Hôm sau phủ Phúc Vương đưa không ít thứ tới, nói là quà cảm ơn. Thiệu Trọng tự nhiên hiểu được Phúc Vương điện hạ đây là cảm ơn điều gì, vì vậy không chút khách khí thu nhận toàn bộ.
Lương Khang cứ như đồ nhà quê mới lên tỉnh, rương nào cũng giở ra coi một lần, cầm lên bình phẩm từng thứ, miệng thì cứ luyên thuyên không ngớt. Thiệu Trọng ngẫm nghĩ dù sao hắn ta cũng chưa phục hồi lại từ đả kích “Nhị sư tỷ sắp lập gia đình”, nên cũng không thèm quản, mặc Lương Khang cứ như đồ điên lải nhải không ngừng.
Y ngồi trong phòng pha trà, ấm nước trên bếp lò bùn đỏ sôi trào, Thiệu Trọng vừa cầm lên rót vào bình, thì bỗng Lương Khang xông vào, cầm một chiếc hồ lô ngọc (1) giơ lên nói: “Trọng ca nhi, cái hồ lô ngọc này đẹp quá, cho huynh được không? Đợi khi Nhị sư tỷ trở về, huynh cầm nó đi dỗ nàng ấy.”
Hiếm khi Lương Khang biết tự giác tặng đồ dụ dỗ cô nương, nên Thiệu Trọng tự nhiên hào phóng rồi, y phất tay nói: “Sư huynh đi nhà kho chọn thêm đi, thấy cái gì hợp mắt thì cứ lấy, việc chung thân đại sự của huynh là việc lớn, mấy thứ này chỉ là vật ngoài thân thôi.”
Lương Khang lập tức kích động đến sáng mắt, hận sao không thể phóng tới hôn Thiệu Trọng một cái.
Hắn đã nhớ nhung đồ đạc trong kho của Thiệu Trọng không phải chỉ một hai ngày, mấy năm nay, Thiệu Trọng dựa vào mấy cửa hàng và trang viên mẫu thân y để lại nên kiếm được không ít tiền, lại còn hợp tác với Phúc Vương buôn kim loại ở phía Nam, nên luôn có một ít đồ chơi hiếm lạ mà kinh thành không có, làm Lương Khang thèm đến tròng mắt muốn rớt cả ra. Nay vất vả lắm Thiệu Trọng mới đồng ý cho vào chọn đồ, đương nhiên là hắn phải phóng nhanh hơn thỏ rồi.
Thiệu Trọng vừa cầm tách lên chuẩn bị pha trà, bỗng dưng Lương Khang lại trở ra, vẻ mặt đột nhiên trịnh trọng, cũng không nhắc đến chuyện nhà kho, vẻ mặt nghiêm túc hỏi: “Trọng ca nhi này, đệ nói xem, Đại sư huynh nhà chúng ta và Phúc Vương điện hạ, hai người bọn họ — rốt cuộc — ai mới là vợ đây?” Hôm qua hắn bị dọa đến ngu người, mặc nhiên không nhớ nổi chuyện này, lúc nãy vừa vào nhà kho chọn đồ, bỗng nhiên nhớ ra, vì vậy cũng không thèm chọn, vội chạy ra ngoài thảo luận với Thiệu Trọng.
“Nếu huynh muốn biết, không bằng tự huynh đi hỏi Đại sư huynh đi.” Thiệu trọng liếc mắt nhìn hắn, cười như không cười trả lời.
Lương Khang lập tức run cầm cập, lạnh toát từ đầu đến chân, tội nghiệp nói: “Như vậy không phải muốn mạng huynh sao?!”
Cuối cùng Thiệu Trọng cũng cười, nâng tách trà lên thổi thổi lớp bọt trên mặt nước, khẽ đáp: “Đòi mạng huynh, chả nhẽ đệ đây chán sống? Chuyện của Đại sư huynh cũng dám tùy tiện bàn tán, không muốn sống nữa hả? Chuyện của huynh ấy và Phúc Vương là chuyện chúng ta có thể bận tâm sao? Nếu huynh muốn biết, đi mà giật dây sư phụ ấy, đừng có khích đệ, vô dụng thôi!”
Mặc dù thật ra y cũng muốn biết lắm, bất quá y lại càng hiểu, mạng nhỏ quan trọng hơn.
“Bất quá nếu chiếu theo tướng mạo của Phúc Vương gia, chậc chậc —”, Thiệu Trọng cố ý tặc hai tiếng, lại nâng tách trà lên thổi thổi, ung dung thong thả đẩy đẩy nắp trà (2), cười cười không nói.
Lương Khanh nhìn y, trong đầu bỗng nhiên lướt qua một vài hình ảnh không thích hợp lắm, lại không nhịn được run lập cập. Hồi sau hắn mới lên tiếng khẽ mắng Thiệu Trọng: “Trọng ca nhi, tên xấu xa này, nếu đã nói không biết, còn gợi ý thêm làm gì nữa hả, lỡ hôm nào tôi lỡ miệng với Đại sư huynh, không phải muốn mạng của tôi hay sao?”
Thiệu Trọng toét miệng cười, hớn ha hớn hở như con nít: “Ôi Tam sư huynh nhà chúng ta thông minh rồi, không dễ gì đâu nha!”
“Vậy đệ nói xem hai người bọn họ ai là vợ?”
Thiệu Trọng: “…..”
Thiệu Trọng bảo Thường An mang đồ bên Phúc Vương đưa tới sắp xếp lại một lượt, chọn mấy món to lớn kệch cợm cho vào kho, còn lại, y chọn ra mấy món tinh xảo chuẩn bị đưa cho Thất Nương, còn dư lại y lại cẩn thận chia lần nữa, rồi bảo Thường An tìm hộp để vào, sau đó mang tất cả sang Hầu phủ.
Lương Khang thấy vậy, dùng sức gật đầu nói: “Vẫn là Trọng ca nhi cao tay, trước là đem mẹ vợ cùng em vợ thu mua, cô nương nhà họ sớm muộn gì cũng đến tay đệ thôi.”
Thiệu Trọng chắp tay sau lưng đứng trong sân, bày ra tư thái phong độ hào phóng, lại không chút khiêm tốn trả lời: “Nếu đầu óc huynh sớm mở mang một chút, cũng không đến nỗi đến mức này đâu. Sau này để ý một chút, chứ Nhị sư tỷ mà gả cho người khác rồi, huynh có muốn dỗ cũng chẳng được đâu.”
“Cậu đây là xát muối vào vết thương của tôi đấy (*)!” Lương Khang bị tổn thương, buồn bã giậm chân, tức mình, xoay người trở về phòng liếm vết thương. Thiệu Trọng không thèm để ý tới hắn.
Bên này, Lư phủ cũng nhanh chóng nhận được đồ, hiển nhiên Lão thái thái lại cảm khái một phen, xong, lại vội vàng dặn dò Hồ thị đáp lễ, bà nói: “Trọng ca nhi làm người phúc hậu, chúng ta cũng không thể để thằng bé thua thiệt. Đâu cũng sắp đến Trung Thu, Tân Nha con xem rồi chuẩn bị đồ đáp lễ tốt vào nhé. Thằng bé cô độc một mình, rất đáng thương.”
“Đúng đấy ạ.” Hồ thị khéo léo tiếp lời: “Con dâu cẩn thận xem qua đồ Thiệu công tử đưa tới, hộp của Lão thái thái là một cây nhân sâm, Đại tẩu là một ống tiêu (3), của con dâu là một thất lụa Hàng Châu, rồi Thụy ca nhi, Dập ca nhi, Bích nha đầu và Yên nhi, à, còn có Tam đệ muội và Ngọc nhi nữa, không sót một ai, tất cả đều có, lại còn vô cùng thỏa đáng nữa, thằng bé này, quả thật là vừa cẩn thận lại vừa chu đáo.”
Lúc nói chuyện, Hứa thị cũng dẫn Thất Nương tới. Nghe nói Thiệu Trọng tặng đồ sang, Hứa thị cũng chỉ cười cười, còn Thất Nương thì không khỏi cảm thấy có chút khác thường. Nàng nhớ lại ánh mắt Thiệu Trọng lúc rời đi hôm qua, là kinh ngạc lại bất ngờ, thậm chí còn mang theo sự tức giận và hốt hoảng. Thất Nương nghĩ mãi không ra, rốt cuộc là chuyện gì mà khiến Thiệu Trọng mất hồn mất vía đến thế?
Hôm qua còn mặt mũi cau có, sao nay lại mang đồ qua tặng rồi? Tính tình ông Thiệu Trọng này cũng thất thường quá nhỉ?! Thất Nương thầm mắng trong lòng, nhưng lại cẩn thận mở hộp ra nhìn một chút, bên trong là một cái mặt dây chuyền bằng ngọc, hình đậu phộng, trông rất tinh xảo đáng yêu (4).
“Thiệu công tử thật khách khí, không ngờ còn nghĩ đến con và Yên nhi nữa.” Thất Nương cười nói, đậy nắp hộp lại, đang định thả lại vào tay Thái Lam, bỗng nhiên tay run lên, nàng cảm thấy có chút không thích hợp, mới thu tay lại, tự mình cầm.
Lư Thụy và Lư Dập còn đang đi học ở học đường, Lư Yên thì đang ngủ trưa, Thất Nương cùng mấy vị trưởng bối tán gẫu một lúc, sau mới cáo từ trở về Ỷ Mai viên.
Nàng bảo Thái Lam ra ngoài pha trà, tự mình đóng cửa, rồi tra xét xung quanh, đảm bảo là không có ai xong mới cẩn thận nghiên cứu cái hộp. Ngũ giác của Thất Nương khác với người thường, lúc nãy cầm cái hộp trên tay nàng đã cảm giác có gì đó không đúng, giờ cẩn thận tra xét một cái, quả nhiên phát hiện dưới đáy còn một tầng nữa. Mở ra xem, mới phát hiện còn một đôi hoa tai ngọc trai màu hồng, cùng với một cặp vòng ngọc xanh lục trong suốt (5).
Thời nay vàng bạc dễ có, nhưng ngọc trai và ngọc thượng đẳng lại hiếm thấy, Thất Nương không biết hàng, vẫn có thể nhìn ra hai món này giá trị không nhỏ. Nếu như lúc trước Thiệu Trọng ném tranh, ném nhạc khúc làm Thất Nương thấy bực mình, thì những món đồ trong chiếc hộp này đã khiến Thất Nương hiểu được tâm ý của Thiệu Trọng. Dẫu sao, chẳng có ai rỗi hơi đi ném đồ vật quý trọng thế này cho người khác chơi cả.
Nhưng mà, rốt cuộc là chuyện gì xảy ra vậy?
Âm thầm trao nhận, âm thầm trao đổi! Chỉ cần Thất Nương đem vật trong hộp này đưa ra ngoài, thì thanh danh nhiều năm nay Thiệu Trọng xây dựng sẽ đi tong hết! Rốt cuộc hắn ta dựa vào cái gì mà chắc chắn rằng nàng sẽ không chuyện này báo ra ngoài? Dựa vào mã đẹp trai?
Xí! Thất Nương không nhịn được xí một cái, thầm mắng một tiếng “đồ lưu manh”, nhưng lại cầm đồ vật trong tay đem cất. Không dám để người khác trông thấy, nên phải bỏ vào ngăn tủ, khóa lại.
Lát sau Thái Lam bưng trà vào, cười nói với Thất Nương: “Nô tỳ vừa nghe ma ma dưới phòng bếp nói, Lão thái thái định mời Thiệu công tử sang phủ chúng ta cùng đón Trung Thu. Đều đã dặn phòng bếp luôn rồi, để phòng bếp lên thực đơn. Làm đầu bếp Thôi suy nghĩ muốn rụng hết cả tóc đấy ạ.”
Thất Nương rất bất ngờ, ngập ngừng hỏi: “Sẽ…sẽ làm mất lòng Thiệu gia nhỉ. Nói gì đi nữa thì đó cũng là Đại công tử Thiệu gia, nếu Trung Thu lại qua ở nhà người khác, truyền đi sợ là không tốt.”
“Vậy thì sao đâu ạ.” Thái Lam vẻ mặt tức giận: “Cả kinh thành này ai mà không biết mấy chuyện bẩn thiểu của phủ Quốc Công, từ 7 năm trước Đại công tử chuyển ra ngoài đến giờ, chưa từng trở về qua. Dù sao trở về cũng bị đuổi ra ngoài, cần gì tự rước lấy nhục. Cũng là Đại công tử không so đo, chứ là người khác, không ồn ào lên trên mới lạ.” Nói xong, nàng ta lại bày vẻ mặt thương cảm, rồi tự thuật lại những khó khăn gian khổ mấy năm nay của Thiệu Trọng, cứ như chính mắt nàng ta chứng kiến qua vậy.
Ngay cả Thái Lam xưa nay già dặn chững chạc cũng nói như thế, có thể tưởng tượng được trong kinh thành truyền đi thành cái dạng gì rồi, coi như về sau phủ Quốc Công có rơi vào tay hai người em trai của Thiệu Trọng, cũng là danh không chính ngôn không thuận, bị người đời nghị luận. Hắn không có được, người khác cũng đừng mong được tốt, không thể không nói, chiêu này của Thiệu Trọng đủ độc.
Thất Nương suy nghĩ một chút rồi nhỏ giọng nói khẽ: “Có khi Thiệu công tử còn mong cách phủ Quốc Công xa một chút nữa ấy chứ.” Giọng nàng rất nhỏ, nên Thái Lam không nghe thấy.
Hai người trò chuyện một chút, lại ăn chút điểm tâm, sau đó Thất Nương lấy chiếc khăn tay đang thêu dang dở ra thêu tiếp, bỗng nha hoàn bên ngoài lên tiếng bẩm: “Đại tiểu thư, Tam tiểu thư tới ạ.”
Chưa dứt lời, Lư Yên đã “thình thịch —” chạy vào phòng, giơ ngọc thiền (con ve bằng ngọc) (6) trong tay lên, vui vẻ nhào vào lòng Thất Nương, đắc ý khoe khoang nói: “Đại tỷ tỷ xem nè, đây là của Thiệu tiên sinh cho muội đó, thật xinh đẹp.”
Thiệu Trọng đưa cho các tiểu thư trong phủ đều là những vật nhỏ bằng ngọc, chất ngọc cũng không phải thượng đẳng, nhưng thắng ở chỗ điêu khắc tinh xảo, lại giàu linh tính. Thất Nương là hạt đậu phộng bằng ngọc, Nhị tiểu thư Lư Ngọc là chùm nho bằng ngọc, Lư Yên thì trẻ con hơn, một con ngọc thiền.
Thất Nương cầm lấy ngọc thiền từ tay Lư Yên rồi cẩn thận quan sát, ngọc thiền không chỉ tinh xảo tỉ mỉ, ngay cả đường vân trên cánh cũng có thể nhìn thấy rõ ràng, trông vô cùng sống động, bảo sao ngay cả Lư Yên thường thấy đồ tốt vẫn yêu thích con ngọc thiền này đến thế.
“Thích thì cẩn thận cất đi, đừng mang đi khoe khoang, nhỡ bị trầy, lúc đó lại đau lòng đấy.” Thất Nương gãy nhẹ cái mũi nhỏ của Lư Yên, mỉm cười trêu chọc.
Lư Yên nghe vậy, vội vàng cất ngọc thiền vào hà bao, cột chắc vào người xong, cách áo khoác vỗ một cái, rồi đắc ý nói: “Xong, thế này có ngã muội cũng không sợ đâu.”
Thất Nương ôm cô bé đến sạp bên cửa sổ ngồi xuống, lại bảo Thái Lam lấy ít quả hạch và quả mơ tới, bản thân thì đi rót trà cho Lư Yên, hai tỷ muội thân thiết tựa vào nhau trò chuyện.
Tiểu cô nương nhỏ tuổi, nói chuyện cũng không ngượng ngùng như người lớn, thấy bọn nha hoàn ra ngoài hết, Lư Yên mới lại gần Thất Nương, chớp chớp mắt nói: “Muội rất thích Thiệu tiên sinh và Đại tỷ tỷ, nhưng mà, muội còn nhỏ quá, không thể lập gia đình được. Không bằng, Đại tỷ tỷ gả cho Thiệu tiên sinh đi. Sau này chúng ta thành thân thích, Đại tỷ tỷ có thể về nhà thường xuyên, Thiệu tiên sinh thành tỷ phu của muội, là có thể đến phủ chúng ta chơi rồi, còn có thể cho Yên nhi nhiều đồ chơi hay hay nữa.”
Thất Nương nghẹn một cái, miệng đầy nước trà “Phốc —”một cái phun ra ngoài!
PHIÊN NGOẠI NHỎ:
Nhiều năm sau, vào một buổi tối nào đó, Thiệu Trọng bỗng nhiên nổi hứng, mang chuyện đời trước ra làm chuyện kể cho Thất Nương nghe. Khi y kể đến đoạn sáng nào y cũng lên núi núp sau tảng đá nghe nàng đánh đàn, bất kể trời mưa hay nắng, bỗng nhiên Thất Nương mở miệng, giọng điệu khẳng định: “Không thể nào!”
Thiệu Trọng sờ mũi, nói: “Vốn chỉ là mộng, trong một nó thế.”
Thất Nương liếc y một cái, trở người, đem đầu vùi vào khủy tay y, khẽ nói: “Em nói là, không thể nào nghe lén được. Nhĩ lực của em, trong vòng trăm bước có thể nghe thấy tiếng lá rơi xuống bụi hoa, thế mà một người to như vậy núp sau tảng đá, mà lại núp đến 2 năm, làm sao em lại không biết được chứ. Không chỉ biết người, thậm chí còn biết là ai nữa kìa. Chỉ cần em gặp qua chàng một lần, cả đời này, em đều có thể nhớ được giọng nói của chàng, mùi của chàng, thậm chí, hơi thở của chàng nữa….”
Nàng vừa nói, giọng cũng dần nhỏ lại, ánh mắt cũng dần khép.
Lòng Thiệu Trọng chấn động.
Có một loại tình cảm không thể diễn tả bằng lời từ tận đáy lòng chàng chậm rãi rỉ ra, từng chút một lan tràn, từ đáy lòng đến huyết dịch, thẳng vào xương tủy. Trên người chàng như đang đốt một cây đuốc, cháy sạch chàng từ lỗ chân lông, rồi bắn ra vang dội, tứ chi đến đầu óc đều nổ tung…
“Sao vậy chàng?” Thất Nương mơ màng mở mắt, đưa tay sờ mặt Thiệu Trọng, đầu ngón tay ướt át lạnh lẽo. Thất Nương run lên, bật dậy, “A Trọng —”
Mới vừa mở miệng đã bị chặn lại, sau đó là thân thể cứng rắn, Thiệu Trọng thật như một cây đuốc, nhiệt tình bùng cháy với Thất Nương…
Chú thích:
(*) Na hồ bất khai đề na hồ [哪壶不开提哪壶] – thành ngữ ý chỉ : Nếu một ấm nước không sôi, nó sẽ không tạo ra bất kì âm thanh nào, nghĩa là ấm nước đó bị hỏng. Nhưng nếu một người đã biết ấm nước đó hỏng vẫn cố tình chọn nó, có nghĩa là người đó muốn phô bày điểm hỏng đó ra. Trong trường hợp này, Thiệu Trọng đã biết điểm yếu Lương Khang là không cưa được Nhị sư tỷ, sợ Nhị sư tỷ lấy chồng nhưng vẫn cứ đem ra trêu chọc hắn nên ở đây mình thay thế bằng “xát muối vào vết thương”.
Lương Khang cứ như đồ nhà quê mới lên tỉnh, rương nào cũng giở ra coi một lần, cầm lên bình phẩm từng thứ, miệng thì cứ luyên thuyên không ngớt. Thiệu Trọng ngẫm nghĩ dù sao hắn ta cũng chưa phục hồi lại từ đả kích “Nhị sư tỷ sắp lập gia đình”, nên cũng không thèm quản, mặc Lương Khang cứ như đồ điên lải nhải không ngừng.
Y ngồi trong phòng pha trà, ấm nước trên bếp lò bùn đỏ sôi trào, Thiệu Trọng vừa cầm lên rót vào bình, thì bỗng Lương Khang xông vào, cầm một chiếc hồ lô ngọc (1) giơ lên nói: “Trọng ca nhi, cái hồ lô ngọc này đẹp quá, cho huynh được không? Đợi khi Nhị sư tỷ trở về, huynh cầm nó đi dỗ nàng ấy.”
Hiếm khi Lương Khang biết tự giác tặng đồ dụ dỗ cô nương, nên Thiệu Trọng tự nhiên hào phóng rồi, y phất tay nói: “Sư huynh đi nhà kho chọn thêm đi, thấy cái gì hợp mắt thì cứ lấy, việc chung thân đại sự của huynh là việc lớn, mấy thứ này chỉ là vật ngoài thân thôi.”
Lương Khang lập tức kích động đến sáng mắt, hận sao không thể phóng tới hôn Thiệu Trọng một cái.
Hắn đã nhớ nhung đồ đạc trong kho của Thiệu Trọng không phải chỉ một hai ngày, mấy năm nay, Thiệu Trọng dựa vào mấy cửa hàng và trang viên mẫu thân y để lại nên kiếm được không ít tiền, lại còn hợp tác với Phúc Vương buôn kim loại ở phía Nam, nên luôn có một ít đồ chơi hiếm lạ mà kinh thành không có, làm Lương Khang thèm đến tròng mắt muốn rớt cả ra. Nay vất vả lắm Thiệu Trọng mới đồng ý cho vào chọn đồ, đương nhiên là hắn phải phóng nhanh hơn thỏ rồi.
Thiệu Trọng vừa cầm tách lên chuẩn bị pha trà, bỗng dưng Lương Khang lại trở ra, vẻ mặt đột nhiên trịnh trọng, cũng không nhắc đến chuyện nhà kho, vẻ mặt nghiêm túc hỏi: “Trọng ca nhi này, đệ nói xem, Đại sư huynh nhà chúng ta và Phúc Vương điện hạ, hai người bọn họ — rốt cuộc — ai mới là vợ đây?” Hôm qua hắn bị dọa đến ngu người, mặc nhiên không nhớ nổi chuyện này, lúc nãy vừa vào nhà kho chọn đồ, bỗng nhiên nhớ ra, vì vậy cũng không thèm chọn, vội chạy ra ngoài thảo luận với Thiệu Trọng.
“Nếu huynh muốn biết, không bằng tự huynh đi hỏi Đại sư huynh đi.” Thiệu trọng liếc mắt nhìn hắn, cười như không cười trả lời.
Lương Khang lập tức run cầm cập, lạnh toát từ đầu đến chân, tội nghiệp nói: “Như vậy không phải muốn mạng huynh sao?!”
Cuối cùng Thiệu Trọng cũng cười, nâng tách trà lên thổi thổi lớp bọt trên mặt nước, khẽ đáp: “Đòi mạng huynh, chả nhẽ đệ đây chán sống? Chuyện của Đại sư huynh cũng dám tùy tiện bàn tán, không muốn sống nữa hả? Chuyện của huynh ấy và Phúc Vương là chuyện chúng ta có thể bận tâm sao? Nếu huynh muốn biết, đi mà giật dây sư phụ ấy, đừng có khích đệ, vô dụng thôi!”
Mặc dù thật ra y cũng muốn biết lắm, bất quá y lại càng hiểu, mạng nhỏ quan trọng hơn.
“Bất quá nếu chiếu theo tướng mạo của Phúc Vương gia, chậc chậc —”, Thiệu Trọng cố ý tặc hai tiếng, lại nâng tách trà lên thổi thổi, ung dung thong thả đẩy đẩy nắp trà (2), cười cười không nói.
Lương Khanh nhìn y, trong đầu bỗng nhiên lướt qua một vài hình ảnh không thích hợp lắm, lại không nhịn được run lập cập. Hồi sau hắn mới lên tiếng khẽ mắng Thiệu Trọng: “Trọng ca nhi, tên xấu xa này, nếu đã nói không biết, còn gợi ý thêm làm gì nữa hả, lỡ hôm nào tôi lỡ miệng với Đại sư huynh, không phải muốn mạng của tôi hay sao?”
Thiệu Trọng toét miệng cười, hớn ha hớn hở như con nít: “Ôi Tam sư huynh nhà chúng ta thông minh rồi, không dễ gì đâu nha!”
“Vậy đệ nói xem hai người bọn họ ai là vợ?”
Thiệu Trọng: “…..”
Thiệu Trọng bảo Thường An mang đồ bên Phúc Vương đưa tới sắp xếp lại một lượt, chọn mấy món to lớn kệch cợm cho vào kho, còn lại, y chọn ra mấy món tinh xảo chuẩn bị đưa cho Thất Nương, còn dư lại y lại cẩn thận chia lần nữa, rồi bảo Thường An tìm hộp để vào, sau đó mang tất cả sang Hầu phủ.
Lương Khang thấy vậy, dùng sức gật đầu nói: “Vẫn là Trọng ca nhi cao tay, trước là đem mẹ vợ cùng em vợ thu mua, cô nương nhà họ sớm muộn gì cũng đến tay đệ thôi.”
Thiệu Trọng chắp tay sau lưng đứng trong sân, bày ra tư thái phong độ hào phóng, lại không chút khiêm tốn trả lời: “Nếu đầu óc huynh sớm mở mang một chút, cũng không đến nỗi đến mức này đâu. Sau này để ý một chút, chứ Nhị sư tỷ mà gả cho người khác rồi, huynh có muốn dỗ cũng chẳng được đâu.”
“Cậu đây là xát muối vào vết thương của tôi đấy (*)!” Lương Khang bị tổn thương, buồn bã giậm chân, tức mình, xoay người trở về phòng liếm vết thương. Thiệu Trọng không thèm để ý tới hắn.
Bên này, Lư phủ cũng nhanh chóng nhận được đồ, hiển nhiên Lão thái thái lại cảm khái một phen, xong, lại vội vàng dặn dò Hồ thị đáp lễ, bà nói: “Trọng ca nhi làm người phúc hậu, chúng ta cũng không thể để thằng bé thua thiệt. Đâu cũng sắp đến Trung Thu, Tân Nha con xem rồi chuẩn bị đồ đáp lễ tốt vào nhé. Thằng bé cô độc một mình, rất đáng thương.”
“Đúng đấy ạ.” Hồ thị khéo léo tiếp lời: “Con dâu cẩn thận xem qua đồ Thiệu công tử đưa tới, hộp của Lão thái thái là một cây nhân sâm, Đại tẩu là một ống tiêu (3), của con dâu là một thất lụa Hàng Châu, rồi Thụy ca nhi, Dập ca nhi, Bích nha đầu và Yên nhi, à, còn có Tam đệ muội và Ngọc nhi nữa, không sót một ai, tất cả đều có, lại còn vô cùng thỏa đáng nữa, thằng bé này, quả thật là vừa cẩn thận lại vừa chu đáo.”
Lúc nói chuyện, Hứa thị cũng dẫn Thất Nương tới. Nghe nói Thiệu Trọng tặng đồ sang, Hứa thị cũng chỉ cười cười, còn Thất Nương thì không khỏi cảm thấy có chút khác thường. Nàng nhớ lại ánh mắt Thiệu Trọng lúc rời đi hôm qua, là kinh ngạc lại bất ngờ, thậm chí còn mang theo sự tức giận và hốt hoảng. Thất Nương nghĩ mãi không ra, rốt cuộc là chuyện gì mà khiến Thiệu Trọng mất hồn mất vía đến thế?
Hôm qua còn mặt mũi cau có, sao nay lại mang đồ qua tặng rồi? Tính tình ông Thiệu Trọng này cũng thất thường quá nhỉ?! Thất Nương thầm mắng trong lòng, nhưng lại cẩn thận mở hộp ra nhìn một chút, bên trong là một cái mặt dây chuyền bằng ngọc, hình đậu phộng, trông rất tinh xảo đáng yêu (4).
“Thiệu công tử thật khách khí, không ngờ còn nghĩ đến con và Yên nhi nữa.” Thất Nương cười nói, đậy nắp hộp lại, đang định thả lại vào tay Thái Lam, bỗng nhiên tay run lên, nàng cảm thấy có chút không thích hợp, mới thu tay lại, tự mình cầm.
Lư Thụy và Lư Dập còn đang đi học ở học đường, Lư Yên thì đang ngủ trưa, Thất Nương cùng mấy vị trưởng bối tán gẫu một lúc, sau mới cáo từ trở về Ỷ Mai viên.
Nàng bảo Thái Lam ra ngoài pha trà, tự mình đóng cửa, rồi tra xét xung quanh, đảm bảo là không có ai xong mới cẩn thận nghiên cứu cái hộp. Ngũ giác của Thất Nương khác với người thường, lúc nãy cầm cái hộp trên tay nàng đã cảm giác có gì đó không đúng, giờ cẩn thận tra xét một cái, quả nhiên phát hiện dưới đáy còn một tầng nữa. Mở ra xem, mới phát hiện còn một đôi hoa tai ngọc trai màu hồng, cùng với một cặp vòng ngọc xanh lục trong suốt (5).
Thời nay vàng bạc dễ có, nhưng ngọc trai và ngọc thượng đẳng lại hiếm thấy, Thất Nương không biết hàng, vẫn có thể nhìn ra hai món này giá trị không nhỏ. Nếu như lúc trước Thiệu Trọng ném tranh, ném nhạc khúc làm Thất Nương thấy bực mình, thì những món đồ trong chiếc hộp này đã khiến Thất Nương hiểu được tâm ý của Thiệu Trọng. Dẫu sao, chẳng có ai rỗi hơi đi ném đồ vật quý trọng thế này cho người khác chơi cả.
Nhưng mà, rốt cuộc là chuyện gì xảy ra vậy?
Âm thầm trao nhận, âm thầm trao đổi! Chỉ cần Thất Nương đem vật trong hộp này đưa ra ngoài, thì thanh danh nhiều năm nay Thiệu Trọng xây dựng sẽ đi tong hết! Rốt cuộc hắn ta dựa vào cái gì mà chắc chắn rằng nàng sẽ không chuyện này báo ra ngoài? Dựa vào mã đẹp trai?
Xí! Thất Nương không nhịn được xí một cái, thầm mắng một tiếng “đồ lưu manh”, nhưng lại cầm đồ vật trong tay đem cất. Không dám để người khác trông thấy, nên phải bỏ vào ngăn tủ, khóa lại.
Lát sau Thái Lam bưng trà vào, cười nói với Thất Nương: “Nô tỳ vừa nghe ma ma dưới phòng bếp nói, Lão thái thái định mời Thiệu công tử sang phủ chúng ta cùng đón Trung Thu. Đều đã dặn phòng bếp luôn rồi, để phòng bếp lên thực đơn. Làm đầu bếp Thôi suy nghĩ muốn rụng hết cả tóc đấy ạ.”
Thất Nương rất bất ngờ, ngập ngừng hỏi: “Sẽ…sẽ làm mất lòng Thiệu gia nhỉ. Nói gì đi nữa thì đó cũng là Đại công tử Thiệu gia, nếu Trung Thu lại qua ở nhà người khác, truyền đi sợ là không tốt.”
“Vậy thì sao đâu ạ.” Thái Lam vẻ mặt tức giận: “Cả kinh thành này ai mà không biết mấy chuyện bẩn thiểu của phủ Quốc Công, từ 7 năm trước Đại công tử chuyển ra ngoài đến giờ, chưa từng trở về qua. Dù sao trở về cũng bị đuổi ra ngoài, cần gì tự rước lấy nhục. Cũng là Đại công tử không so đo, chứ là người khác, không ồn ào lên trên mới lạ.” Nói xong, nàng ta lại bày vẻ mặt thương cảm, rồi tự thuật lại những khó khăn gian khổ mấy năm nay của Thiệu Trọng, cứ như chính mắt nàng ta chứng kiến qua vậy.
Ngay cả Thái Lam xưa nay già dặn chững chạc cũng nói như thế, có thể tưởng tượng được trong kinh thành truyền đi thành cái dạng gì rồi, coi như về sau phủ Quốc Công có rơi vào tay hai người em trai của Thiệu Trọng, cũng là danh không chính ngôn không thuận, bị người đời nghị luận. Hắn không có được, người khác cũng đừng mong được tốt, không thể không nói, chiêu này của Thiệu Trọng đủ độc.
Thất Nương suy nghĩ một chút rồi nhỏ giọng nói khẽ: “Có khi Thiệu công tử còn mong cách phủ Quốc Công xa một chút nữa ấy chứ.” Giọng nàng rất nhỏ, nên Thái Lam không nghe thấy.
Hai người trò chuyện một chút, lại ăn chút điểm tâm, sau đó Thất Nương lấy chiếc khăn tay đang thêu dang dở ra thêu tiếp, bỗng nha hoàn bên ngoài lên tiếng bẩm: “Đại tiểu thư, Tam tiểu thư tới ạ.”
Chưa dứt lời, Lư Yên đã “thình thịch —” chạy vào phòng, giơ ngọc thiền (con ve bằng ngọc) (6) trong tay lên, vui vẻ nhào vào lòng Thất Nương, đắc ý khoe khoang nói: “Đại tỷ tỷ xem nè, đây là của Thiệu tiên sinh cho muội đó, thật xinh đẹp.”
Thiệu Trọng đưa cho các tiểu thư trong phủ đều là những vật nhỏ bằng ngọc, chất ngọc cũng không phải thượng đẳng, nhưng thắng ở chỗ điêu khắc tinh xảo, lại giàu linh tính. Thất Nương là hạt đậu phộng bằng ngọc, Nhị tiểu thư Lư Ngọc là chùm nho bằng ngọc, Lư Yên thì trẻ con hơn, một con ngọc thiền.
Thất Nương cầm lấy ngọc thiền từ tay Lư Yên rồi cẩn thận quan sát, ngọc thiền không chỉ tinh xảo tỉ mỉ, ngay cả đường vân trên cánh cũng có thể nhìn thấy rõ ràng, trông vô cùng sống động, bảo sao ngay cả Lư Yên thường thấy đồ tốt vẫn yêu thích con ngọc thiền này đến thế.
“Thích thì cẩn thận cất đi, đừng mang đi khoe khoang, nhỡ bị trầy, lúc đó lại đau lòng đấy.” Thất Nương gãy nhẹ cái mũi nhỏ của Lư Yên, mỉm cười trêu chọc.
Lư Yên nghe vậy, vội vàng cất ngọc thiền vào hà bao, cột chắc vào người xong, cách áo khoác vỗ một cái, rồi đắc ý nói: “Xong, thế này có ngã muội cũng không sợ đâu.”
Thất Nương ôm cô bé đến sạp bên cửa sổ ngồi xuống, lại bảo Thái Lam lấy ít quả hạch và quả mơ tới, bản thân thì đi rót trà cho Lư Yên, hai tỷ muội thân thiết tựa vào nhau trò chuyện.
Tiểu cô nương nhỏ tuổi, nói chuyện cũng không ngượng ngùng như người lớn, thấy bọn nha hoàn ra ngoài hết, Lư Yên mới lại gần Thất Nương, chớp chớp mắt nói: “Muội rất thích Thiệu tiên sinh và Đại tỷ tỷ, nhưng mà, muội còn nhỏ quá, không thể lập gia đình được. Không bằng, Đại tỷ tỷ gả cho Thiệu tiên sinh đi. Sau này chúng ta thành thân thích, Đại tỷ tỷ có thể về nhà thường xuyên, Thiệu tiên sinh thành tỷ phu của muội, là có thể đến phủ chúng ta chơi rồi, còn có thể cho Yên nhi nhiều đồ chơi hay hay nữa.”
Thất Nương nghẹn một cái, miệng đầy nước trà “Phốc —”một cái phun ra ngoài!
PHIÊN NGOẠI NHỎ:
Nhiều năm sau, vào một buổi tối nào đó, Thiệu Trọng bỗng nhiên nổi hứng, mang chuyện đời trước ra làm chuyện kể cho Thất Nương nghe. Khi y kể đến đoạn sáng nào y cũng lên núi núp sau tảng đá nghe nàng đánh đàn, bất kể trời mưa hay nắng, bỗng nhiên Thất Nương mở miệng, giọng điệu khẳng định: “Không thể nào!”
Thiệu Trọng sờ mũi, nói: “Vốn chỉ là mộng, trong một nó thế.”
Thất Nương liếc y một cái, trở người, đem đầu vùi vào khủy tay y, khẽ nói: “Em nói là, không thể nào nghe lén được. Nhĩ lực của em, trong vòng trăm bước có thể nghe thấy tiếng lá rơi xuống bụi hoa, thế mà một người to như vậy núp sau tảng đá, mà lại núp đến 2 năm, làm sao em lại không biết được chứ. Không chỉ biết người, thậm chí còn biết là ai nữa kìa. Chỉ cần em gặp qua chàng một lần, cả đời này, em đều có thể nhớ được giọng nói của chàng, mùi của chàng, thậm chí, hơi thở của chàng nữa….”
Nàng vừa nói, giọng cũng dần nhỏ lại, ánh mắt cũng dần khép.
Lòng Thiệu Trọng chấn động.
Có một loại tình cảm không thể diễn tả bằng lời từ tận đáy lòng chàng chậm rãi rỉ ra, từng chút một lan tràn, từ đáy lòng đến huyết dịch, thẳng vào xương tủy. Trên người chàng như đang đốt một cây đuốc, cháy sạch chàng từ lỗ chân lông, rồi bắn ra vang dội, tứ chi đến đầu óc đều nổ tung…
“Sao vậy chàng?” Thất Nương mơ màng mở mắt, đưa tay sờ mặt Thiệu Trọng, đầu ngón tay ướt át lạnh lẽo. Thất Nương run lên, bật dậy, “A Trọng —”
Mới vừa mở miệng đã bị chặn lại, sau đó là thân thể cứng rắn, Thiệu Trọng thật như một cây đuốc, nhiệt tình bùng cháy với Thất Nương…
Chú thích:
(*) Na hồ bất khai đề na hồ [哪壶不开提哪壶] – thành ngữ ý chỉ : Nếu một ấm nước không sôi, nó sẽ không tạo ra bất kì âm thanh nào, nghĩa là ấm nước đó bị hỏng. Nhưng nếu một người đã biết ấm nước đó hỏng vẫn cố tình chọn nó, có nghĩa là người đó muốn phô bày điểm hỏng đó ra. Trong trường hợp này, Thiệu Trọng đã biết điểm yếu Lương Khang là không cưa được Nhị sư tỷ, sợ Nhị sư tỷ lấy chồng nhưng vẫn cứ đem ra trêu chọc hắn nên ở đây mình thay thế bằng “xát muối vào vết thương”.
/36
|