Đó là một tập bản đồ. Nói đúng ra là một tập bản đồ chép tay, hai mươi mấy trang giấy trắng đóng lại với nhau, trên mỗi trang giấy đều có một bức bản đồ vẽ tay, chỉ có hai màu đen trắng, hình như là một người nghiệp dư thích vẽ bản đồ, dùng bút mực vẽ nên những tác phẩm này.
Càng kỳ lạ hơn là, thoáng nhìn tất cả các bản đồ đều y hệt nhau, nhưng nhìn kỹ lại, đường nét đại thể của mỗi tấm bản đồ đều giống nhau, chính giữa có hai chữ “Diệm Sơn”, nhưng lại có nét khác biệt. Ví dụ bản đồ ở trang một chỉ có mấy đường nét thô sơ, chú thích ở cuối trang ghi “Năm thứ nhất Diên Hoà thời Đường(1), nghi làm giả”.
Những bản đồ phía sau dần tinh tế, có đường nét chi tiết hơn và đánh dấu địa danh, có tấm ghi chú thích “Không rõ niên đại”, có khi chú thích rõ niên đại, ví dụ “Năm thứ nhất Gia Tĩnh thời Minh(2)”, “Năm thứ hai Đạo Quang thời Thanh(3)”, “năm 1935”, gần nhất là năm 1983. Bắt đầu từ trang bản đồ “Năm thứ ba Thiên Khải thời Minh(4)” có một vòng nhỏ đánh dấu “Thị trấn Hoa Tây”, những tấm bản đồ từ đó về sau, phạm vi của cái vòng này không ngừng mở rộng chứng tỏ quy mô của thị trấn Hoa Tây ngày càng lớn.
Thì ra đây là bản đồ của địa phương này, chúng sẽ đem lại cho mình những gợi ý gì?
Thôn quái dị, chắc chắn có liên quan đến Thôn quái dị.
Tư Dao đã từng xem tỷ mỷ tấm bản đồ cô có được ở thôn Thạch Lạp; cô vẫn nhớ rõ vị trí của Thôn quái dị. Cô giở tới trang cuối cùng ghi “Năm 1983”; quả nhiên ở vị trí Thôn quái dị có một chấm đen đậm, chú thích chữ “A”.
Cô lại giở lên trang trước, chú thích bên dưới ghi “Năm 1957”, xem lướt qua, vị trí Thôn quái dị vẫn là một chấm đen đậm, cũng có chữ “A”, nhưng nhìn kỹ cô thấy vị trí của chấm đen hơi chếch về phía đông nam. Không có gì lạ, bản đồ vẽ tay, có sự sai lệch nhỏ là rất bình thường. Cô lại lật lên trang trước là ”Năm 1935”,dường như chấm đen lại hơi lệch thêm về phía đông nam. Đúng là như vậy ư? Liệu có phải mắt mình đã lừa mình không?
Mắt mình không phải máy đo, thì chuẩn sao được? Nhất là khi đang ngồi trên chiếc xe khách đến sân bay, người luôn bị lúc lắc.
Một ý nghĩ chợt lóe lên, Tư Dao lấy từ trong túi xách tay ra một chiếc bút bi và khăn giấy màu trắng, giở ra đặt lên trên tấm bản đồ “Năm 1983”, một góc khăn giấy khớp với một góc bản đồ, dấu chấm đậm nằm ở vị trí của Thôn quái dị hiện lên qua lớp giấy mỏng, Tư Dao đánh dấu lên trên mặt giấy, đồng thời đánh dấu ở vị trí “Thị trấn Hoa Tây” và “Thôn Thạch Lạp”. Tiếp theo, cô lại đặt tờ giấy lên trên bản đồ “Năm 1959”, cùng đánh ba dấu như thế, đặc biệt chú ý đến sự trùng khớp căn bản giữa vị trí Thôn quái dị và dấu chấm “Năm 1983”, thì thấy rõ ràng vẫn có sai lệch nhỏ, trong khi “Thị trấn Hoa Tây” và “Thôn Thạch Lạp” lại hoàn toàn không lệch một ly.
Cứ như vậy,cô lần lượt đánh dấu từng trang từ sau lên trước cho đến “Năm thứ ba Thiên Khải thời Minh” là năm đầu của thị trấn Hoa Tây.
Tư Dao kinh ngạc phát hiện ra ở mỗi trang bản đồ, vị trí của Thôn quái dị không giống nhau, bản đồ càng cổ thì vị trí của thôn càng lệch về đông nam hơn, sau mười bốn trang bản đồ, mười bốn điểm chấm trên tờ giấy đã nối thành một đường vòng cung còn vị trí của thị trấn Hoa Tây và thôn Thạch Lạp từ đầu đến cuối không thay đổi.
Điều này chứng tỏ cái gì? Kỳ Lân nói không đúng,ai bảo lịch sử của Thôn quái dị là ngắn? Ít ra cũng có vài trăm năm lịch sử. Thôn quái dị lúc đầu ở gần thị trấn Hoa Tây. Theo dòng thời gian, Thôn quái dị dần dần dịch sâu vào núi, theo đường vòng cung này…Đường vòng cung này, chính là con đường Tư Dao đã đi qua, con đường gian khổ đầy những xương cốt thiên táng trong các bụi cỏ và các tấm bia không chữ!
Tư Dao chợt thấy lạnh buốt từ trong đáy lòng.
Phải! Đó là một con đường chông gai biết chừng nào, một giai đoạn lịch sử đầy biến động ghê gớm! Bao nhiêu bi kịch đã xảy ra ngay trước mắt ông. Những câu chuyện xa xưa, đầy bi thảm, dù ông chưa tận mắt trông thấy nhưng những năm gần đây vẫn hiện ra trong trí não ông sống động như thật.
Người mặc áo mưa không phải ngày nào cũng mặc áo mưa, ông đang ngồi trên chuyến xe khách đến sân bay, một ông già bình thường không có đặc trưng gì nổi bật. Ông biết con đường về Giang Kinh sẽ không có gió mưa gì, nhưng trong lòng ông thì mưa gió đang cuộn trào vì ông lại trông thấy tập bản đồ lịch sử chép tay. Tư Dao đang ngồi trên ghế hàng trước, chắc là vì sợ hãi điều gì, cô hít thở thật sâu, toàn thân khẽ run… Nhìn cô như vậy ông cảm thấy có một chút khoái cảm báo thù.
Đương nhiên, đây chỉ là mở màn, ác mộng vừa mới bắt đầu.
******************
Chú thích
(1): Năm 712
(2): Năm 1521
(3): Năm 1822
(4): Năm 1623
Đây là trận tuyết vào đông đầu tiên của Giang Kinh, so với năm trước thì hơi sớm, nhiệt độ cao nhất luôn xấp xỉ âm mười độ, cực kỳ giá lạnh.
Tư Dao từ tắc-xi bước xuống, gần như chạy ào vào nhà, chưa đem hành lý lên gác đã chạy thẳng vào phòng Lâm Nhuận. Mấy ngày nay ở bên ngoài, nghĩ đến tình trạng thương tích của Lâm Nhuận, cô luôn thấy cắn rứt. Những ngày Lâm Nhuận dưỡng thương là rất quan trọng đáng lẽ nên túc trực cả ngày bên giường anh mới phải. Nhưng Lâm Nhuận rất thông cảm với cô, chỉ tỏ ý lo cho sự an toàn của cô, chứ không hề ngăn trở cô làm việc.
Cuộc điện thoại đêm qua, những lời nhớ thương của Lâm Nhuận, cô nghe còn chưa đã, cô định nói với anh hôm nay sẽ về Giang Kinh, nhưng kìm lại được, vì muốn đem đến cho anh một sự bất ngờ.
Một tiếng cười trong trẻo dễ thương từ phòng Lâm Nhuận vẳng ra, lòng Tư Dao trầm hẳn xuống.
Tư Dao chầm chậm đi vào phòng, trông thấy bên giường Lâm Nhuận một phụ nữ dáng thanh thanh ngồi quay lưng lại, bộ tóc dài như thác nước buông rủ trên vai. Người ấy đang bón cho Lâm Nhuận thứ gì đó, chiếc bát trong tay bốc hơi nghi ngút.
Lâm Nhuận nằm trên giường dịu dàng nhìn người phụ nữ, ánh mắt này cô chỉ thấy khi anh nhìn cô, đã từng khiến cô gần như tan chảy trong đó. Đáng tiếc, ánh mắt ấy lúc này lại đang dành cho người khác.
Thấy Tư Dao lặng lẽ bước vào, thoạt tiên Lâm Nhuận ngớ người, lập tức đỏ bừng mặt, tỏ ra lúng túng: “Dao Dao, em…sao em lại về nhanh như vậy?”
Phải, em về không đúng lúc, đã làm phiền hai người. Mũi Tư Dao hơi cay cay. Mình nên nói gì đây? Mình nên làm gì? Nổi cáu ư? Bỏ ra ngoài ư?
Người phụ nữ kia quay lại, mỉm cười nhìn Tư Dao. Dung mạo tuyệt đẹp, đặc biệt là vẻ hiền thục cao nhã khiến một người vẫn luôn tin vào bản thân mình như Tư Dao cũng thấy khó mà bình tĩnh tự tin.
Thực không thể so sánh được!
”Dao Dao…” Lâm Nhuận càng ngượng ngịu, định giải thích, nhưng lại nín thinh.
“Em…quay về không đúng lúc, làm phiền hai người, em… vừa xuống máy bay… đi cất hành lý trước vậy ”. Tư Dao không muốn lưu lại thêm một giây nào nữa, nhưng ít ra cũng phải tìm được một nơi để có thể khóc một trận cho thỏa.
Đột nhiên, một giọng nam trong trẻo vang lên từ phía sau: “Đây là Dao Dao à, trăm nghe không bằng mắt thấy, ha ha, xem ra chúng tôi đến rất đúng lúc, vừa may được gặp cô”.
Một người đàn ông gầy gò khoảng ngoài năm mươi tuổi, đi đến từ phía sau, cười cười nhìn cô. Ông ta ăn mặc rất giản dị, chiếc áo jacket màu xanh đậm giặt nhiều tới mức đã bạc màu, cặp kính dày cộp, điển hình cho một trí thức đứng tuổi.
Chuyện gì thế này?
Người phụ nữ kia cuối cùng cũng cất tiếng: “Cháu đúng là Dao Dao à? Mấy ngày cháu đi, cô và chú biết Lâm Nhuận cần chăm sóc nên xin đơn vị cho nghỉ...cháu còn xinh hơn cả trong ảnh!”
Người này là ai?
Rồi Lâm Nhuận cũng nói ra được một câu hoàn chỉnh: “Dao Dao, đây là cha mẹ anh!”
May mà mình chưa nói câu gì quá đáng! Dù là như vậy, Tư Dao vẫn cảm thấy cách nghĩ vừa rồi của mình thật ngu ngốc. Phải giấu Lâm Nhuận điều này. Thật chẳng ngờ bà mẹ anh ấy giỏi giữ gìn nên trẻ lâu như vậy! Cô nhìn kỹ mẹ Lâm Nhuận, vẫn có thể lờ mờ nhìn thấy nếp nhăn ở đuôi con mắt, bà đúng là một người đã cao tuổi. Cô nở nụ cười: “Cháu chào chú, chào cô”.
Cha Lâm Nhuận cười bảo: “Cô của cháu nhìn thấy người xinh đẹp là không thể không trầm trồ. Có lẽ con mọt sách như tôi vẫn có cái tật luôn cảm thấy đây đều là những cái thứ yếu, hai người chung sống quan trọng nhất là tình cảm, đúng không?”
Tư Dao nhớ ra Lâm Nhuận từng nói cha anh là một thầy giáo dạy ngữ văn ở trường trung học. Cha mẹ anh đều sống ở thành phố nhỏ thuộc Tứ Xuyên xa xôi.
Mẹ Lâm Nhuận lừ mắt nhìn ông, cười nói: “Thôi nào, gặp người xinh đẹp, tôi khen một câu có gì là không được? Dao Dao à, cháu về thì tốt rồi, cô chú muốn đưa Lâm Nhuận về quê tĩnh dưỡng một thời gian, chỗ cô chú là vùng quê nhỏ thật nhưng cũng có hai bác sỹ đông y chuyên khoa xương, trình độ rất cao. Lâm Nhuận cứ trì hoãn mãi, nói là muốn đợi cháu vê, gặp cháu một lần rồi mới đi…Lâm Nhuận, đừng trách mẹ mau miệng nhé…”
“Không cần đâu, cháu đã về, cháu có thể chăm sóc anh ấy ạ” Tư Dao không nỡ xa Lâm Nhuận.
“Kìa cháu,việc này đương nhiên cô chú biết. Nhưng cháu còn có sự nghiệp và công việc của cháu. Cô chú biết, áp lực công việc của cháu rất lớn, không khi nào xin nghỉ được cả một ngày. Điều kiện ở quê dù không bằng ở thành phố lớn như Giang Kinh,c ô đi làm vốn chỉ kiếm được vài đồng, đi hay không đi làm cũng chẳng quan trọng, có thể dành nhiều thời gian hơn chăm sóc nó. Đợi nó bình phục hẳn, nếu nó vẫn còn lười biếng nằm ỳ ở nhà thì cô sẽ vác gậy đánh đuổi nó về với cháu, được không?” Bà cười cười nhìn Lâm Nhuận.
Tư Dao thấy bà nói đều rất có lý, dù trái tim cô luôn ở bên Lâm Nhuận nhưng không thể ở bên anh liên tục, chăm sóc chắc chắn không cẩn thận bằng cha mẹ anh nên cô gật đầu, cười nói : “Vâng, chắc chắn là cô chăm sóc tốt hơn cháu, cháu đành thả anh ấy thôi…Kỳ thực cháu rất không yên tâm khi để anh ấy nằm nhà một mình còn cháu thì vẫn chạy rông bên ngoài”
Mẹ Lâm Nhuận vội nói: “Các chuyện cháu trải qua, Lâm Nhuận đã nói với cô ít nhiều. Cháu thật tài giỏi và kiên cường. Nghe nói cha mẹ cháu…cũng không còn nữa. Sau này cứ coi cô chú là người nhà, được không?”
Tư Dao thấy lòng rộn ràng,nghĩ bụng: “Lâm Nhuận rất tốt và nhiệt tình là được thừa hưởng từ cha mẹ”.
Sau khi tắm gội thay quần áo đi xuống tầng dưới, cô thấy Lâm Nhuận và cha mẹ chỉnh trang để lên đường, túi lớn túi nhỏ và xe lăn của Lâm Nhuận, đang được xếp lên xe tắc-xi. Sao lại nhanh thế? Mẹ Lâm Nhuận giải thích, vừa rồi gọi điện đã đặt được vé máy bay tối hôm nay cho nên lập tức gọi xe. Tư Dao muốn cùng đi đến sân bay, nhưng cha mẹ Lâm Nhuận ra sức can ngăn, khuyên cô hãy nghỉ ngơi cho khỏe, và họ còn lo lúc cô quay về trời đã tối lại chỉ có một mình, sợ không an toàn. Lâm Nhuận bịn rịn với cô hồi lâu ,cũng khuyên cô không nên đi vì cô vừa từ sân bay về, chẳng nên lại giống như một cô tiếp viên hàng không.
Tư Dao bị Lâm Nhuận trêu, bật cười, hai người lưu luyến ôm hôn tạm biệt.
Mắt không rời chiếc xe cho tới khi nó khuất hẳn sau chỗ ngoặt, trời vẫn lạnh cóng nhưng đôi môi cô vẫn còn nguyên hơi ấm của Lâm Nhuận. Dù đã gần chập tối song Tư Dao lại cảm thấy trời sáng hơn, giống như một đứa trẻ bị lạc bỗng trở về bên người thân, cả thế giới đối với cô trở nên đẹp tươi rạng rỡ.
Kể từ năm ngoái khi cha mẹ qua đời, chỉ còn con mèo Linda và cô nương tựa lẫn nhau, nó như một người thân duy nhất của cô bởi lời nguyền “Đau thưong đến chết” đáng ghét kia đã cướp đi sinh mạng những người bạn thân, làm cho cuộc sống hắt hiu của cô càng thêm cô độc.
Nghĩ đến con mèo Linda, Tư Dao đột nhiên nhớ ra vừa rồi tất tưởi ra vào giúp Lâm Nhuận chuyển hành lý lên tắc-xi,lúc trước Linda còn quấn theo chân người, sau đó rình cơ hội chuồn ra khỏi nhà. Linda cũng là một con mèo "giang hồ",luôn khát vọng về thế giới bên ngoài, hễ có cơ hội là lủi đi chơi, cho đến khi bị bọn mèo hoang bắt nạt hoặc đói bụng mới vác cái bộ dạng đáng thương quay về.
Trời sắp tối, Tư Dao không muốn Linda lang bạt bên ngoài trời giá lạnh, gọi mấy tiếng “Linda…meo meo” nhưng không nghe thấy bất cứ động tĩnh nào. Tuyết trên đất đã được gạt đi, Tư Dao hỏi bà già mới chuyển đến ở nhà bên cạnh có nhìn thấy con mèo nhỏ không, bà lắc đầu. May mà một đứa nhỏ bên nàh hàng xóm đi xe đạp qua,chỉ một mảng rừng cây phía đông ,nói : “Em thấy con mèo nhà chị chạy vào đó”. Tư Dao cảm ơn, chạy nhanh qua đó.
Gọi là rừng cây, thực ra chỉ là một đám thông trồng san sát. Không trông thấy Linda đâu, Tư Dao lặng lẽ nghe ngóng một lúc, và nghe vẳng đến tiếng sột soạt.
Cô đột nhiên nhớ lại đây chính là nơi lần đầu đi dạo với Lâm Nhuận cô đã phát hiện ra có người bám theo mình : Lâm Mang, Dục Chu hoặc thầy giáo Cung cũng từng bám theo cô, hôm nay, liệu “giác quan thứ sáu” quá nhạy cảm của cô có được nghỉ ngơi không?
Tư Dao lại gọi “Linda”, rồi chầm chậm đi vào rừng thông, nhìn kỹ từng chỗ nền đất đi qua. Lá thông phủ dày trên mặt đất, bên trên là một lớp tuyết mỏng.
Những tiếng sột soạt lại vẳng đến ngay phía trước. Tư Dao bước nhanh hơn, trong tai chỉ nghe thấy tiếng bước chân dẫm trên tuyết và lá thông nghe rin rít. Đi tiếp về phía trước, trên mặt tuyết xuất hiện vết chân mèo nhỏ xíu còn mới, chắc chắn là của Linda.
Dấu chân mèo mỗi lúc một rõ, chắc chắn Linda ở gần đây. Bỗng nhiên cô choáng váng: dấu chân mèo đằng trước có một màu mà cô rất sợ nhìn thấy : Đỏ sậm!
Lẽ nào Linda đã gặp chuyện bất trắc? Ai lại điên rồ như thế, đã ra tay với một con mèo vô tội? Lẽ nào bên cạnh mình, ngoài Lâm Mang và Dục Chu ra, cô vẫn còn kẻ thù?
Tim đập loạn xạ, cô lần theo vết máu, lòng càng nặng trĩu. Vài vết máu còn dính những sợi lông màu vàng xám, chính là màu lông của Linda.
Tiếng sột soạt ở ngay sau cái cây trước mặt, Tư Dao che miệng đi tới. Cô thét lên: trời ơi!
Lòng cô lập tức nhẹ nhõm hẳn đi.
Linda đang cố gắng cắn xé một con sóc- nó có màu lông vàng xám - chắc con vật nhỏ đáng thương chưa kịp tích trữ đủ thực phẩm cho mùa đông, phải đi kiếm ăn dưới trời tuyết, nên mới trở thành trò chơi của thợ săn nghiệp dư Linda. Đúng thế, Linda đã ăn no, nó bắt con sóc này không phải vì cái dạ dày mà thuần tuý chỉ là tiêu khiển.
Tư Dao trừng mắt : “Linda, tàn nhẫn quá, về nhà mau!”
Linda có vẻ luyến tiếc ,ngẩng đầu lên, lòng Tư Dao lại trĩu nặng.Con sóc nằm ngửa ,bụng đã bị mổ ra- là bị rạch chứ tuyệt đối không phải bị Linda cắn; vuốt và răng của con mèo không thể rạch bụng con sóc một cách gọn ghẽ như thế kia.
Con người đã làm. Là có dụng ý gì vậy?
Cô cố chịu đựng chất vị toan đang trào lên trong dạ dày, chầm chậm đi tới, ngồi xuống, nhặt một cành thông lật da bụng con sóc ra.
Một ống đựng phim tròn bằng nhựa.
Tư Da gảy hộp phim ra, run run cầm lên nhìn kỹ. Nên làm thế nào đây?
Tính cách của cô vẫn thế, không thay đổi được. Tư Dao mở nắp hộp ra.
Trong hộp đựng phim là một tờ giấy cuộn tròn. Mở ra, là một tấm ảnh nhỏ.
Cô thoáng nhìn và đờ người ra như tượng gỗ. Rất lâu cô không dám tin vào mắt mình, lại nhìn kỹ lưỡng hơn. Không sai,quang cảnh trong bức ảnh chính là Bộ Nhai Lương-một cây cầu độc đáo ở Tân Thường Cốc. Năm người trong bức ảnh giống như một gia đình, một đôi nam nữ trung niên, ba thiếu niên đứng gần vách núi, sau lưng là chiếc cầu đá nhỏ hẹp, xa hơn là dãy núi xanh mờ. Cái làm Tư Dao chú ý nhất là một thiếu nữ xinh đẹp, mái tóc dài tung bay trước gió,làn da trắng mịn,một cặp kính đen, một bộ váy đen, giống như người cõi tiên “Không ăn thức ăn của trần gian”
Liệu có phải người cô đã từng quen biết? Hay là hàng ngày đều gặp mặt?
Tư Dao không dám tin vào mắt mình nữa. Người thiếu nữ tuyệt đẹp đó là Lịch Thu.
Càng kỳ lạ hơn là, thoáng nhìn tất cả các bản đồ đều y hệt nhau, nhưng nhìn kỹ lại, đường nét đại thể của mỗi tấm bản đồ đều giống nhau, chính giữa có hai chữ “Diệm Sơn”, nhưng lại có nét khác biệt. Ví dụ bản đồ ở trang một chỉ có mấy đường nét thô sơ, chú thích ở cuối trang ghi “Năm thứ nhất Diên Hoà thời Đường(1), nghi làm giả”.
Những bản đồ phía sau dần tinh tế, có đường nét chi tiết hơn và đánh dấu địa danh, có tấm ghi chú thích “Không rõ niên đại”, có khi chú thích rõ niên đại, ví dụ “Năm thứ nhất Gia Tĩnh thời Minh(2)”, “Năm thứ hai Đạo Quang thời Thanh(3)”, “năm 1935”, gần nhất là năm 1983. Bắt đầu từ trang bản đồ “Năm thứ ba Thiên Khải thời Minh(4)” có một vòng nhỏ đánh dấu “Thị trấn Hoa Tây”, những tấm bản đồ từ đó về sau, phạm vi của cái vòng này không ngừng mở rộng chứng tỏ quy mô của thị trấn Hoa Tây ngày càng lớn.
Thì ra đây là bản đồ của địa phương này, chúng sẽ đem lại cho mình những gợi ý gì?
Thôn quái dị, chắc chắn có liên quan đến Thôn quái dị.
Tư Dao đã từng xem tỷ mỷ tấm bản đồ cô có được ở thôn Thạch Lạp; cô vẫn nhớ rõ vị trí của Thôn quái dị. Cô giở tới trang cuối cùng ghi “Năm 1983”; quả nhiên ở vị trí Thôn quái dị có một chấm đen đậm, chú thích chữ “A”.
Cô lại giở lên trang trước, chú thích bên dưới ghi “Năm 1957”, xem lướt qua, vị trí Thôn quái dị vẫn là một chấm đen đậm, cũng có chữ “A”, nhưng nhìn kỹ cô thấy vị trí của chấm đen hơi chếch về phía đông nam. Không có gì lạ, bản đồ vẽ tay, có sự sai lệch nhỏ là rất bình thường. Cô lại lật lên trang trước là ”Năm 1935”,dường như chấm đen lại hơi lệch thêm về phía đông nam. Đúng là như vậy ư? Liệu có phải mắt mình đã lừa mình không?
Mắt mình không phải máy đo, thì chuẩn sao được? Nhất là khi đang ngồi trên chiếc xe khách đến sân bay, người luôn bị lúc lắc.
Một ý nghĩ chợt lóe lên, Tư Dao lấy từ trong túi xách tay ra một chiếc bút bi và khăn giấy màu trắng, giở ra đặt lên trên tấm bản đồ “Năm 1983”, một góc khăn giấy khớp với một góc bản đồ, dấu chấm đậm nằm ở vị trí của Thôn quái dị hiện lên qua lớp giấy mỏng, Tư Dao đánh dấu lên trên mặt giấy, đồng thời đánh dấu ở vị trí “Thị trấn Hoa Tây” và “Thôn Thạch Lạp”. Tiếp theo, cô lại đặt tờ giấy lên trên bản đồ “Năm 1959”, cùng đánh ba dấu như thế, đặc biệt chú ý đến sự trùng khớp căn bản giữa vị trí Thôn quái dị và dấu chấm “Năm 1983”, thì thấy rõ ràng vẫn có sai lệch nhỏ, trong khi “Thị trấn Hoa Tây” và “Thôn Thạch Lạp” lại hoàn toàn không lệch một ly.
Cứ như vậy,cô lần lượt đánh dấu từng trang từ sau lên trước cho đến “Năm thứ ba Thiên Khải thời Minh” là năm đầu của thị trấn Hoa Tây.
Tư Dao kinh ngạc phát hiện ra ở mỗi trang bản đồ, vị trí của Thôn quái dị không giống nhau, bản đồ càng cổ thì vị trí của thôn càng lệch về đông nam hơn, sau mười bốn trang bản đồ, mười bốn điểm chấm trên tờ giấy đã nối thành một đường vòng cung còn vị trí của thị trấn Hoa Tây và thôn Thạch Lạp từ đầu đến cuối không thay đổi.
Điều này chứng tỏ cái gì? Kỳ Lân nói không đúng,ai bảo lịch sử của Thôn quái dị là ngắn? Ít ra cũng có vài trăm năm lịch sử. Thôn quái dị lúc đầu ở gần thị trấn Hoa Tây. Theo dòng thời gian, Thôn quái dị dần dần dịch sâu vào núi, theo đường vòng cung này…Đường vòng cung này, chính là con đường Tư Dao đã đi qua, con đường gian khổ đầy những xương cốt thiên táng trong các bụi cỏ và các tấm bia không chữ!
Tư Dao chợt thấy lạnh buốt từ trong đáy lòng.
Phải! Đó là một con đường chông gai biết chừng nào, một giai đoạn lịch sử đầy biến động ghê gớm! Bao nhiêu bi kịch đã xảy ra ngay trước mắt ông. Những câu chuyện xa xưa, đầy bi thảm, dù ông chưa tận mắt trông thấy nhưng những năm gần đây vẫn hiện ra trong trí não ông sống động như thật.
Người mặc áo mưa không phải ngày nào cũng mặc áo mưa, ông đang ngồi trên chuyến xe khách đến sân bay, một ông già bình thường không có đặc trưng gì nổi bật. Ông biết con đường về Giang Kinh sẽ không có gió mưa gì, nhưng trong lòng ông thì mưa gió đang cuộn trào vì ông lại trông thấy tập bản đồ lịch sử chép tay. Tư Dao đang ngồi trên ghế hàng trước, chắc là vì sợ hãi điều gì, cô hít thở thật sâu, toàn thân khẽ run… Nhìn cô như vậy ông cảm thấy có một chút khoái cảm báo thù.
Đương nhiên, đây chỉ là mở màn, ác mộng vừa mới bắt đầu.
******************
Chú thích
(1): Năm 712
(2): Năm 1521
(3): Năm 1822
(4): Năm 1623
Đây là trận tuyết vào đông đầu tiên của Giang Kinh, so với năm trước thì hơi sớm, nhiệt độ cao nhất luôn xấp xỉ âm mười độ, cực kỳ giá lạnh.
Tư Dao từ tắc-xi bước xuống, gần như chạy ào vào nhà, chưa đem hành lý lên gác đã chạy thẳng vào phòng Lâm Nhuận. Mấy ngày nay ở bên ngoài, nghĩ đến tình trạng thương tích của Lâm Nhuận, cô luôn thấy cắn rứt. Những ngày Lâm Nhuận dưỡng thương là rất quan trọng đáng lẽ nên túc trực cả ngày bên giường anh mới phải. Nhưng Lâm Nhuận rất thông cảm với cô, chỉ tỏ ý lo cho sự an toàn của cô, chứ không hề ngăn trở cô làm việc.
Cuộc điện thoại đêm qua, những lời nhớ thương của Lâm Nhuận, cô nghe còn chưa đã, cô định nói với anh hôm nay sẽ về Giang Kinh, nhưng kìm lại được, vì muốn đem đến cho anh một sự bất ngờ.
Một tiếng cười trong trẻo dễ thương từ phòng Lâm Nhuận vẳng ra, lòng Tư Dao trầm hẳn xuống.
Tư Dao chầm chậm đi vào phòng, trông thấy bên giường Lâm Nhuận một phụ nữ dáng thanh thanh ngồi quay lưng lại, bộ tóc dài như thác nước buông rủ trên vai. Người ấy đang bón cho Lâm Nhuận thứ gì đó, chiếc bát trong tay bốc hơi nghi ngút.
Lâm Nhuận nằm trên giường dịu dàng nhìn người phụ nữ, ánh mắt này cô chỉ thấy khi anh nhìn cô, đã từng khiến cô gần như tan chảy trong đó. Đáng tiếc, ánh mắt ấy lúc này lại đang dành cho người khác.
Thấy Tư Dao lặng lẽ bước vào, thoạt tiên Lâm Nhuận ngớ người, lập tức đỏ bừng mặt, tỏ ra lúng túng: “Dao Dao, em…sao em lại về nhanh như vậy?”
Phải, em về không đúng lúc, đã làm phiền hai người. Mũi Tư Dao hơi cay cay. Mình nên nói gì đây? Mình nên làm gì? Nổi cáu ư? Bỏ ra ngoài ư?
Người phụ nữ kia quay lại, mỉm cười nhìn Tư Dao. Dung mạo tuyệt đẹp, đặc biệt là vẻ hiền thục cao nhã khiến một người vẫn luôn tin vào bản thân mình như Tư Dao cũng thấy khó mà bình tĩnh tự tin.
Thực không thể so sánh được!
”Dao Dao…” Lâm Nhuận càng ngượng ngịu, định giải thích, nhưng lại nín thinh.
“Em…quay về không đúng lúc, làm phiền hai người, em… vừa xuống máy bay… đi cất hành lý trước vậy ”. Tư Dao không muốn lưu lại thêm một giây nào nữa, nhưng ít ra cũng phải tìm được một nơi để có thể khóc một trận cho thỏa.
Đột nhiên, một giọng nam trong trẻo vang lên từ phía sau: “Đây là Dao Dao à, trăm nghe không bằng mắt thấy, ha ha, xem ra chúng tôi đến rất đúng lúc, vừa may được gặp cô”.
Một người đàn ông gầy gò khoảng ngoài năm mươi tuổi, đi đến từ phía sau, cười cười nhìn cô. Ông ta ăn mặc rất giản dị, chiếc áo jacket màu xanh đậm giặt nhiều tới mức đã bạc màu, cặp kính dày cộp, điển hình cho một trí thức đứng tuổi.
Chuyện gì thế này?
Người phụ nữ kia cuối cùng cũng cất tiếng: “Cháu đúng là Dao Dao à? Mấy ngày cháu đi, cô và chú biết Lâm Nhuận cần chăm sóc nên xin đơn vị cho nghỉ...cháu còn xinh hơn cả trong ảnh!”
Người này là ai?
Rồi Lâm Nhuận cũng nói ra được một câu hoàn chỉnh: “Dao Dao, đây là cha mẹ anh!”
May mà mình chưa nói câu gì quá đáng! Dù là như vậy, Tư Dao vẫn cảm thấy cách nghĩ vừa rồi của mình thật ngu ngốc. Phải giấu Lâm Nhuận điều này. Thật chẳng ngờ bà mẹ anh ấy giỏi giữ gìn nên trẻ lâu như vậy! Cô nhìn kỹ mẹ Lâm Nhuận, vẫn có thể lờ mờ nhìn thấy nếp nhăn ở đuôi con mắt, bà đúng là một người đã cao tuổi. Cô nở nụ cười: “Cháu chào chú, chào cô”.
Cha Lâm Nhuận cười bảo: “Cô của cháu nhìn thấy người xinh đẹp là không thể không trầm trồ. Có lẽ con mọt sách như tôi vẫn có cái tật luôn cảm thấy đây đều là những cái thứ yếu, hai người chung sống quan trọng nhất là tình cảm, đúng không?”
Tư Dao nhớ ra Lâm Nhuận từng nói cha anh là một thầy giáo dạy ngữ văn ở trường trung học. Cha mẹ anh đều sống ở thành phố nhỏ thuộc Tứ Xuyên xa xôi.
Mẹ Lâm Nhuận lừ mắt nhìn ông, cười nói: “Thôi nào, gặp người xinh đẹp, tôi khen một câu có gì là không được? Dao Dao à, cháu về thì tốt rồi, cô chú muốn đưa Lâm Nhuận về quê tĩnh dưỡng một thời gian, chỗ cô chú là vùng quê nhỏ thật nhưng cũng có hai bác sỹ đông y chuyên khoa xương, trình độ rất cao. Lâm Nhuận cứ trì hoãn mãi, nói là muốn đợi cháu vê, gặp cháu một lần rồi mới đi…Lâm Nhuận, đừng trách mẹ mau miệng nhé…”
“Không cần đâu, cháu đã về, cháu có thể chăm sóc anh ấy ạ” Tư Dao không nỡ xa Lâm Nhuận.
“Kìa cháu,việc này đương nhiên cô chú biết. Nhưng cháu còn có sự nghiệp và công việc của cháu. Cô chú biết, áp lực công việc của cháu rất lớn, không khi nào xin nghỉ được cả một ngày. Điều kiện ở quê dù không bằng ở thành phố lớn như Giang Kinh,c ô đi làm vốn chỉ kiếm được vài đồng, đi hay không đi làm cũng chẳng quan trọng, có thể dành nhiều thời gian hơn chăm sóc nó. Đợi nó bình phục hẳn, nếu nó vẫn còn lười biếng nằm ỳ ở nhà thì cô sẽ vác gậy đánh đuổi nó về với cháu, được không?” Bà cười cười nhìn Lâm Nhuận.
Tư Dao thấy bà nói đều rất có lý, dù trái tim cô luôn ở bên Lâm Nhuận nhưng không thể ở bên anh liên tục, chăm sóc chắc chắn không cẩn thận bằng cha mẹ anh nên cô gật đầu, cười nói : “Vâng, chắc chắn là cô chăm sóc tốt hơn cháu, cháu đành thả anh ấy thôi…Kỳ thực cháu rất không yên tâm khi để anh ấy nằm nhà một mình còn cháu thì vẫn chạy rông bên ngoài”
Mẹ Lâm Nhuận vội nói: “Các chuyện cháu trải qua, Lâm Nhuận đã nói với cô ít nhiều. Cháu thật tài giỏi và kiên cường. Nghe nói cha mẹ cháu…cũng không còn nữa. Sau này cứ coi cô chú là người nhà, được không?”
Tư Dao thấy lòng rộn ràng,nghĩ bụng: “Lâm Nhuận rất tốt và nhiệt tình là được thừa hưởng từ cha mẹ”.
Sau khi tắm gội thay quần áo đi xuống tầng dưới, cô thấy Lâm Nhuận và cha mẹ chỉnh trang để lên đường, túi lớn túi nhỏ và xe lăn của Lâm Nhuận, đang được xếp lên xe tắc-xi. Sao lại nhanh thế? Mẹ Lâm Nhuận giải thích, vừa rồi gọi điện đã đặt được vé máy bay tối hôm nay cho nên lập tức gọi xe. Tư Dao muốn cùng đi đến sân bay, nhưng cha mẹ Lâm Nhuận ra sức can ngăn, khuyên cô hãy nghỉ ngơi cho khỏe, và họ còn lo lúc cô quay về trời đã tối lại chỉ có một mình, sợ không an toàn. Lâm Nhuận bịn rịn với cô hồi lâu ,cũng khuyên cô không nên đi vì cô vừa từ sân bay về, chẳng nên lại giống như một cô tiếp viên hàng không.
Tư Dao bị Lâm Nhuận trêu, bật cười, hai người lưu luyến ôm hôn tạm biệt.
Mắt không rời chiếc xe cho tới khi nó khuất hẳn sau chỗ ngoặt, trời vẫn lạnh cóng nhưng đôi môi cô vẫn còn nguyên hơi ấm của Lâm Nhuận. Dù đã gần chập tối song Tư Dao lại cảm thấy trời sáng hơn, giống như một đứa trẻ bị lạc bỗng trở về bên người thân, cả thế giới đối với cô trở nên đẹp tươi rạng rỡ.
Kể từ năm ngoái khi cha mẹ qua đời, chỉ còn con mèo Linda và cô nương tựa lẫn nhau, nó như một người thân duy nhất của cô bởi lời nguyền “Đau thưong đến chết” đáng ghét kia đã cướp đi sinh mạng những người bạn thân, làm cho cuộc sống hắt hiu của cô càng thêm cô độc.
Nghĩ đến con mèo Linda, Tư Dao đột nhiên nhớ ra vừa rồi tất tưởi ra vào giúp Lâm Nhuận chuyển hành lý lên tắc-xi,lúc trước Linda còn quấn theo chân người, sau đó rình cơ hội chuồn ra khỏi nhà. Linda cũng là một con mèo "giang hồ",luôn khát vọng về thế giới bên ngoài, hễ có cơ hội là lủi đi chơi, cho đến khi bị bọn mèo hoang bắt nạt hoặc đói bụng mới vác cái bộ dạng đáng thương quay về.
Trời sắp tối, Tư Dao không muốn Linda lang bạt bên ngoài trời giá lạnh, gọi mấy tiếng “Linda…meo meo” nhưng không nghe thấy bất cứ động tĩnh nào. Tuyết trên đất đã được gạt đi, Tư Dao hỏi bà già mới chuyển đến ở nhà bên cạnh có nhìn thấy con mèo nhỏ không, bà lắc đầu. May mà một đứa nhỏ bên nàh hàng xóm đi xe đạp qua,chỉ một mảng rừng cây phía đông ,nói : “Em thấy con mèo nhà chị chạy vào đó”. Tư Dao cảm ơn, chạy nhanh qua đó.
Gọi là rừng cây, thực ra chỉ là một đám thông trồng san sát. Không trông thấy Linda đâu, Tư Dao lặng lẽ nghe ngóng một lúc, và nghe vẳng đến tiếng sột soạt.
Cô đột nhiên nhớ lại đây chính là nơi lần đầu đi dạo với Lâm Nhuận cô đã phát hiện ra có người bám theo mình : Lâm Mang, Dục Chu hoặc thầy giáo Cung cũng từng bám theo cô, hôm nay, liệu “giác quan thứ sáu” quá nhạy cảm của cô có được nghỉ ngơi không?
Tư Dao lại gọi “Linda”, rồi chầm chậm đi vào rừng thông, nhìn kỹ từng chỗ nền đất đi qua. Lá thông phủ dày trên mặt đất, bên trên là một lớp tuyết mỏng.
Những tiếng sột soạt lại vẳng đến ngay phía trước. Tư Dao bước nhanh hơn, trong tai chỉ nghe thấy tiếng bước chân dẫm trên tuyết và lá thông nghe rin rít. Đi tiếp về phía trước, trên mặt tuyết xuất hiện vết chân mèo nhỏ xíu còn mới, chắc chắn là của Linda.
Dấu chân mèo mỗi lúc một rõ, chắc chắn Linda ở gần đây. Bỗng nhiên cô choáng váng: dấu chân mèo đằng trước có một màu mà cô rất sợ nhìn thấy : Đỏ sậm!
Lẽ nào Linda đã gặp chuyện bất trắc? Ai lại điên rồ như thế, đã ra tay với một con mèo vô tội? Lẽ nào bên cạnh mình, ngoài Lâm Mang và Dục Chu ra, cô vẫn còn kẻ thù?
Tim đập loạn xạ, cô lần theo vết máu, lòng càng nặng trĩu. Vài vết máu còn dính những sợi lông màu vàng xám, chính là màu lông của Linda.
Tiếng sột soạt ở ngay sau cái cây trước mặt, Tư Dao che miệng đi tới. Cô thét lên: trời ơi!
Lòng cô lập tức nhẹ nhõm hẳn đi.
Linda đang cố gắng cắn xé một con sóc- nó có màu lông vàng xám - chắc con vật nhỏ đáng thương chưa kịp tích trữ đủ thực phẩm cho mùa đông, phải đi kiếm ăn dưới trời tuyết, nên mới trở thành trò chơi của thợ săn nghiệp dư Linda. Đúng thế, Linda đã ăn no, nó bắt con sóc này không phải vì cái dạ dày mà thuần tuý chỉ là tiêu khiển.
Tư Dao trừng mắt : “Linda, tàn nhẫn quá, về nhà mau!”
Linda có vẻ luyến tiếc ,ngẩng đầu lên, lòng Tư Dao lại trĩu nặng.Con sóc nằm ngửa ,bụng đã bị mổ ra- là bị rạch chứ tuyệt đối không phải bị Linda cắn; vuốt và răng của con mèo không thể rạch bụng con sóc một cách gọn ghẽ như thế kia.
Con người đã làm. Là có dụng ý gì vậy?
Cô cố chịu đựng chất vị toan đang trào lên trong dạ dày, chầm chậm đi tới, ngồi xuống, nhặt một cành thông lật da bụng con sóc ra.
Một ống đựng phim tròn bằng nhựa.
Tư Da gảy hộp phim ra, run run cầm lên nhìn kỹ. Nên làm thế nào đây?
Tính cách của cô vẫn thế, không thay đổi được. Tư Dao mở nắp hộp ra.
Trong hộp đựng phim là một tờ giấy cuộn tròn. Mở ra, là một tấm ảnh nhỏ.
Cô thoáng nhìn và đờ người ra như tượng gỗ. Rất lâu cô không dám tin vào mắt mình, lại nhìn kỹ lưỡng hơn. Không sai,quang cảnh trong bức ảnh chính là Bộ Nhai Lương-một cây cầu độc đáo ở Tân Thường Cốc. Năm người trong bức ảnh giống như một gia đình, một đôi nam nữ trung niên, ba thiếu niên đứng gần vách núi, sau lưng là chiếc cầu đá nhỏ hẹp, xa hơn là dãy núi xanh mờ. Cái làm Tư Dao chú ý nhất là một thiếu nữ xinh đẹp, mái tóc dài tung bay trước gió,làn da trắng mịn,một cặp kính đen, một bộ váy đen, giống như người cõi tiên “Không ăn thức ăn của trần gian”
Liệu có phải người cô đã từng quen biết? Hay là hàng ngày đều gặp mặt?
Tư Dao không dám tin vào mắt mình nữa. Người thiếu nữ tuyệt đẹp đó là Lịch Thu.
/63
|