Hàng nghìn năm nay, cuộc sống của người dân Việt Nam chủ yếu trông vào nông nghiệp và phụ thuộc hoàn toàn vào đất trời. Họ luôn phải “Trông trời, trông đất, trông mây/Trông mưa trông gió, trong ngày trông đêm”. Theo Đại Việt sử ký toàn thư, đời Lý, gặp những năm mưa to, bão lớn ruộng đồng trắng nước dân đói ăn tràn về Thăng Long, triều đình phải mở kho lương phát thóc cứu đói nhưng cũng không xuể. Đến đời nhà Trần, trước thảm họa thiên nhiên, đã cho đắp đê quai vạc từ đầu nguồn sông Hồng ra đến cửa biển. Nhưng vì đê thấp nước lại cao nên lũ lụt vẫn xảy ra. Để ngăn đê vỡ, lũ tràn, các vua triều Nguyễn bỏ rất nhiều tiền bạc công sức để tôn đê lên cao hơn nhưng kết quả vẫn không thể trấn trị được thủy thần. Chỉ tính riêng tỉnh Hưng Yên từ năm 1863 đến 1886, đê Văn Giang vỡ tới 18 lần. Vỡ đê họ chỉ còn cách đi xin ăn nên có câu thành ngữ “Oai oái như phủ Khoái xin ăn”. Thái Bình cũng là đất thuần nông, chả biết câu “Thái Bình là đất ăn chơi/Tay bị tay gậy khắp nơi tung hoành” có từ bao giờ và dù chế giễu kiểu hài hước nhưng nạn đói năm 1945 khiến hàng vạn dân Thái Bình đi ăn mày là có thật.
Ăn mày là ai, ăn mày là ta
Đói cơm rách áo thì ra ăn mày
Câu ca ấy cho thấy chuyện no đói rất bấp bênh, không ai có thể đoán định được. Và đích đến cho những người ăn mày thường là Thăng Long, nhất là chợ búa.
Đông Thành là mẹ là cha
Đói cơm rách áo thì ra Đông Thành
Đông Thành là chợ ở phía đông thành Thăng Long (tương ứng với các phố Hàng Than, Hàng Giấy, Hàng Đường, Hàng Ngang, Hàng Đào... ngày nay). Chợ có từ thời Hậu Lê và là chợ lớn nhất Thăng Long. Chợ họp theo phiên, sầm uất với đủ các mặt hàng. Bản tính của người Kinh kỳ vốn “thương người như thể thương thân” nên dù là người bán hàng hay kẻ đi chợ thấy kẻ khó xin ăn không bao giờ nỡ bỏ qua nên “Đông Thành là mẹ là cha” là như vậy. Không chỉ có chợ Đông Thành, Thăng Long còn có tám chợ lớn khác nằm rải rác ở các phường. Trong Vũ trung tùy bút, Phạm Đình Hổ viết: “Vào những năm lũ lụt hay mất mùa, dân đói ăn từ các nơi đổ về chợ xin ăn, trông rách rưới và thương tâm, người đi chợ không nỡ ngoảnh mặt đi qua”. Điều đó cũng cho thấy tấm lòng “lá lành đùm lá rách” của người dân đất Kẻ Chợ, trong khi ở các vùng quê có câu ngạn ngữ “Không ai lấy xôi của làng cho ăn mày”.
Đời vua Tự Đức, ăn mày dồn về Hà Nội nhiều hơn, ngoài nguyên mất mùa, còn có nguyên nhân nữa là xã hội phân hóa sâu sắc, dân chúng ở quê đói kém, nợ nần buộc phải bán tư điền cho chức sắc trong làng. Không còn đất canh tác, không có nghề thủ công và chính quyền cũng chẳng làm gì giúp họ nên chỉ còn cách đi ăn mày. Philippe Papin, tác giả của cuốn Lịch sử Hà Nội viết: “Không còn đất, một bộ phận nông dân trở thành kẻ làm thuê và lang thang ra thành phố xin ăn”. Chiếm được Nam Kỳ, thực dân Pháp bắt đầu thực hiện kế hoạch đánh chiếm Bắc Kỳ. Năm 1873, quân Pháp đánh thành Hà Nội lần thứ nhất, chiếm được thành rồi lại phải rút nhưng họ cũng buộc vua Tự Đức phải ký hiệp ước cấp đất cho Pháp mở lãnh sự ở khu Đồn Thủy. Lại thêm quân Cờ Đen quấy phá nên nông dân một số tỉnh bỏ ruộng, buôn bán đình trệ làm kinh tế sa sút, nạn đói diễn ra ở nhiều nơi. Trong thư gửi cho chính phủ Pháp ngày 30-4-1876, Kergaradec, lãnh sự của khu nhượng địa Đồn Thủy viết: “Cứ 5 ngày một lần, ăn mày ở thành phố và các vùng lân cận, một đội quân thực sự chen nhau ở Trường Thi (nay là Thư viện Quốc gia). Người ta cho từng người vào một và nhận được nửa cân gạo. Sau đó cả 9 cửa cùng mở để mọi người đi ra.Tuy nhiên chút gạo bố thí nhỏ nhoi đó vừa đủ một ngày nhưng người ta cũng chỉ phát cho người già, trẻ em, phụ nữ và người tàn tật. Những người đàn ông có vẻ kiếm sống được đều bị đám lính xua đuổi rất kiên quyết. Nhưng lần phát chẩn cuối cùng vẫn còn 22.000 người tới nhận”.
Năm 1882, thực dân Pháp đánh thành Hà Nội lần thứ 2, sau đó tiến hành bình định các tỉnh trung du và miền núi Bắc Kỳ, trấn áp phong trào Cần Vương. Đánh nhau diễn ra ở nhiều tỉnh làm dân hoảng loạn bỏ quê ra Hà Nội. Trong hồi ký Ở Bắc Kỳ - ghi chép và kỷ niệm (Au Tonkin - Notes et souvenirs, xuất bản 1925), Bonnal (Công sứ Hà Nội 1883-1885) viết: “Hà Nội bị xâm chiếm bởi hàng nghìn người từ các tỉnh lân cận đổ về. Những toán đàn bà, trẻ con rách rưới bám theo binh lính của chúng ta khi đi dạo trong những phố buôn bán, nơi rất khó vạch ra lối đi ngay khi vung gậy xua đuổi. Quang cảnh của những sự khốn cùng ấy mới chỉ là đáng buồn nhưng khi gặp phải một toán quân hủi đến cản đường trong phố thì một người Âu kém tế nhị nhất cũng phải tháo chạy càng nhanh càng tốt. Người ta nhìn thấy họ nằm lăn ra trên những manh chiếu rách, chân tay vặn vẹo những tư thế kỳ cục, không còn giọng nói để cất lên lời xin bố thí”.
Đầu thế kỷ XX, ăn mày ngồi la liệt, bày biện đủ thứ hình ảnh đau khổ kêu khóc có bài ở Ô Cầu Dền vì Sở Cẩm không cho ăn mày vào nội thành.Tuy nhiên cũng có người trốn vào nhưng lại bị cảnh sát bắt đem ra cửa ô hay xua đi. Hà Nội phát triển về phía Tây và phía Nam, chính quyền không ngăn nổi ăn mày. Ra Hà Nội năm 1902 dự lễ khánh thánh cầu Doumer (cầu Long Biên), năm đó vua Thành Thái mới 23 tuổi. Đi trên cái long xa, lần đầu tiên rời kinh đô Huế ra Bắc Hà, dọc đường nhìn thấy dân ăn xin và chết đói, vị vua trẻ đã không nén được cảm xúc:
Võ võ văn văn ý cẩm bào
Trẫm vi thiên tử độc gian lao
Tam bôi hoàng tửu quần lê huyết
Sổ trản thanh trà bách tính cao
Thiên lệ lạc thời dân lệ lạc
Ca thanh cao xứ khốc thanh cao
Can qua thử hội hưu đàm luận
Lân tuất thương sinh phó nhỉ tào
(Tạm dịch:
Quan võ, quan văn đều sung sướng hãnh diện với bộ cẩm bào. Trẫm đây làm vua mà cô đơn, không ai hiểu. Uống ba ly rượu hoàng tửu như uống máu lê dân. Uống một chén trà tiến vua như uống mồ hôi trăm họ. Mưa kia phải chăng nước mắt của trời và của trăm họ rơi xuống. Tiếng hát trong cung cao bao nhiêu thì tiếng khóc ngoài đời càng cao bấy nhiêu. Chiến tranh do đâu lúc này ta thôi bàn, phải bàn tìm người cứu nước thì phó cho ai đây!).
Không chỉ do thiên tai, chiến tranh đã sinh ra đói nghèo. Năm 1945, ăn mày đầy đường phố Hà Nội. Mẹ tôi khi đó đang ở Ô Chợ Dừa, sáng dậy mở cửa thấy người chết ngay trước cửa và ông bà tôi đã mua áo quan rồi thuê xe đưa đi chôn ở nghĩa trang Hợp Thiện (nay là khu vực nhà máy sợi Hà Nội ở phố Minh Khai).
Mất mùa thóc gạo vì ai
Làm dân ta chết mất hai triệu người
Tàu cười (vì tích trữ gạo), Tây khóc (bị đảo chính), Nhật no
Việt Nam hết gạo chết co đầy đường.
Có một vụ án gây chấn động Hà Nội liên quan đến ăn mày và chết đói năm 1945 là vụ xử nhà báo Trịnh My. Trước Cách mạng tháng Tám 1945 ông làm phóng viên cho nhiều tờ báo, trong đó có báo Tin Mới, chủ nhiệm báo là bác sĩ Nguyễn Tấn Gi Trọng, chủ bút là nhà báo Tam Lang (Vũ Đình Chí), quản lý là ông Vũ Kiên. Trụ sở Tin Mới ở phố Lagisquet (nay là phố Chân Cầm). Tình cờ Trịnh My lấy được tin ủy ban thóc gạo Bắc Kỳ thành lập “kho thóc Nghĩa Xương”. Ủy ban này sức cho các tỉnh thông báo tới chủ ruộng, định mức đóng góp căn cứ vào diện tích để cứu tế, phòng khi mất mùa, bão lụt (thực chất để nuôi quân Nhật). Tin đăng để người đọc ở Hà Nội có ruộng ở quê biết. Ở nông thôn phát xít Nhật bắt nông dân nhổ lúa trồng đay khiến làng mạc xơ xác tiêu điều. Hàng vạn người từ các tỉnh Nam Định, Thái Bình, Hưng Yên... bồng bế nhau lũ lượt rời bỏ quê hương lên các tỉnh, thành phố xin ăn. Nhiều bà mẹ gạt nước mắt cho con để khỏi chết đói. Các tổ chức từ thiện dù rất cố gắng nhưng cứu không xuể. Hà Nội bao phủ cảnh thương tâm, sáng sớm, xe chở rác thu nhặt xác chết chở ra chôn ở ngoại thành. Bẵng đi đến đầu tháng Năm, do sức ép của Nhật, nhà báo Trịnh My nhận được giấy gọi của tòa gửi đến tòa soạn. Báo nhờ luật sư Nguyễn Mạnh Tường bào chữa và vị luật sư tài giỏi này đã cãi trắng cho Trịnh My tại tòa.
Nhưng lợi dụng lòng tốt của người Thăng Long-Hà Nội, từ lâu đã xuất hiện Cái bang chuyên nghiệp, vì thế dân gian mới có câu “đóng cửa đi ăn mày” và “ăn mày đòi xôi gấc”. Những năm 1920, đám “đóng cửa đi ăn mày” lập thành ngõ Ngõ ăn mày ở gần Ô Chợ Dừa (nay là ngõ Đoàn Kết phố Khâm Thiên), họ dựng lều sơ sài bên những vùng lầy lội và hồ ao đầy cỏ dại. Ban ngày kéo nhau đi ăn xin, tối về ngủ. Ngõ Giếng Mứt những năm này còn hoang vu ít người nên chủ Tây thuê lập trại nuôi bò, sau đó bỏ hoang là chỗ cho ăn mày tụ tập.
Sau năm 1954, chính quyền mới có chính sách hồi cư vì ở quê họ đã được cách mạng chia ruộng. Chính sách là vậy nhưng thực tế vẫn còn nhiều người ăn mày, trong đó có ăn mày chuyên nghiệp, người khiếm thị, tàn tật. Nơi kiếm sống chủ yếu vẫn là bến tàu điện Bờ Hồ, ga Hàng Cỏ, bến xe Kim Liên, Kim Mã, cửa chợ Đồng Xuân... Theo cuốn Lịch sử Công an quận Hoàn Kiếm 1945-2004, năm 1963, thành phố thường xuyên có 5.600 người lang thang từ các tỉnh về hành nghề ăn xin. Và cũng sau 1954, bắt đầu sinh ra tờ khai lý lịch và trong lý lịch có một dòng: Thành phần sau cải cách ruộng đất. Người ta chia ra nhiều loại thành phần, ở thành phố gồm: Tư sản, tiểu tư sản và dân nghèo thành thị; ở nông thôn có trung nông, bần nông, bần cố nông và kẻ ăn mày ăn xin thuộc thành phần này. Cũng có những người từng ăn mày thoát ly quê hương trở lại thành phố làm công nhân, có khi họ tự hào, vỗ ngực, vì mình là bần cố nông - lực lượng nòng cốt.
Tính từ năm 1010, năm Lý Công Uẩn lập ra kinh thành Thăng Long cho đến nay có lẽ không ngày nào đất Thăng Long-Hà Nội không có ăn mày. Ăn mày trở thành đề tài của văn học dân gian, ví dụ như Tống Trân Cúc Hoa là truyện Nôm khuyết danh ở Thăng Long tạo nên trên cơ sở truyện cổ tích Trạng gầu vốn được lưu truyền từ lâu ở vùng Hưng Yên cũ. Với môtíp người tốt giúp đỡ một người nghèo khó, người này thành danh còn người tốt vì lý do nào đó phải đi ăn mày và khi gặp lại thì kẻ thành danh quay mặt đi. Thông điệp của những truyện theo môtíp này là phê phán thói vô ơn bạc nghĩa, khuyên con người sống phải có trước có sau. Nhưng ở đất Tứ Tổng xưa (nay là khu vực phía bắc Hồ Tây) lại có tục đẹp về ăn mày. Đầu năm cha mẹ và con cái ăn mặc quần áo rách rưới đóng giả làm ăn mày vào nhà ông bà bên nội bên ngoại xin tiền. Trong màn kịch ấy, ông bà nội ngoại sẽ mắng mỏ sau đó cho mấy trinh. Cả nhà ra ngõ cởi bỏ áo rách, ném bỏ bị gậy trở vào chúc Tết. Mục đích của tục này là giáo dục con cái phải chăm chỉ lao động, tìm cách vươn lên để kiếm tiền cho thấy ăn mày là nhục nhã.
Trong một chuyến công tác lên Mộc Châu, tôi nghỉ đêm ở nhà nghỉ ngay trung tâm thị trấn. Sáng dậy đi ăn sáng bà bán hàng thì thầm “chủ nhà nghỉ các bác ở buôn thuốc phiện còn cái nhà ba tầng bên cạnh là của một đôi vợ chồng chuyên đi ăn mày”. Cách kiếm tiền khác nhau nhưng bọn họ có điểm chung là mất tính người. Hà Nội năm 2014 vẫn đầy ăn mày thật và ăn mày giả và rất nhiều cảnh kéo áo nì nèo như ép người phải cho. Có cả nhóm chăn dắt ăn mày, bọn họ rất trẻ. Tháng 12-2014, báo An ninh Thủ đô đã có phóng sự về nạn chăn dắt và đã tìm ra ba trung niên ở Thanh Hóa đồng ý cho cha mẹ già làm ăn mày “thuê” cho những kẻ chăn dắt để một tháng nhận một triệu đồng.
Có ăn mày chuyên nghiệp nghĩa là một bộ phận dân chúng chả cần tự trọng chả cần xấu hổ. Không chỉ ăn mày tiền bạc, bây giờ còn có cả “ăn mày quá khứ”, “ăn mày thanh lịch”...
Ăn mày là ai, ăn mày là ta
Đói cơm rách áo thì ra ăn mày
Câu ca ấy cho thấy chuyện no đói rất bấp bênh, không ai có thể đoán định được. Và đích đến cho những người ăn mày thường là Thăng Long, nhất là chợ búa.
Đông Thành là mẹ là cha
Đói cơm rách áo thì ra Đông Thành
Đông Thành là chợ ở phía đông thành Thăng Long (tương ứng với các phố Hàng Than, Hàng Giấy, Hàng Đường, Hàng Ngang, Hàng Đào... ngày nay). Chợ có từ thời Hậu Lê và là chợ lớn nhất Thăng Long. Chợ họp theo phiên, sầm uất với đủ các mặt hàng. Bản tính của người Kinh kỳ vốn “thương người như thể thương thân” nên dù là người bán hàng hay kẻ đi chợ thấy kẻ khó xin ăn không bao giờ nỡ bỏ qua nên “Đông Thành là mẹ là cha” là như vậy. Không chỉ có chợ Đông Thành, Thăng Long còn có tám chợ lớn khác nằm rải rác ở các phường. Trong Vũ trung tùy bút, Phạm Đình Hổ viết: “Vào những năm lũ lụt hay mất mùa, dân đói ăn từ các nơi đổ về chợ xin ăn, trông rách rưới và thương tâm, người đi chợ không nỡ ngoảnh mặt đi qua”. Điều đó cũng cho thấy tấm lòng “lá lành đùm lá rách” của người dân đất Kẻ Chợ, trong khi ở các vùng quê có câu ngạn ngữ “Không ai lấy xôi của làng cho ăn mày”.
Đời vua Tự Đức, ăn mày dồn về Hà Nội nhiều hơn, ngoài nguyên mất mùa, còn có nguyên nhân nữa là xã hội phân hóa sâu sắc, dân chúng ở quê đói kém, nợ nần buộc phải bán tư điền cho chức sắc trong làng. Không còn đất canh tác, không có nghề thủ công và chính quyền cũng chẳng làm gì giúp họ nên chỉ còn cách đi ăn mày. Philippe Papin, tác giả của cuốn Lịch sử Hà Nội viết: “Không còn đất, một bộ phận nông dân trở thành kẻ làm thuê và lang thang ra thành phố xin ăn”. Chiếm được Nam Kỳ, thực dân Pháp bắt đầu thực hiện kế hoạch đánh chiếm Bắc Kỳ. Năm 1873, quân Pháp đánh thành Hà Nội lần thứ nhất, chiếm được thành rồi lại phải rút nhưng họ cũng buộc vua Tự Đức phải ký hiệp ước cấp đất cho Pháp mở lãnh sự ở khu Đồn Thủy. Lại thêm quân Cờ Đen quấy phá nên nông dân một số tỉnh bỏ ruộng, buôn bán đình trệ làm kinh tế sa sút, nạn đói diễn ra ở nhiều nơi. Trong thư gửi cho chính phủ Pháp ngày 30-4-1876, Kergaradec, lãnh sự của khu nhượng địa Đồn Thủy viết: “Cứ 5 ngày một lần, ăn mày ở thành phố và các vùng lân cận, một đội quân thực sự chen nhau ở Trường Thi (nay là Thư viện Quốc gia). Người ta cho từng người vào một và nhận được nửa cân gạo. Sau đó cả 9 cửa cùng mở để mọi người đi ra.Tuy nhiên chút gạo bố thí nhỏ nhoi đó vừa đủ một ngày nhưng người ta cũng chỉ phát cho người già, trẻ em, phụ nữ và người tàn tật. Những người đàn ông có vẻ kiếm sống được đều bị đám lính xua đuổi rất kiên quyết. Nhưng lần phát chẩn cuối cùng vẫn còn 22.000 người tới nhận”.
Năm 1882, thực dân Pháp đánh thành Hà Nội lần thứ 2, sau đó tiến hành bình định các tỉnh trung du và miền núi Bắc Kỳ, trấn áp phong trào Cần Vương. Đánh nhau diễn ra ở nhiều tỉnh làm dân hoảng loạn bỏ quê ra Hà Nội. Trong hồi ký Ở Bắc Kỳ - ghi chép và kỷ niệm (Au Tonkin - Notes et souvenirs, xuất bản 1925), Bonnal (Công sứ Hà Nội 1883-1885) viết: “Hà Nội bị xâm chiếm bởi hàng nghìn người từ các tỉnh lân cận đổ về. Những toán đàn bà, trẻ con rách rưới bám theo binh lính của chúng ta khi đi dạo trong những phố buôn bán, nơi rất khó vạch ra lối đi ngay khi vung gậy xua đuổi. Quang cảnh của những sự khốn cùng ấy mới chỉ là đáng buồn nhưng khi gặp phải một toán quân hủi đến cản đường trong phố thì một người Âu kém tế nhị nhất cũng phải tháo chạy càng nhanh càng tốt. Người ta nhìn thấy họ nằm lăn ra trên những manh chiếu rách, chân tay vặn vẹo những tư thế kỳ cục, không còn giọng nói để cất lên lời xin bố thí”.
Đầu thế kỷ XX, ăn mày ngồi la liệt, bày biện đủ thứ hình ảnh đau khổ kêu khóc có bài ở Ô Cầu Dền vì Sở Cẩm không cho ăn mày vào nội thành.Tuy nhiên cũng có người trốn vào nhưng lại bị cảnh sát bắt đem ra cửa ô hay xua đi. Hà Nội phát triển về phía Tây và phía Nam, chính quyền không ngăn nổi ăn mày. Ra Hà Nội năm 1902 dự lễ khánh thánh cầu Doumer (cầu Long Biên), năm đó vua Thành Thái mới 23 tuổi. Đi trên cái long xa, lần đầu tiên rời kinh đô Huế ra Bắc Hà, dọc đường nhìn thấy dân ăn xin và chết đói, vị vua trẻ đã không nén được cảm xúc:
Võ võ văn văn ý cẩm bào
Trẫm vi thiên tử độc gian lao
Tam bôi hoàng tửu quần lê huyết
Sổ trản thanh trà bách tính cao
Thiên lệ lạc thời dân lệ lạc
Ca thanh cao xứ khốc thanh cao
Can qua thử hội hưu đàm luận
Lân tuất thương sinh phó nhỉ tào
(Tạm dịch:
Quan võ, quan văn đều sung sướng hãnh diện với bộ cẩm bào. Trẫm đây làm vua mà cô đơn, không ai hiểu. Uống ba ly rượu hoàng tửu như uống máu lê dân. Uống một chén trà tiến vua như uống mồ hôi trăm họ. Mưa kia phải chăng nước mắt của trời và của trăm họ rơi xuống. Tiếng hát trong cung cao bao nhiêu thì tiếng khóc ngoài đời càng cao bấy nhiêu. Chiến tranh do đâu lúc này ta thôi bàn, phải bàn tìm người cứu nước thì phó cho ai đây!).
Không chỉ do thiên tai, chiến tranh đã sinh ra đói nghèo. Năm 1945, ăn mày đầy đường phố Hà Nội. Mẹ tôi khi đó đang ở Ô Chợ Dừa, sáng dậy mở cửa thấy người chết ngay trước cửa và ông bà tôi đã mua áo quan rồi thuê xe đưa đi chôn ở nghĩa trang Hợp Thiện (nay là khu vực nhà máy sợi Hà Nội ở phố Minh Khai).
Mất mùa thóc gạo vì ai
Làm dân ta chết mất hai triệu người
Tàu cười (vì tích trữ gạo), Tây khóc (bị đảo chính), Nhật no
Việt Nam hết gạo chết co đầy đường.
Có một vụ án gây chấn động Hà Nội liên quan đến ăn mày và chết đói năm 1945 là vụ xử nhà báo Trịnh My. Trước Cách mạng tháng Tám 1945 ông làm phóng viên cho nhiều tờ báo, trong đó có báo Tin Mới, chủ nhiệm báo là bác sĩ Nguyễn Tấn Gi Trọng, chủ bút là nhà báo Tam Lang (Vũ Đình Chí), quản lý là ông Vũ Kiên. Trụ sở Tin Mới ở phố Lagisquet (nay là phố Chân Cầm). Tình cờ Trịnh My lấy được tin ủy ban thóc gạo Bắc Kỳ thành lập “kho thóc Nghĩa Xương”. Ủy ban này sức cho các tỉnh thông báo tới chủ ruộng, định mức đóng góp căn cứ vào diện tích để cứu tế, phòng khi mất mùa, bão lụt (thực chất để nuôi quân Nhật). Tin đăng để người đọc ở Hà Nội có ruộng ở quê biết. Ở nông thôn phát xít Nhật bắt nông dân nhổ lúa trồng đay khiến làng mạc xơ xác tiêu điều. Hàng vạn người từ các tỉnh Nam Định, Thái Bình, Hưng Yên... bồng bế nhau lũ lượt rời bỏ quê hương lên các tỉnh, thành phố xin ăn. Nhiều bà mẹ gạt nước mắt cho con để khỏi chết đói. Các tổ chức từ thiện dù rất cố gắng nhưng cứu không xuể. Hà Nội bao phủ cảnh thương tâm, sáng sớm, xe chở rác thu nhặt xác chết chở ra chôn ở ngoại thành. Bẵng đi đến đầu tháng Năm, do sức ép của Nhật, nhà báo Trịnh My nhận được giấy gọi của tòa gửi đến tòa soạn. Báo nhờ luật sư Nguyễn Mạnh Tường bào chữa và vị luật sư tài giỏi này đã cãi trắng cho Trịnh My tại tòa.
Nhưng lợi dụng lòng tốt của người Thăng Long-Hà Nội, từ lâu đã xuất hiện Cái bang chuyên nghiệp, vì thế dân gian mới có câu “đóng cửa đi ăn mày” và “ăn mày đòi xôi gấc”. Những năm 1920, đám “đóng cửa đi ăn mày” lập thành ngõ Ngõ ăn mày ở gần Ô Chợ Dừa (nay là ngõ Đoàn Kết phố Khâm Thiên), họ dựng lều sơ sài bên những vùng lầy lội và hồ ao đầy cỏ dại. Ban ngày kéo nhau đi ăn xin, tối về ngủ. Ngõ Giếng Mứt những năm này còn hoang vu ít người nên chủ Tây thuê lập trại nuôi bò, sau đó bỏ hoang là chỗ cho ăn mày tụ tập.
Sau năm 1954, chính quyền mới có chính sách hồi cư vì ở quê họ đã được cách mạng chia ruộng. Chính sách là vậy nhưng thực tế vẫn còn nhiều người ăn mày, trong đó có ăn mày chuyên nghiệp, người khiếm thị, tàn tật. Nơi kiếm sống chủ yếu vẫn là bến tàu điện Bờ Hồ, ga Hàng Cỏ, bến xe Kim Liên, Kim Mã, cửa chợ Đồng Xuân... Theo cuốn Lịch sử Công an quận Hoàn Kiếm 1945-2004, năm 1963, thành phố thường xuyên có 5.600 người lang thang từ các tỉnh về hành nghề ăn xin. Và cũng sau 1954, bắt đầu sinh ra tờ khai lý lịch và trong lý lịch có một dòng: Thành phần sau cải cách ruộng đất. Người ta chia ra nhiều loại thành phần, ở thành phố gồm: Tư sản, tiểu tư sản và dân nghèo thành thị; ở nông thôn có trung nông, bần nông, bần cố nông và kẻ ăn mày ăn xin thuộc thành phần này. Cũng có những người từng ăn mày thoát ly quê hương trở lại thành phố làm công nhân, có khi họ tự hào, vỗ ngực, vì mình là bần cố nông - lực lượng nòng cốt.
Tính từ năm 1010, năm Lý Công Uẩn lập ra kinh thành Thăng Long cho đến nay có lẽ không ngày nào đất Thăng Long-Hà Nội không có ăn mày. Ăn mày trở thành đề tài của văn học dân gian, ví dụ như Tống Trân Cúc Hoa là truyện Nôm khuyết danh ở Thăng Long tạo nên trên cơ sở truyện cổ tích Trạng gầu vốn được lưu truyền từ lâu ở vùng Hưng Yên cũ. Với môtíp người tốt giúp đỡ một người nghèo khó, người này thành danh còn người tốt vì lý do nào đó phải đi ăn mày và khi gặp lại thì kẻ thành danh quay mặt đi. Thông điệp của những truyện theo môtíp này là phê phán thói vô ơn bạc nghĩa, khuyên con người sống phải có trước có sau. Nhưng ở đất Tứ Tổng xưa (nay là khu vực phía bắc Hồ Tây) lại có tục đẹp về ăn mày. Đầu năm cha mẹ và con cái ăn mặc quần áo rách rưới đóng giả làm ăn mày vào nhà ông bà bên nội bên ngoại xin tiền. Trong màn kịch ấy, ông bà nội ngoại sẽ mắng mỏ sau đó cho mấy trinh. Cả nhà ra ngõ cởi bỏ áo rách, ném bỏ bị gậy trở vào chúc Tết. Mục đích của tục này là giáo dục con cái phải chăm chỉ lao động, tìm cách vươn lên để kiếm tiền cho thấy ăn mày là nhục nhã.
Trong một chuyến công tác lên Mộc Châu, tôi nghỉ đêm ở nhà nghỉ ngay trung tâm thị trấn. Sáng dậy đi ăn sáng bà bán hàng thì thầm “chủ nhà nghỉ các bác ở buôn thuốc phiện còn cái nhà ba tầng bên cạnh là của một đôi vợ chồng chuyên đi ăn mày”. Cách kiếm tiền khác nhau nhưng bọn họ có điểm chung là mất tính người. Hà Nội năm 2014 vẫn đầy ăn mày thật và ăn mày giả và rất nhiều cảnh kéo áo nì nèo như ép người phải cho. Có cả nhóm chăn dắt ăn mày, bọn họ rất trẻ. Tháng 12-2014, báo An ninh Thủ đô đã có phóng sự về nạn chăn dắt và đã tìm ra ba trung niên ở Thanh Hóa đồng ý cho cha mẹ già làm ăn mày “thuê” cho những kẻ chăn dắt để một tháng nhận một triệu đồng.
Có ăn mày chuyên nghiệp nghĩa là một bộ phận dân chúng chả cần tự trọng chả cần xấu hổ. Không chỉ ăn mày tiền bạc, bây giờ còn có cả “ăn mày quá khứ”, “ăn mày thanh lịch”...
/36
|