thẳng tới biên cương”.
“Cút!”, Sở Bắc Tiệp giận dữ nhìn người lạ mặt, ánh mắt dừng trên con ngựa tốt.
“Vương gia!” Người này đã đến tận đất Đông Lâm tìm Sở Bắc Tiệp thì sợ gì cái chết, nên chẳng chịu từ bỏ mục đích, cố hét lên, “Chỉ mong Vương gia đọc thư của Thượng tướng quân Tắc Doãn, việc có liên quan đến Bạch Sính Đình cô nương…”.
Lời chưa nói hết, hắn bỗng thấy người bên cạnh chuyển động, Sở Bắc Tiệp đổi sang ngựa của mình. Chàng nắm lấy cổ áo người kia, trầm giọng: “Ta mượn ngựa của ngươi”.
Người này vốn là tướng tài đắc lực nhất dưới trướng Tắc Doãn, thân thủ không tệ, tuy bị Sở Bắc Tiệp túm lấy cổ áo, nhưng vẫn kịp nhảy vọt lên không trung, tránh bị đẩy xuống ngựa. Một tay thò vào trong người lấy ra bức thư Tắc Doãn đích thân viết, hắn nói nhanh: “Người hiến kế đầu độc hai vương tử chính là Hà Hiệp, không phải Bạch Sính Đình. Bức thư này do chính Thượng tướng quân nhà ta viết, những mong rửa sạch nỗi oan cho Bạch cô nương”.
Sắc mặt vẫn không thay đổi, Sở Bắc Tiệp nhận lấy bức thư, cũng chẳng thèm nhìn, ném luôn ra phía sau.
“A!” Người đưa thư kinh ngạc kêu lên một tiếng. Tận mắt thấy bức thư qúy giá mình phải tốn bao công sức đưa tới đã mất hút trong màn đêm dưới bước chân cuồn cuộn của đám kỵ binh, hắn trừng mắt, “Ngươi!”.
“Trong sạch hay không đã chẳng còn quan trọng nữa.” Ánh mắt kiên quyết, Sở Bắc Tiệp trầm giọng, “Dù phạm cả mười trọng tội, nàng vẫn là Bạch Sính Đình của ta”.
Một đòn giơ ra, ép người kia nhảy xuống ngựa, xoay người tránh sang bên đường.
Có được ngựa mới, Sở Bắc Tiệp dốc hết sức lực, tốc độ càng nhanh hơn, bỏ lại đội quân ở phía sau.
Nỗi nhớ nhung đến cồn cào, sự lo lắng khắc cốt ghi tâm, và cả cảm giác như bị thiêu đốt trong địa ngục, sẽ chỉ mất đi khi chàng được ôm dáng hình gầy gò mảnh mai trong vòng tay.
Sính Đình, Sính Đình, Sở Bắc Tiệp biết sai rồi.
Bạch Sính Đình thông minh, Bạch Sính Đình ngốc nghếch, Bạch Sính Đình lương thiện, Bạch Sính Đình độc ác, đều là Bạch Sính Đình mà Sở Bắc Tiệp yêu tha thiết.
Cả đời này không bao giờ thay đổi.
Trăng đã lên.
Trong ký ức của Sính Đình, ánh trăng chưa bao giờ khiến trái tim nàng tan nát đến mức này.
Ánh trăng hiền hòa chiếu rọi nhân gian, soi tỏ mọi nỗi ai oán khổ đau trong cuộc đời, lạnh lùng khiến người ta tê tái.
“Chúng ta thề với ánh trăng, không bao giờ phụ bạc.”
Cũng dưới ánh trăng này, nàng đau khổ đáng thương, chàng dịu dàng như nước.
“Đúng thế, từ nay trở đi, nàng là vương phi của ta, ta là phu quân của nàng.”
“Không được đâu…”
“Tại sao?”
“Thiếp là cầm kỹ.”
“Ta thích tiếng đàn của nàng.”
“Thiếp không xứng với Vương gia.”
“Ta xứng với nàng.”
“Thiếp… thiếp không đủ đẹp.”
“Cho một mình ta ngắm, thế là đủ.”
Lời nói như vẫn vang bên tai.
Trăng ơi, trăng còn ghi nhớ? Trên đỉnh ngọn Điển Thanh, Bạch Sính Đình giơ tay ra, từng tấc, từng tấc, rụt rè xuyên qua quốc hận cao như núi, vượt mọi khói lửa chiến tranh, vứt bỏ mười lăm năm công ơn dưỡng dục chưa biết ai đã phụ ai.
Nàng chỉ biết mình đã vượt qua khói lửa của trận chiến, vượt qua mười lăm mùa xuân, hạ, thu, đông ở vương phủ Kính An. Nàng chỉ biết mình đã giơ tay ra, xuyên thủng quốc hận cao như núi.
Kẻ si tình gặp chuyện quốc gia, chẳng lẽ không có chốn an thân?
Sính Đình ngẩng đầu, nhìn trăng treo nơi chân trời.
Trăng lạnh lùng lên cao, lặng lẽ leo qua cành cây, lên đến tận ngọn.
Phương Đông, vẫn bặt vô âm tín.
Bầu trời nặng nề, bốn phía im lặng chết chóc, cũng giống như từng người đang nín thở chờ đợi.
Sau lưng nàng, bát thuốc đen ngòm nguội ngắt.
Trăng sáng vô tình, thời gian vô tình. Nàng ngẩng đầu, nhìn mặt nguyệt vẫn đang trôi dần lên ngọn cây.
Môi nàng hằn những vết răng, bàn tay cũng rõ bao vết sẹo.
Mắt nàng cay cay, nóng rát, nhưng lệ vẫn chẳng rơi dù chỉ một giọt. Nàng sợ rằng khi tiếng khóc vang lên, ác mộng sẽ thành sự thật.
Sính Đình đứng bên cửa sổ, lưng thẳng tắp, sống lưng chẳng khác nào một thanh bảo kiếm. Nàng chỉ có thể đứng thật kiên cường, bởi chỉ cần khẽ cử động, nàng sẽ không thể trụ vững, mà vỡ thành ngọc nát, rồi bị gió cuốn đi, chẳng lưu lại dù là một vết tích.
“Từ hôm nay, nàng không được để mình đói, không được để mình lạnh, không được làm tổn thương bản thân.”
Nàng không sao quên được từng lời nói cũng như ánh mắt thâm trầm, lồng ngực ấm áp của Sở Bắc Tiệp.
Nếu đã thực sự yêu, sao còn lo quốc hận thù dày?
Nếu đã yêu chân thành tha thiết, yêu không từ bỏ, mặc con tạo xoay vần, vẫn chẳng thay đổi ý nguyện thuở ban đầu.
Có gì quan trọng hơn là trở về bên người yêu mình ngày đêm mong ngóng?
Thời gian cứ thế trôi đi.
Trăng sáng, xin đừng phụ ta!
Mười ngón tay ngọc của nàng túm chặt vạt áo trước ngực.
Trăng sáng không có tai, nhưng có lẽ nghe được tiếng lòng của Sính Đình, vậy mà vẫn tàn nhẫn bỏ mặc nàng.
Phương đông vẫn bặt vô âm tín.
Màu tuyệt vọng phủ đầy đôi mắt trong của nàng.
Trăng đã chếch sang bên.
Sính Đình ngẩn ngơ nhìn ánh trăng đã lên đến ngọn cây, ánh trăng vô tình, u ám, lạnh lùng.
Khoảnh khắc này, nàng đã quên ngày mồng Sáu, quên hết đội quân hùng mạnh đang bao vây ngoài kia, quên cả Túy Cúc, Hà Hiệp, quên lời thề của mình.
Nàng đã quên tất cả.
Cảm giác trống rỗng, tay chân cũng như tê dại.
Chỉ có tiếng trái tim vỡ thành trăm mảnh, chậm rãi mà đau nhói, từng mảnh, từng mảnh một.
Giống như hoa sen bằng thủy tinh đang gãy dần từng cánh.
Vỡ rồi.
Vương vãi khắp mặt đất.
“Cô nương…”
Sính Đình từ từ quay lại, nhìn về phía Túy Cúc mặt mũi bi thương đang đứng phía sau, rồi chuyển ánh mắt sang bát thuốc đen ngòm trên bàn.
Túy Cúc nước mắt ròng ròng nhìn Sính Đình bước về phía mình, hai tay bưng bát thuốc lên.
Bát thuốc nặng tựa ngàn cân, bàn tay Sính Đình run rẩy, khiến thuốc sánh ra ngoài, tiếng giọt thuốc rơi trên bàn làm căn phòng trầm mặc càng thêm ngạt thở.
Sính Đình mở to đôi mắt, như muốn nhìn thật rõ bát thuốc đen ngòm trước mặt, để rồi khắc ghi trong tim từng gợn sóng lăn tăn trên đó.
Đã hết dịu dàng.
Đã hết phong lưu.
Trong mắt nàng chỉ còn nỗi đau cùng sự tuyệt vọng đang giày vò, như thể phải mở to mắt nhìn người ta từ từ móc hết lục phủ ngũ tạng của mình ra ngoài.
Túy Cúc biết, mình sẽ không thể quên ánh mắt lúc này của Sính Đình.
Sính Đình bưng bát thuốc đưa lên miệng, dừng lại một chút, như thể đã hết sức lực. Môi chạm vào bát thuốc lạnh, cảm giác thê lương như mất sinh khí, nàng khẽ rùng mình, hai tay buông thõng.
Choang!
Bát thuốc vỡ tan, nước thuốc đen lênh láng dưới sàn.
Nước mắt vốn đã nuốt vào trong giờ tuôn trào như chuỗi trân châu bị đứt, lăn dài trên gò má.
Sính Đình khuỵu chân, ngồi phịch xuống đất, run rẩy trong đau khổ, hai tay ôm vai. Tiếng khóc xé gan xé ruột, vô cùng thê thảm bật ra từ đôi môi nhợt nhạt của nàng.
“Bạch cô nương…”
Túy Cúc thương xót vuốt tóc nàng. Sính Đình giật mình, ngẩng đầu lên, khuôn mặt đẫm nước mắt, cầu khẩn: “Túy Cúc, đừng ép ta. Ta xin người, đừng ép ta!”.
Cảm giác như bị rắn cắn, Túy Cúc rụt vội tay về.
Đây có phải là Bạch Sính Đình phong lưu khoáng đạt?
Có phải Bạch Sính Đình sau mấy ngày không ăn không uống, vẫn nằm nghiêng trên giường đọc sách, thoải mái hỏi: “Ngươi có ngửi thấy hương thơm của tuyết ngoài kia không?”
Có phải Bạch Sính Đình gảy đàn trong tuyết, cất tiếng ca trong gió, hào hứng hái nụ mai?
Không phải.
Nữ nhi phong lưu như tiên giáng trần đã không còn nữa.
Nàng đã bị hủy hoại trong tay Hà Hiệp, trong tay Đông Lâm vương, trong tay Sở Bắc Tiệp, và trong chính tay Túy Cúc.
Giang sơn tanh mùi máu, không có chỗ cho một Bạch Sính Đình kiêu ngạo, cố chấp.
Sính Đình ở ngay trước mắt mà như cách xa vạn dặm, chỉ cần Túy Cúc khẽ giơ tay chạm vào, nàng sẽ hóa thành sương khói, tan biến vào hư vô.
Bát thuốc do chính tay Túy Cúc sắc đang đổ loang trên mặt đất sao giống vết máu đen thế.
Túy Cúc nhìn Sính Đình khóc nấc mà đứt từng khúc ruột. Nàng không biết mình lại có thể tàn nhẫn đến nhường này.
Bóng Mạc Nhiên bỗng xuất hiện ngoài cửa phòng, “Xe ngựa Hà Hiệp sai người đưa tới đang chờ ngoài đại môn biệt viện”.
Tảng đá lớn đè lên trái tim mệt mỏi đầy thương tích của nàng.
Sính Đình bám vào tướng, từ từ đứng dậy gạt nước mắt, khuôn mặt dưới trăng trắng bệch hơn xác người, trầm giọng: “Biết rồi”.
Đã lập lời thề thì phải thực hiện.
Khuôn mặt kiên nghị, Mạc Nhiên lấy từ sau lưng ra một sợi dây thừng, ném về phía Túy Cúc cũng đang giàn giụa nước mắt, nói: “Trói Bạch cô nương lại”.
Mệnh lệnh khác thường phát ra với giọng vô cùng kiên quyết.
“Mạc Nhiên?”
“Bạch cô nương, không phải cô nương không giữ lời hứa, mà chỉ là vạn bất đắc dĩ…”, Mạc Nhiên giữ chặt thanh kiếm bên hông, “Nhưng, Mạc Nhiên đã hứa với Vương gia, còn ta thì còn cô nương!”.
Sở Bắc Tiệp bỏ lại đoàn quân phía sau nửa dặm.
Trăng vẫn trôi, như có lưỡi đao khắc một đường hằn lên tim chàng. Trăng càng lên cao, lòng chàng càng trĩu nặng. Lưỡi đao ấn mạnh vào tim, máu tươi nhỏ xuống ròng ròng.
Trăng đã chếch sang bên.
Chàng ngẩng đầu, nhìn về phía núi xa xa, trong tầm mắt chỉ có sắc tuyết, lạnh như tay chân gan ruột chàng.
Sính Đình, đợi ta!
Ta nguyện hai tay dâng lên nàng tất cả phúc phận phú quý đời này của mình.
Hãy đợi ta thêm lúc nữa.
Thêm một lúc.
Từ nay, ta sẽ không rời xa nàng nửa bước.
Từ nay, những chuyện quốc gia đại sự cũng không thể ngăn cách đôi ta.
Từ nay, khắp thiên hạ này, trong mắt Sở Bắc Tiệp chỉ có mình Bạch Sính Đình là đáng quý nhất.
Sính Đình, Sính Đình!
Mong nàng đợi ta thêm một lúc.
Sở Bắc Tiệp dốc hết sức lực xông vào rừng, tuấn mã hí vang, trong đêm đen đạp bằng bao cành khô, bóng cây chưa kịp in dấu chân chàng đã bị bỏ lại phía sau.
Qua hết cánh rừng này chính là biệt viện ẩn cư.
Vó ngựa đạp tung nền tuyết, phi đi trong bóng đem.
Rừng núi âm u, ánh trăng không thể xuyên qua lớp cành lá phủ đầy tuyết. Chàng không ngửi thấy mùi thơm của tuyết, mà cảm nhận được mùi thuốc súng quẩn quanh.
Ta trở về rồi!
Sính Đình, hãy để khi ngước lên, ta được thấy hình bóng nàng.
Muộn hai canh giờ này, ta sẽ bù đắp bằng cả cuộc đời mình.
Đôi mắt đen sâu ánh lên sự quyết đoán, Sở Bắc Tiệp rút kiếm, kẹp chặt lưng ngựa.
Tuấn mã lao đi như tên bắn, bay ra khỏi bạt ngàn rừng núi.
Biệt viện ẩn cư đã trong tầm nhìn, Sở Bắc Tiệp trợn trừng đôi mắt vằn những tia máu, hốc mắt như muốn nứt ra.
Ánh lửa đầy trời.
Mùi máu tanh nồng khắp không trung, lòng người lạnh hơn băng tuyết.
Tay chân cứng đờ, tim như ngừng đập.
Giá rét tàn nhẫn thẩm thấu vào trăm mạch.
Chút sức lực cuối cùng trào dâng giúp chàng đến được nơi biệt viện đang ngổn ngang thi thể, toàn những bóng hình quen thuộc, những thị vệ thân thiết trẻ tuổi của chàng.
Họ sớm tối cùng chàng luyện võ, can đảm chẳng sợ chết.
Tứ chi bị chặt đứt, không còn biết hướng đi, máu đã lạnh.
Khuôn mặt họ không chút khiếp sợ, bên cạnh những cái xác ấy là thi thể kẻ thù còn thảm thiết hơn.
Sở Bắc Tiệp bước đi trong máu. Đã gặp nhiều cảnh còn khủng khiếp hơn trên sa trường, nhưng giờ chàng mới biết, màu máu lại khiến lòng người đau đớn đến vậy.
Sính Đình, Sính Đình, nàng ở đâu?
Khẽ gọi nàng trong tim, chỉ sợ khi phát ra thành tiếng, chàng sẽ dọa cho cơ hội sống mong manh hoảng sợ mà chạy đi.
Khóe mắt bừng sáng, chàng phát hiện ra Mạc Nhiên.
Mạc Nhiên người đầy máu cùng vết thương, một mũi tên xuyên qua vai phải, ghim chặt xuống đất, thi thể tên tướng địch đang đè lên bụng hắn.
Mạc Nhiên còn đang thở.
“Mạc Nhiên? Mạc Nhiên!”, Sở Bắc Tiệp quỳ xuống, lo lắng gọi.
Như đã đợi tiếng gọi này từ lâu, Mạc Nhiên cố mở mắt, nhưng con ngươi đờ ra, chỉ đến khi thấy rõ khuôn mặt Sở Bắc Tiệp, con ngươi mới thu lại, vô cùng kích động: “Vương gia… Người về rồi…”.
“Đã xảy ra chuyện gì? Sính Đình đâu?”, Sở Bắc Tiệp trầm giọng, “Sính Đình đâu?”.
Chàng nhìn Mạc Nhiên chằm chằm, đôi mắt sắc nhọn cũng run rẩy vì khiếp đảm, như thể chỉ cần Mạc Nhiên mấp máy môi, nói ra một tiếng không hay, cũng có thể khiến trời long đất lở.
“Hà Hiệp đưa đi rồi”, Mạc Nhiên thở gấp, nhắm mắt cố dành dụm chút sức lực cuối cùng mở to hai mắt, thở ra ba chữ, “Mau đuổi theo!”.
Sở Bắc Tiệp đứng phắt dậy, quay người ra cổng.
Đúng lúc gặp Thẩm Mâu và mấy thuộc hạ vừa đến nơi, Sở Bắc Tiệp dừng chân, trầm giọng hạ lệnh: “Để lại quân y và hai trăm người trị liệu cho những binh sĩ bị thương! Còn lại theo ta!”. Trong nháy mắt, Sở Bắc Tiệp đã nhảy lên lưng ngựa.
Như cảm nhận được sự tin tưởng trước nay chưa từng có của Sở Bắc Tiệp, tuấn mã hí vang một tiếng, cả người đứng thẳng, rồi tiếp tục gõ móng trên nền tuyết.
Hà Hiệp, Phò mã Hà Hiệp của Vân Thường.
Ánh mắt sáng ngời xuất thần của Sở Bắc Tiệp nhìn về hướng Vân Thường.
Sính Đình đang ở đó.
Nàng bị dẫn đi Vân Thường, ít nhất trong một ngày rưỡi, nàng mới bị đưa ra khỏi biên giới Đông Lâm.
Chỉ cần Sính Đình còn sống, dù nàng ở chân trời góc bể cũng gần trong gang tấc.
“Vương gia!”, Thần Mâu vội vàng chạy từ trong biệt viện ra, bẩm báo, “Kẻ địch có tên chưa chết. Mạt tướng vừa hỏi một tên có chức danh, hắn nói chúng men theo núi Hoành Đoạn, vượt qua biên giới mà đến đây, chắc sẽ về theo đường cũ. Chúng rất đông quân, tám ngàn binh mã”.
Đứng trước nguy nan, Sở Bắc Tiệp càng bình tĩnh. Chàng đã nhanh chóng khôi phục lại sự trầm tĩnh khi lâm trận trên sa trường: “Hà Hiệp không biết ta đã về đến biệt viện. Nếu lúc đến hắn chia thành các đoàn nhỏ để đi, thì về cũng sẽ như thế, binh mã tập hợp ở biên giới Vân Thường”.
Tiếng vó ngựa rầm rập vang dội đất trời đã đến, cả những binh sĩ bị rơi lại phía sau cũng đuổi theo tới nơi.
Không đợi họ xuống ngựa, Sở Bắc Tiệp đã rút kiếm chỉ thẳng lên trời, cao giọng: “Các huynh đệ Đông Lâm, Vân Thường cướp đi Trấn Bắc vương phi, các huynh đệ còn sức đuổi theo không?”.
Trấn Bắc vương phi?
Kẻ nào lại dám cướp đi nữ nhân Trấn Bắc vương thương yêu?
Sau khoảnh khắc im lặng, tiếng trả lời rền vang chấn động núi rừng: “Còn!”
“Bọn chúng có tám nghìn binh mã, chúng ta chỉ hơn ba ngàn quân mệt mỏi chạy liên tục trong đêm.” Sở Bắc Tiệp chậm rãi đảo mắt qua những nam nhi trẻ tuổi của Đông Lâm, để tiếng nói trầm lắng của mình vang vọng bên tai họ, “Tìm không được nàng, sinh tử với ta chẳng còn quan trọng. Các ngươi có thể lựa chọn, đuổi theo hoặc ở lại”.
“Đuổi theo.”
Tiếng hô không chút do dự, rền vang như sấm, vọng khắp núi rừng, rung động cả cành cây đầy tuyết.
Đã phân công xong công việc khắc phục hậu quả ngổn ngang nơi biệt viện, Thần Mâu lên ngựa phóng theo Sở Bắc Tiệp, giọng kiên quyết: “Chỉ cần đi theo Vương gia, ai cũng sẵn lòng. Xin Vương gia hạ lệnh”.
Sở Bắc Tiệp hạ giọng: “Thả bồ câu đưa thư mang bên người của ngươi ra, yêu cầu quân Đông Lâm dọc biên giới bên sườn tây vùng núi Hoành Đoạn chặn quân địch Vân Thường. Hà Hiệp dám mạo hiểm vào sâu trong biên giới Đông Lâm, ngoài tám ngàn binh mã mang theo, chắc chắn sẽ có quân mai phục dọc biên giới Vân Thường, dặn các tướng quân nơi biên cương cẩn trọng kẻo rơi vào cảnh trước sau đều có địch.
Quân lệnh ban ra, Sở Bắc Tiệp tuốt gươm đón gió, chỉ thẳng lên trời: “Chúng ta đuổi theo!”.
“Đuổi theo!”
Ba ngàn thanh kiếm đồng loạt rút ra khỏi bao, đao quang sáng lóa.
Tiếng hô vang dội đất trời.
Tiếng vó ngựa xé toang nền tuyết, rền vang.
Gió lạnh cắt da cắt thịt, lại vô tình cứa lên vết thương trên mặt Sở Bắc Tiệp, ánh mắt đầy quyết tâm.
Sính Đình, dù nơi chân trời góc bể, nếu có nàng, cũng sẽ gần trong gang tấc.
Chỉ cần nàng vẫn ở đó.
/67
|