Đêm ngày hai mươi mốt, mùa đông năm thứ mười bốn Hoành Xương, Thát Đát liên tục công kích thành hai lần, nhưng đều không thành không, hai bên giằng co hơn chín canh giờ.
Trong đêm, Thát Đát phát động trận chiến tấn công thành lần thứ ba, cổng thành dày nặng dưới sự công kích nghìn cân nặng không ngừng lung lay, sắp sập đổ đến nơi, gỗ vụn tung bay, quân sĩ Sóc Châu dùng máu thịt của chính mình để giữ cổng thành, một đám người chết liền có một đám khác xông lôn, không đến nửa canh giờ, binh sĩ đã hi sinh hơn phân nửa, xương cốt chất đống thành núi dưới tường thành, máu từ cổng thành uốn lượn chảy xuống phố.
Hán quân người chết kẻ bị thương trầm trọng, mắt thấy cổng thành sắp trụ không nổi nữa, Lý Quảng Anh tham mưu của Sóc Châu cả người đầy máu thúc ngựa đi đến, đứng ngay mộ binh nói: “Giang sơn Đại Minh ta, không dung thiết kỵ của người Hồ giẫm đạp! Chư vị nhiệt huyết nguyện chết bảo vệ quốc gia, thì theo ta cùng nhau chiến đấu!”
Bên cạnh vang lên tiếng hô hào, liên tục có nam tử trẻ tuổi cáo biệt thê tử, ngẩng đầu cầm cuốc, dao phay cùng các thứ khác gia nhập vào quân doanh chống định. Vừa bắt đầu chỉ có mười mấy người, dần dần trở thành mấy chục người, mấy trăm người... Đoàn người liều chết xông lên liên tục xông ra chiến trường, trong đoàn người có thể nhìn thấy những thiếu niên trẻ tuổi cùng với những ông cụ tóc bạc.
Ngụy Kinh Hồng cùng Ổ Miên Tuyết gia nhập vào trận chiến bảo vệ cổng thành trước, mà sau đó Phù Ly bị thương chưa khỏi, sốt cao vừa hạ sốt liền buộc cao mái tóc dài, mang vòng bảo vệ cổ tay, lúc tay nắm lấy trường đao trở người lên ngựa, Khương Nhan mở miệng, lời khuyên nhủ đến bên môi, cuối cùng lại thành một câu cười khẽ: “Phù đại công tử, các ngươi phải bình an quay về.”
Phù Ly ngồi trên lưng ngựa, cả người chìm trong sắc đen như mực, nhìn nàng khẽ gật đầu: “Được.”
Ba người Khương Nhan, Quý Huyền và Trình Ôn thân thủ bình thường, bị Thái thiên hộ giao việc ở lại canh gác phủ nha, chăm sóc người già. Lúc đèn đóm tắt lụi, hà hơi thành băng, Khương Nhan một mình đứng dưới mái hiên, nhìn lửa khói ngập trời, quả tim căng thẳng hồi lâu không thể bình tĩnh lại.
Vừa rồi nghe người nha phủ nói, Lục lão tiên sinh sớm đã bình an đến trạm dịch trong thành, Khương Nhan thầm nghĩ mình không thể giúp đỡ việc trên chiến trường, sốt ruột cũng vô dụng, tùy tiện chỉnh trang lại liền đi bái phỏng.
Trạm dịch cách đây không xa, rẽ qua một con phố liền đến nơi Lục lão đang ở. Khương Nhan bước về trước gõ cửa, trình bày lý do đến đây, liền được hai đệ tử Lục gia cầm đèn dẫn cô bước vào, xuyên qua đình trước đặt hơn mười rương kinh sử điển tịch, rẽ vào sảnh đường tiếp khách.
Đèn đóm trong đường sáng trưng như ban ngày, trước bậc thềm có năm sáu thư sinh cả người đầu bụi đất, hẳn là nho sinh bản địa của Sóc Châu, đặc biệt đến cầu kiến Lục lão. Trong phòng có bốn vị đệ tử Lục gia chính thống tầm ba mươi tuổi, đang cầm đèn soi lên thẻ tre sách cổ bám đầy bụi đen bùn đất, một ông lão dáng người gầy gò đội nga quan, khoác áo choàng nhà nho nửa quỳ trong đống sách cổ.
“Văn vật từ đất lấy lên vô cùng mỏng manh, vừa chạm liền vỡ, đám thất phu của phụ Đại Đồng còn thô lỗ như thế, một cuốc đào xuống liền vỡ không biết bao nhiêu thẻ tre, lại gặp phải phen chiến loạn này...” Giọng của ông lão mang theo vài phần khàn khàn, nhưng giọng nói hào sảng, từ tốn nói, “Nếu tiên nhân biết tâm huyết của mình bị hậu nhân đối xử thô bạo như thế, e là hồn phách bất an.”
Đệ tử cầm đèn lệnh Khương Nhan ngồi trước bậc thang chờ đợi. Các nho sinh lần lượt giới thiệu gia cảnh, Lục Vân Sinh đến đầu cũng không ngẩng lên, vẫn tập trung chỉnh lý sách cổ trên đất, dáng vẻ vô cùng thành kính phủi đi bụi đất trên cuốn sách hỏng, cẩn thận đặt lên khay đệ tử cầm, miệng thì thầm “Đây là phần thuộc về Lục Nghệ Lược.”, “Đây là phần bị ẩm, nét chữ bị nhòe, cần cẩn thận sửa lại”... Từ đầu chí cuối, cũng không nhìn các nho sinh đến một cái.
Nhà nho lớn đương thời, quả nhiên khí thế bất phàm. Các nho sinh bị lơ đi, chỉ đành cúi đầu đứng một bên, cực kì cung kính, không dám than oán lời nào.
Rất nhanh đến lượt Khương Nhan, nàng bước lên trước, nhìn Lục lão đang ngồi xổm chỉnh lý sách cổ, liền khom người, thành khẩn nói: “Vãn bối Khương Nhan Duyện Châu, gặp qua Lục lão tiên sinh.”
Nàng vốn không hi vọng sẽ được đáp lại, nào ngờ Lục lão vừa nghe thấy tên nàng, bóng lưng liền khựng lại, một lúc lâu mới dần quay đầu, nheo mắt đánh giá nàng, như đang xác nhận gì đó.
Lục lão trừ đi mái tóc hoa râm bạc hơn chút, so với tám năm trước không có gì khác biệt, vẫn là tư thế tiên phong đạo cốt, ánh mắt sâu thẳm, sắc bén.
“Ngươi là Khương Nhan?” Dường như chê ánh sáng quá tối, Lục lão cầm lấy lồng đèn đệ tử đưa, đi về hướng Khương Nhan hai bước, cẩn thận chiếu lên gương mặt nàng. Kí ức cùng hiện thực hợp là một, ông đột nhiên bừng tỉnh, vẻ mặt phức tạp hỏi, “Binh hoang mã loạn, ngươi đến đây làm gì? Ai bảo ngươi đến?”
“Học trò theo lời phụ thân mẫu thân, đặc biệt đến đây để đáp tạ ân đề cử của tiên sinh.” Dứt lời nàng quỳ xuống dập đầu, trán chạm lên đất, hành đại lễ nói, “Đương nhiên, dù không có lệnh của phụ mẫu, thì dù tình dù lý Khương Nhan đều phải đến một chuyến, đích thân cảm tạ.”
Lục Vân Sinh nhìn Khương Nhan, vẻ mặt vô cùng phức tạp, nói không rõ là mừng hay giận. Hồi lâu, chòm râu hoa râm của ông lay động, xua tay bảo các nho sinh đệ tử lui đi, đến khi trong phòng không còn người khác, ông mới trầm giọng hỏi: “Mẫu thân ngươi... Mấy năm này khỏe không?”
Khương Nhan ngẩng đầu, sự kinh ngạc lướt qua trên mặt. Nhưng nàng rất nhanh liền khôi phục vẻ bình tĩnh, áp chế sự nghi hoặc trong đáy lòng đáp: “Hồi tiên sinh, sức khỏe mẫu thân khỏe mạnh, cùng phụ thân cầm sắt hòa minh, tuy không phải đại phú đại quý nhưng cũng không cần lo nghĩ gì, tự do tự tại.”
Lục lão chắp tay đứng trước cửa phòng, dường như đang thưởng thức lời nói này của nàng. Tầm mắt ông xuyên qua ánh nến lay động đình trước, lướt qua hỏa chiến đao kiếm phân loạn, rơi trên phương xa xa không với đến, hồi lâu mới hỏi: “Ngươi khi nào vỡ lòng? Thường ngày thích đọc sách gì?”
Khương Nhan trả lời: “Từ lúc bắt đầu tập ngồi học trò đã cầm bút vẽ lung tung, phụ mẫu đều trong lĩnh vực thi họa, học trò mưa dầm thấm lâu đương nhiên cũng có vài phần hứng thú. Gia phụ đối với việc học tập của học trò cũng không khắc nghiệt để học trò tự do phát triển, thế nên ngoại trừ kinh sử điển tịch, phương kĩ vẽ tranh học trò cũng có đọc sơ qua, thích nhất là thi văn thoại bản.”
“Hừ, phụ thân ngươi vẫn luôn như thế!” Không biết câu nào chọc giận Lục lão, ngữ khí không vui nói, “Ngươi quay về đi, sau này không cần đến gặp ta, cũng đừng ở trước mặt ta nhắc đến phụ mẫu ngươi.”
Vạn lần không ngờ đến thái độ của Lục lão đối với phụ mẫu nàng lại như vậy, rõ ràng vừa rồi còn rất quan tâm đến mẫu thân của nàng hay sao? Trong lòng Khương Nhan có nghi hoặc, ý cười cũng nhạt hơn nhiều, “Vãn bối không biết phụ mẫu đã phạm phải sai lầm gì? Nếu có mạo phạm đến Lục lão, vãn bối nguyện ý khấu đầu tạ tội.”
Lục lão cũng không muốn làm khó một hậu bối, thở dài nói: “Phụ thân ngươi tạo nghiệt, không liên quan đến ngươi.”
Phụ thân trong lòng Khương Nhan trước giờ vẫn luôn vĩ đại, chính trực, thanh liêm đoan chính, nghe Lục lão bình luận phụ thân như thế, nàng ngược lại muốn ngang ngược dò hỏi đến cùng, trực tiếp hỏi: “Dám hỏi Lục lão, phụ thân đã làm sai chuyện gì?”
“Thằng nhãi ranh đó dám tạo phản, cướp đi minh châu trên tay ta!” Nhắc đến chuyện mười bảy năm trước, vị học giả uyên bác vẫn đầy bụng lửa giận, phất tay áo xoay người nói: “Lục mỗ ta cả đời đức cao vọng trọng, không thẹn với lễ giáo, nhưng con gái ta lại từ bỏ hôn nhân môn đăng hộ đối, tự ý gả vào nhà nghèo khó, mười bảy năm nay, ta chỉ xem như chúng nó chết rồi.”
Khương Nhan chưa từng gặp qua ngoại tổ phụ, cũng chưa từng nghe mẫu thân nhắc đến thân thích trong nhà, vẫn không hiểu chuyện thỉnh thoảng đề cập đến ngoại tổ phụ, ngoại tổ mẫu, mẫu thân chỉ là cười khổ nói: “Trời cao đường xa, tương lai còn dài.”
Lúc năm đầu tiên được đề cử, nàng cũng không từng hoài nghi: Mẫu thân cũng họ Lục, khuê danh là Bảo Linh, cùng họ với Lục lão. Lúc ấy nàng liền nghĩ đến, mẫu thân có phải là hậu nhân khác chi của Lục lão không?
Chỉ là không ngờ cư nhiên là con gái ruột, còn là một đứa con gái đào hôn, bỏ nhà theo trai, làm chuyện kinh thiên động địa đến vậy. Xuất thân trong Lục gia lễ giáo hà khắc, lúc mẫu thân lựa chọn chân ái, chắc chắn sẽ bị cả gia tộc ghét bỏ thậm chí bị đuổi đi...Cũng chẳng trách mười mấy năm nay, vừa nhắc đến người thân, mẫu thân vẫn là tắc nghẹn, có khổ không nói nên lời.
“Học trò không có cách nào bình luận là lễ giáo Lục gia hà khắc hay là mẫu thân không giữ đạo hiếu, nhưng học trò vẫn nhớ tám năm trước người bỏ nhiều tiền đến mua một cây quạt không đáng một văn tiền, cũng nhớ đến nước mắt lúc ấy trong mắt mẫu thân. Người không gật đầu đồng ý, học trò không dám gọi người một tiếng ngoại tổ phụ, nhưng khấu đầu này học trò cần phải khấu.” Nàng khấu đầu, dùng trán chạm đáp, “Phụ mẫu tình thân thật sự yêu thương nhau, cái khấu đầu này, hi vọng tiên sinh có thể bỏ qua cho hai người họ.”
Dứt lời, nàng lại khấu đầu thêm một cái: “Phụ mẫu không thể hiếu thảo tận hiếu tâm cũng là sự thật, cái khấu đầu này, học trò thay họ thỉnh tội.”
Từ lúc vào cửa, nàng đã khấu đầu ba cái, khóe mắt Lục lão đã đỏ hoe. Nhưng nhà nho lớn cao ngạo không muốn lộ ra vẻ yếu mềm, vẫn cứng cổ nói: “Lỗi của thằng nhãi kia, liên quan gì đến hậu bối như ngươi chứ? Nếu người khác nhìn thấy, còn cho rằng lão phu già không đứng đắn bắt nạt một cô bé. Ngươi đứng lên đi!”
Khương Nhan cười khẽ, cuối cùng gật đầu: “Đa tạ ngoại tổ phụ!”
Lục lão trừng mắt: “Không được gọi ta như thế, mẫu thân ngươi sớm đã không còn dính dáng đến Lục gia nữa!”
Nếu thật sự mặc kệ mẫu thân sống chết, ông cụ cũng sẽ không ngại đường xa trong lúc Khương gia bần hàn lại dùng nhiều tiền mua quạt chứ? Sao lúc cháu ngoại không còn hi vọng vào Quốc Tử Học đi học, lại cực lực đề cử?
Lòng Khương Nhan vô cùng rõ ràng, nhưng cũng chỉ đành thuận theo tính tình ngoan cố của ông cụ, đứng dậy khom thấp người, đổi miệng: “Đa tạ Lục lão tiên sinh.”
Sắc trời mờ sáng, mây đen giăng phủ cả tòa thành, chiến loạn của thành Sóc Châu vẫn còn kéo dài.
Ổ Miên Tuyết không biết từ đâu đoạt được một thanh đại đao khắc họa tiết rồng dài tận bảy thước, cả đường thúc ngựa xông qua lỗ hỏng của cổng thành bị đâm phá, tiến vào vòng vây của Thát Đát, cứu Ngụy Kinh hồng bị bao vây ra. Máu tươi trên tay còn chưa khô, thiếu nữ dũng mãnh giơ tay, thở hổn hển kéo Ngụy Kinh Hồng lên ngựa, quát: “Ngồi vững!”
Ngụy Kinh Hồng ngắm nhìn gò má trắng nõn dính máu tươi của nàng, dường như hốt hoảng không nhận ra thiếu nữ có gương mặt bánh bao, nói chuyện nhỏ nhẹ trong Quốc Tử Học. Hắn đưa kiếm chém quân địch đuổi theo bên dưới, lau đi cả mặt đầy máu, lớn tiếng nói: “Thân thủ này của ngươi, có thể so với Phù Ly đấy!”
Ổ Miên Tuyết cười ra một lúm đồng điếu: “Lúc lão nương ra trận giết địch, Phù đại công tử còn không biết đang ở đâu đấy!”
Giọng nói mười phần anh khí, khiến Ngụy Kinh Hồng trợn mắt nghẹn họng. Ổ Miên Tuyết lúc này mới phát giác ra bản thân lộ ra phỉ khí bá đạo của quân doanh, tức thời phì một tiếng, đổi thành giọng nói mềm mại như thường ngày: “Trước đó dọa chạy ba nhà hôn sự rồi, cha sợ ta không gả ra ngoài được mới đưa ta đến Quốc Tử Giám, mong muốn ta nhiễm chút khí chất của thư sinh, làm một tiểu thư khuê các dịu dàng. Cha ta già rồi, ta không muốn ông ấy lo lắng, cho nên cố gắng ngụy trang bản thân, vốn rất thành công rồi, nào ngờ...”
Ai biết lại gặp phải trận đại chiến loạn, đến sống nỗi hay không cũng là một vấn đề, còn quan tâm đến vờ dịu dàng để lừa gạt thiếu niên chứ.
“Ta ngược lại cảm thấy dáng vẻ này của ngươi càng thêm chói mắt.” Trên lưng ngựa xóc nảy, giọng của Ngụy Kinh Hồng run run, không rõ, cười nói, “Đại ân không lời nào nói hết. Yên tâm, hôn sự của ngươi cứ đặt lên người bổn công tử!”
Giờ mão, thành Sóc Châu nồng nặc mùi khói thuốc, trận lửa lớn nương theo thế gió đốt cháy kho lương thực trong doanh trướng Thát Đát. Quân Hán đánh úp thành công, Thát Đát đại loạn.
Giữa giờ mão, Phù Ly cả người đầy máu chạy như bay trên tường thành, bỏ trường kiếm đã bị uốn cong lưỡi kiếm xuống, nhặt cung tên cong như vầng trăng nằm dưới đất lên, một tên bắn xuyên qua cổ tướng lĩnh Thát Đát. Giờ thìn, Thát Đát rút quân ra ngoài ngoại thành.
Ngày hai mươi hai, tháng mười một, năm Hoằng Xương năm thứ mười bốn, Trấn Quốc đại tướng quân Thương Châu điều quân đến cứu viện, giết Thát Đát, thu lại vùng đất đã mất.
Ngày hai mươi ba, tháng mười một, năm Hoằng Xương năm thứ mười bốn, Thát Đát rút quân lui ra ngoài biên ải, năm ngày chiến đấu cuối cùng cũng yên ổn. Trong đêm tối, Phù Ly đích thân từ trong cửa động của đường hầm đã sập đào ra thi thể của Quý Bình, đưa về thành Sóc Châu
Ngày hai mươi lăm, tháng mười một, năm Hoằng Xương năm thứ mười bốn, Thái Kỳ hộ tống đưa sáu nho sinh cùng thi thể về phủ Ứng Thiên.
Hôm quay về phủ Ứng Thiên, đế đô rơi trận tuyết lớn đầu tiên trong năm nay, sáu vị nho sinh cả người khoác lụa trắng, bước trên tuyết đọng, từng bước đã quan tài vào trong thành.
Ngày bốn, tháng mười hai, năm Hoằng Xương năm thứ mười bốn, trong Quốc Tử Giám bày bộ nho phục của Quý Bình, dùng nghi lễ lớn nhất để làm tang lễ cho hắn, ba tiếng chuông tang, Tế Tửu, tư nghiệp, tiến sĩ cùng ba nghìn nho sinh đều đeo lụa trắng, đưa tiễn Quý Bình lấy thân tuẫn đạo.
Khương Nhan cả người bạch y đứng cuối hàng, vị trí bên cạnh nàng trống đi một chỗ, đó là chỗ của thiếu niên Phù gia thanh lạnh cao quý.
Về phủ Ứng Thiên đã hai ngày, mà Phù Ly từ đầu đến cuối chưa từng xuất hiện trong Quốc Tử Giám.
/181
|