Kình phong từ bàn tay Ngũ Tông Hán giáng thẳng tới người mặc áo đen ngồi trên thạch đài. Khi lên tiếng, y đã ngầm vận khí, đòn phách không chưởng không ấy đã dùng hết công lực của toàn thân, luồng kình đạo cực kỳ uy mãnh, luồng chưởng phong phóng đến xa cả trượng mà lực đạo vẫn không giảm.
Người mặc áo đen trên thạch đài chợt bật cười quái dị, cây phướn dài trong tay quét ra một luồng cuồng phong đánh ngược trở lại rất uy mãnh. Cây phướn trong tay của y dài khoảng một trượng ba thước, khi y đưa tay quét tới thì vừa đúng tới ngay chỗ Ngũ Tông Hán đang đứng. Luồng chưởng lực phách không của Ngũ Tông Hán đánh ra bị luồng kình lực của quái nhân mặc áo đem cản lại, bị hóa giải trong vô hình, luồng kình phong của cây phướn dài đã tiến sát tới người y.
Ngũ Tông Hán thất kinh, vội vàng thối lui ba bước mới tránh được đòn ấy. Luồng lực đạo kinh người của người mặc áo đen kia không những khiến cho Ngũ Tông Hán thất kinh mà thối lui, cả Đại Phương thiền sư và Tiêu Dao Tử cũng giật mình.
Đại Phương thiền sư đưa tay lấy cây thiền trượng trong tay của một đệ tử, ngầm vận công lực của toàn thân, mặt mũi trang nghiêm mà bước tới, hạ giọng nói với Ngũ Tông Hán:
“Ngũ huynh, để lão nạp tiếp của y một chiêu xem thử”. Người mặc áo đen ấy vẫn ngồi yên, ngoại trừ hai cánh tay hoạt động, nửa thân dưới không hề nhúc nhích, cây phướn dài một trượng ba thước trong tay của y cứ múa may nhẹ nhàng cứ như chẳng có vật gì cả. Đại Phương thiền sư tiến tới phía trước bốn nắm bước, ngừng lại rồi cầm ngang cây thiền trượng, lạnh lùng nói:
“Lão nạp muốn lãnh giáo thí chủ ...”.
Người mặc áo đen ấy không đợi Đại Phương thiền sư nói hết. Quát lớn một tiếng gió cây phướn quét tới một luồng kình phong cuộn lên, thanh thế cực kỳ khiếp đảm.
Đại Phương thiền sư hai tay cầm trượng vụt ngang ra, tiếp lấy một đòn ấy. Chỉ nghe một tiếng chấn động kinh thiên động địa vang lên, người ngồi trên đài chợt lắc lư thân mình, còn Đại Phương thiền sư thì cũng hơi lảo đảo. Chợt nghe Đại Phương thiền sư cao giọng niệm một tiếng Phật hiệu:
“A di đà Phật! ”, rồi cây thiền trượng quét ra một chiêu Lực Tảo Ngũ Nhạc về phía cây phướn trong tay của người mặc áo đen. Trong chốc lát tiếng kim khí vang lên không ngớt trong tai, cây thiết trượng và cây phướn dài đã chạm nhau năm chiêu.
Năm chiêu này đều như dời núi lấp biển, quần hào tuy là người lão luyện, đã thấy không ít những trận chiến kinh tâm động phách, nhưng cũng chỉ lần đầu tiên thấy kiểu đánh này, ai nấy đều trố mắt ra nhìn. Lá phướn bằng vải trắng đã bị rách bươm, bay đi trong gió, cây phướn dài trong tay người mặc áo đen chỉ còn là một cây sắt.
Thiền sư Đại Phương vốn là người đức cao vọng trọng, sau khi tiếp mấy chiêu tựa như đã thực sự nổi giận, ông ta hơi ngừng lại một chút thì giơ tay đánh tiếp ra một trượng.
Người mặc áo đen trên thạch đài lại tiếp lấy một đòn ấy, đột nhiên há mồm phun ra một búng máu tươi. Đại Phương thiền sư nhướng mắt nhìn qua, chỉ thấy người áo đen ấy hơi ngửa người ra sau, dựa vào vách đá ở sau lưng, rõ ràng sau khi tiếp mấy trượng ấy thì đã sức cùng lực kiệt.
Đại Phương thiền sư thầm thở dài một tiếng, chậm rãi bước về phía thạch đài.
Chợt thấy người mặc áo đen ấy mở hai mắt, mặt lộ vẻ đau đớn, kêu rú lên một tiếng, rồi giơ cây gậy sắt bổ từ trên xuống. Đại Phương thiền sư tựa như đã đoán được điều này, ông ta vẫn còn sức đánh tiếp, thấy đối phương đột nhiên ra tay vừa dữ vừa nhanh, trong lòng không khỏi cả giận. Ông ta nhủ thầm:
“Lực tay kẻ nảy cương mãnh như thế, để lại sẽ là mầm họa”. Trong khi nghĩ như thế, cây thiền trượng đã giở ngang lên đỉnh đầu, tiếp lấy một gậy của người mặc áo đen, sau đó lật tay đánh ngược lại một trượng.
Ông ta đã dùng hết lực toàn thân để đánh ra trượng này, cho nên uy thế không thể xem thường, chỉ thấy người mặc áo đen ấy phun ra mấy ngụm máu tươi, cây gậy sắt trong tay cũng rơi xuống. Y gắng gượng lảo đảo một hồi, thân người chợt đổ về phía trước, treo bên mép thạch đài. Đại Phương thiền sư nhìn lại, thầm ngạc nhiên:
“Kẻ này rõ ràng đã bị lực phản chấn nội gia của mình đánh chết, tại sao lại không rơi xuống thách đài?” đến khi nhìn kỹ lại, chỉ thấy nửa thân trên của người mặc áo đen ấy tuy treo ngược bên mép thạch đài, nhưng tư thế ngồi của nửa thân dưới vẫn không thay đổi.
Cảnh ấy khiến cho người ta khó hiểu, Đại Phương thiền sư muốn tung mình vọt lên thạch đài xem cho rõ, nhưng Tiêu Dao Tử đã phóng lên trước, hạ xuống thạch đài.
Ông ta nhìn kỹ lại, trong lóng không khỏi giật mình. Té ra hai chân của người mặc áo đen đã bị một sợi dây màu đen cột trên thạch đài, hai xương đùi bị một sợi dây xích sắt xuyên qua, cột lại trên thạch đài, cho nên y tuy có thần lực ngàn cân nhưng cũng khó di chuyển thân thể. Ông ta chậm rãi giở áo của người áo đen lên, để cho quần hào ở dưới đài thấy hết rồi mới lộn ngược người xuống dưới thạch đài. Đại Phương thiền sư thở dài nhẹ một tiếng, nói:
“Xem ra Nhạc chủ Minh Nhạc tám phần là yêu phụ năm xưa sử dụng Thất Xảo Thoa, ngoại trừ mụ ta, e rằng chẳng thể tìm được người nào độc ác như thế”.
Trần Huyền Sương nhìn người áo đen bị khóa ở trên thạch đài, đột nhiên thở dài rồi nói:
“Người này không biết đã bị khóa trên thạch đài này bao lâu, hừ! Chả lẽ ngày nào y cũng ngồi với đám tượng đá này, mà không sợ tý nào sao?”.
Phương Triệu Nam nói:
“Y sợ cũng vô ích!”.
Trần Huyền Sương chợt nhớ lại mình đã nói rằng sẽ nhốt Phương Triệu Nam ở một nơi u cốc không có người đến, nàng nhoẻn miệng cười hỏi:
“Nam ca ca, nếu huynh bị người ta khóa như thế, huynh có sợ không?”.
Phương Triệu Nam lắc đầu:
“Nếu thực sự có một ngày như thế, sợ cũng vô ích!”.
Trần Huyền Sương vẫn dịu dàng nói:
“Dù huynh đến nơi đâu, muội cũng sẽ đi cùng huynh, hai chúng ta bên nhau, huynh đương nhiên không cần sợ nữa!”.
Lúc này Phương Triệu Nam nhìn lại, quần hào đã bước về phía trước vì thế nhẹ kéo tay áo Trần Huyền Sương nói:
“Lên đường!”.
Bốn nhà sư Thiếu Lâm hộ tống Đại Phương thiền sư đi ở hàng đầu, cứ đi khoảng hai ba trượng thì có một bức tượng bằng đá. Những người đá trông rất kỳ quái, trên mặt được bôi nhiều màu sắc khác nhau, trên tay thì cầm những loại binh khí kỳ lạ, nhìn từ xa thì trông rất sống động, khiến người ta không phân biệt được đâu là thật đâu là giả. Tuy giữa thanh thiên bạch nhật, nhưng ánh nắng ở đây tựa như đã yếu đi rất nhiều. Quần hào đều là người lão luyện nhưng chưa ai từng thấy cảnh kinh dị này ngoại trừ người mặc áo đen tay cầm phướn dài lúc nãy, đi vào ba bốn dặm mà mọi người vẫn không thấy người sống nào.
Ngoài tiếng bước chân xào xạc, người ta chẳng nghe được tiếng gì cả, dù là một tiếng ho cũng chẳng thấy. Đại Phương thiền sư dần dần nhanh chân, trong chốc lát lại đi được ba bốn dặm nữa. Một cơn gió núi thổi đến, hương hoa xộc vào mũi khiến cho người ta cảm thấy như ngây như ngất. Tiêu Dao Tử chợt dừng bước, lớn giọng nói:
“Đây là hương hoa gì, lão phu sao chưa từng ngửi qua?”.
Nghe ông ta nói như thế, quần hào đều cảm thấy loại hương hoa này rất kỳ dị, mùi hương rất nồng, trong đời họ chưa bao giờ ngửi qua. Nhướng mắt nhìn qua, chỉ thấy trước mặt có một rừng tùng um tùm cản lối, mùi hương hoa nồng nặc ấy phát ra từ trong rừng tùng. Đại Phương thiền sư đảo mắt nhìn rừng tùng ất một hồi, chỉ thấy thân cây thẳng băng, lá reo theo gió, rừng tùng ấy tuy ùm tùm nhưng chẳng thấy gì kỳ dị. Ông ta vẫn quay đầu lại hỏi với vẻ không yên tâm:
“Tiêu huynh hãy xem rừng tùng ấy có mai phục gì chăng?”.
Tiêu Dao Tử nói:
“Trong rừng tùng dù cho có ngầm đặt cung nỏ hay độc khí, bên ngoài cũng khó nhìn ra”.
Đại Phương thiền sư nói:
“Ý lão nạp muốn hỏi trong rừng tùng kia phải chăng có sắp đặt những trận thế như bát quái, cửu cung hay không?”.
Tiêu Dao Tử nói:
“Chỉ nhìn từ bề ngoài thì rừng tùng này có lẽ đã sống hàng trăm năm, vả lại mọc tự nhiên chứ không phải có người trồng, ả yêu phụ ấy chẳng qua lợi dụng rừng tùng tự nhiên này để sắp đặt xung quanh mà thôi”. Ông ta đã sống nhiều năm ở trong rùng sâu cho nên vừa nhìn thì đã biết cây cối đã sống được bao nhiêu năm. Đại Phương thiền sư múa cây thiền trượng trong tay, nói:
“Nếu rừng tùng không có trận thế kỳ môn độn giáp, chúng ta hãy bước vào xem thử!”.
Quần hào đều cất bước đi theo sau Đại Phương thiền sư.
Rừng tùng ấy xem ra rậm rạp, hướng không sâu lắm, chỉ trong chốc lát thì mọi người đã ra khỏi rừng tùng. Trước mắt toàn là hoa màu đỏ, mùi hương nồng nặc phát ra từ loại hoa này, mọi người đến gần thì mùi hương càng nồng hơn. Điều kỳ lạ là hoa ở đây toàn là màu đỏ, rõ ràng có người trồng. Mảnh đất trồng hoa này rộng đến khoảng năm mươi mẫu, hai bên là vách núi, ở dưới là hoa, ở giữa ruộng hoa ấy có một lối đi bằng đá trắng, lối đi này rất nhỏ, chỉ có thể chứa đủ một người bước qua. Ở một nơi âm u như địa ngục đột nhiên có một vườn hoa xinh đẹp như thế này. Trần Huyền Sương trên đường đến đây đã thấy những tượng đá quái dị, lúc này chợt thấy một vườn hoa màu đỏ, nàng tò mò đưa mắt nhìn quanh rồi thì thầm hỏi Phương Triệu Nam:
“Nam ca ca, đây là hoa gì, sao muội chưa từng gặp?”.
Phương Triệu Nam lắc đầu:
“Loại hoa này trông rất quái lạ, huynh cũng chưa thấy bao giờ”.
Đại Phương thiền sư đột nhiên tung mình vọt một cái lên đến con đường nhỏ bằng đá, sải bước tiến về phía trước. Quần hào nối đuôi theo sau, băng qua con đường nhỏ vượt qua vườn hoa. Cả đoạn đường không hề có trở ngại gì, đi qua mấy ngã núi, hoa cũng không còn nữa, trước mắt là một mảnh đất trống rộng rãi.
Cỏ xanh mơn mởn, tùng trúc đùa trong gió, lại là một cảnh đẹp mắt nữa. Ở phía xa là một ngọn núi cao chót vót, đứng sừng sững giữa bãi cỏ xanh, một lớp mây trắng mờ mịt bao phủ lấy ngọn núi ấy. Đại Phương thiền sư tuy tinh mắt nhưng cũng không thể nhìn thấy được rõ ràng cảnh vật ở trên đỉnh núi. Tiêu Dao Tử chỉ tay về phía đỉnh núi rồi nói:
“Ngọn núi trong mây ấy chắc đã là Minh Nhạc?”.
Đại Phương thiền sư ngẩng đầu, suy nghĩ một hồi rồi nói:
“Đúng vậy, giữa lúc trời trong xanh, ánh nắng chói chang mà mây mù bao phủ, âm khí năng nề, chỉ nhìn bề ngoài thôi cũng đã thấy không sai”.
Tiêu Dao Tử ngẩng mặt hú dài rồi nói:
“Chúng ta hãy tới chân núi xem thử”. Rồi cất bước tiến về phía trước. Quần hào đều thi triển thuật khinh công lướt nhanh như sao xẹt đi theo sau Tiêu Dao Tử phóng tới chân ngọn núi mây mù bao phủ ấy. Chỉ trong chốc lát, đi được ba bốn dặm đường thì tới chân núi. Nhướng mắt nhìn lên, chỉ thấy sương trắng bao phủ ngọn núi, quần hào tuy cách ngọn núi có ba bốn trượng nhưng vẫn không nhìn thấy cảnh vật ở trên. Đại Phương thiền sư nhíu mày, nói:
“Mây ở đâu mà bao phủ cả ngọn núi ...”.
Tụ Thủ Tiều Ẩn Sử Mưu Độn chợt chen vào hỏi:
“Đại sư có cảm thấy thời tiết ở nơi này có điều chi không ổn không?” ông ta vừa nhắc thì quần hào lập tức cảnh giác chỉ cảm thấy sau khi đến ngọn núi này thì khí hậu đột nhiên nóng nực hơn rất nhiều.
Chỉ nghe một tiếng cười lạnh nói:
“Lão phu bình sinh không bao giờ tin yêu ma, cho nên lão phu cũng không tin người ở Trung Nguyên biết sử dụng yêu pháp”. Mọi người quay đầu nhìn lại, chỉ thấy người lên tiếng ấy chính là ông già lùn đã sử dụng Vô Ảnh thần quyền, ông ta đang tiến về phía trước. Tụ Thủ Tiều Ẩn lạnh lùng nói:
“Đại mạc Tây Vực là nơi băng thiên tuyết địa, đương nhiên hiếm thấy núi lửa ...”.
Ông già ấy chợt quay đầu nhìn lại hỏi:
“Cái gì?”.
Đại Phương thiền sư sợ hai người lại tranh cãi với nhau dẫn đến xung đột, vội vàng chen vào nói:
“Ở vùng Đông Nam thường có chuyện nổ núi lửa, không biết huynh đài có nghe nói đến chưa?”.
Tiêu Dao Tử tiếp lời:
“Sử huynh vừa nhắc thì đã giúp cho lão hủ hiểu ra, ở nơi núi non trùng điệp thế này sao lại có một mảnh đất phì nhiêu, chắc là hàng trăm năm trước có một ngọn núi lửa sau khi nổ thì chỉ còn lại một đỉnh núi, còn xung quanh là đất bằng, đỉnh núi này e rằng có lẽ cũng là một ngọn núi lửa, cho nên mới có mây mù bốc lên ...”.
Chợt nghe Đại Phương thiền sư trầm giọng hỏi:
“Đó là gì?”.
Quần hào định thần nhìn tới, chỉ thấy trong mây mù dày đặc có một tấm biển chậm rãi thò ra, trên đó có mấy chữ viết bằng máu:
“Trong mây mù có độc chướng, nếu không được mời thì đừng lên núi!” ông già lùn ấy vừa nhìn thấy tấm biển thì chậm rãi lùi ra sau hai bước. Y định hỏi Đại Phương thiền sư, bỗng sau tấm biển ấy có ba người chậm rãi bước ra. Ba người này dàn hàng ngang bước tới. Quần hào vừa nhìn thì ai nấy đều đã động lòng. Té ra ba người sánh vai nhau bước tới là ba người đẹp tuyệt thế. Người ở giữa tương đối lớn hơn, tóc bới thành búi, trên lưng cắm thanh bảo kiếm, trong tay thì đang cầm một vật kỳ lạ trông giống như sừng nai mà đỏ như lửa, mặc y phục màu xanh lam, nhưng khuôn mặt thì lạnh lẽo. Người đi bên phải mặc đồ đỏ, tóc dài phủ vai, trong tay cầm cây phất trần, trên người cũng cắm thanh bảo kiếm.
Người đi bên trái toàn thân mặc y phục màu trắng như tuyết, tóc dài phủ vai, trong tay cầm một cây ngọc xích. Đại Phương thiền sư vừa nhìn thì đã nhận ra thiếu nữ áo trắng ấy chính là nàng Mai Giáng Tuyết đã gặp trên đỉnh Minh Nguyệt. Lúc này khuôn mặt xinh xắn của nàng vẫn lạnh lùng như băng tuyết, không hề thấy nét cười. Ba người sánh vai bước tới, áo quần bay phất phới trong gió, khi cách quần hào còn khoảng sáu thước, họ đều dừng bước. Tấm biển lúc nãy là do hai đại hán toàn thân mặc đồ đen cầm, bọn họ đang đứng ở chân núi. Chỉ thấy thiếu nữ mặc đồ màu lam đứng ở giữa hơi cúi người, môi mấp máy, phát ra giọng nói dịu dàng mà trong trẻo:
“Các người có phải đến dự tiệc Chiêu Hồn chăng?” giọng nói của nàng tuy dịu dàng dễ nghe, nhưng lời thì rất lạnh lùng. Đại Phương thiền sư chắp tay niệm một tiếng Phật hiệu rồi nói:
“Đúng vậy, bọn tại hạ đến đây dự hội”.
Thiếu nữ áo trắng ngẩng mặt nhìn bầu trời vô tận, nói:
“Hình như gia sư mời các vị đến mùng năm tháng năm mới vào Tuyệt Mệnh cốc, nay vẫn còn cách một tháng nữa, sao các vị lại đến sớm thế?”.
Đại Phương thiền sư nghiêm nghị nói:
“Không biết lệnh sư đã hẹn với ai vào ngày năm tháng năm?”.
Thiếu nữ áo lam nói:
“Gia sư đã nhắc đến chuyện này trong bức thư kèm theo Thất Xảo Thoa, lão thiền sư không nhớ chăng?”.
Đại Phương thiền sư cười lạnh rồi nói:
“Đó là do lệnh sư tự bảo thế, bọn lão nạp chả lẽ nhất định phải tuân theo?”.
Thiếu nữ áo lam ấy chợt mỉm cười:
“Nói như thế, các vị nhất định phải đến trước?”.
Đại Phương thiền sư nói:
“Đã đến nơi này, chả lẽ phải quay về?”.
Thiếu nữ áo lam hơi suy nghĩ rồi nói:
“Thôi được! Nếu các vị đã kiên quyết như thế, vậy hãy đi theo ta!” rồi chậm rãi xoay người dẫn đường tiến về phía trước. Đi một lát mọi người đã đến dưới chân núi. Lúc này thiếu nữ áo lam chợt xoay người, bước sang bên trái. Đại Phương thiền sư hơi nhíu mày, chỉ đành đi theo sau, lòng thầm nhủ:
“Ta đi cách các ngươi không xa, dù cho có mưu kế ám toán các ngươi cũng không thể thi triển”. Đang suy nghĩ, thì chợt nghe tiếng áo bay trong gió, Tụ Thủ Tiều Ẩn Sử Mưu Độn và Tiêu Dao Tử sánh vai đuổi lên, vượt qua khỏi Đại Phương thiền sư, đi phía sau ba thiếu nữ ấy, vẫn cách nhau không quá năm sáu thước.
Thiếu nữ áo lam quay đầu nhìn hai người ấy cười rằng:
“Nếu các vị không yên tâm, chúng ta hãy đi cùng được chăng?” lời lẽ của hai câu nói ấy rất sắc bén, Tiêu Dao Tử và Tụ Thủ Tiều Ẩn đưa mắt nhìn nhau hơi mỉm cười, sải bước đuổi theo. Té ra hai người này suy nghĩ sâu xa, chỉ nhìn nhau thì đã hiểu ý, đều cảm thấy đây không phải là lúc tranh cãi, nàng đã buông lời mỉa mai như thế thì chi bằng cứ tương kế tựu kế đi cùng với họ. Cử chỉ của thiếu nữ áo lam bạo dạn vô cùng, trước mắt mọi người mà vẫn sánh vai cùng với Tiêu Dao Tử, vả lại còn cười nói huyên thuyên, không hề có ý ái ngại. Một mùi u hương nhạt nhạt từ người nàng phát ra khiến cho người ta ngây ngất. Nàng đưa mắt nhìn Tụ Thủ Tiều Ẩn rồi lại quay đầu sang nhìn Tiêu Dao Tử, cười rằng:
“Có phải ông đã mù một mắt từ nhỏ không?”.
Con mắt độc nhất của Tiêu Dao Tử quắc lên rồi nói:
“Lão hủ đã lớn tuổi, có mù một mắt cũng chẳng hề gì”.
Thiếu nữ áo lam ấy nhoẻn miệng cười rồi nói:
“Trời có lúc sáng lúc tối, trăng có lúc tròn lúc khuyết, trên đời cũng chẳng có ai thập toàn thập mỹ, ông tuy chột một mắt nhưng võ công chắc hẳn không kém”.
Tiêu Dao Tử lạnh lùng đáp:
“Mấy lời khen ngợi này của cô nương, phải chăng đã quá đường đột?”.
Thiếu nữ áo lam cười rằng:
“Tiểu nữ xưa nay nói chuyện bao giờ cũng có căn cứ, quyết không phải đoán mò”.
Tiêu Dao Tử nói:
“Xin được nghe kỹ”.
Thiếu nữ áo lam liếc mắt rồi yểu điệu nói:
“Nếu tiểu nữ nói ra, chỉ e ông nghe xong thì không vui!” nàng cố ý cao giọng nói hai câu này khiến cho quần hào ở sau đều nghe thấy.
Tiêu Dao Tử thầm mắng:
“Ả nha đầu thật điêu ngoa!” nhưng miệng thì vẫn cố ý cười mà nói rằng:
“Lão hủ đã lớn tuổi, lòng tựa như nước lạnh, dù lời khó nghe nào cũng có thể chấp nhận, cô nương hãy yên tâm!”.
Thiếu nữ áo lam nói:
“Một người có khiếm khuyết trong thân thể, đa số đều có cảm giác tự ti, cũng giống như ông vừa nói, lòng như nước lạnh, không dễ bị quấy nhiễu, điều đó hợp với yếu quyết của người luyện võ, tâm ý dễ tập trung. Ông đã chột một con mắt, trong lòng đương nhiên có cảm giác tự ti rất sâu, chắc chắn là người luôn tránh xa cửa ải khó phá nhất là nhan sắc, đến khi tập võ thì một lòng một ý, không hề có tạp niệm, võ công đương nhiên tiến triển nhanh hơn người thường, nếu tiểu nữ đoán không sai, có lẽ ông vẫn là người độc thân!” nàng là một thiếu nữ trẻ tuổi mà nói ra những lời ấy, mặt không hề đổi sắc.
Tiêu Dao Tử buông giọng cười lớn:
“Lão hủ khâm phục cao luận của cô nương, nhưng lão hủ không phải là người không biết đến phong tình”.
Thiếu nữ áo lam ấy mỉm cười đáp:
“Nếu ông biết đến phong tình, đâu có cô độc như thế này”.
Hai người càng nói càng lớn tiếng, quần hào ở phía sau đều nghe thấy, những lời mỉa mai của cặp tóc trắng má hồng ấy khiến cho quần hào ai nấy đều cười thầm.
Thiếu nữ áo lam và Tiêu Dao Tử mỉa mai nhau một hồi, chợt quay mặt nhìn Tụ Thủ Tiều Ẩn Sử Mưu Độn rồi hỏi:
“Ông họ gì?”.
Tụ Thủ Tiều Ẩn lạnh lùng đáp:
“Lão phu xưa nay không thích đấu khẩu với người khác”.
Thiếu nữ áo lam cười rằng:
“Chả trách nào ông mặt mày lạnh lẽo như băng tuyết, vừa nhìn thì đã biết là một kẻ ngờ nghệch, bộ quần áo trên người của ông thật hợp, rất đẹp đôi với người bạn chột mắt của ông”.
Tụ Thủ Tiều Ẩn tức giận nói:
“Lão phu là người thế nào mà đôi co với ả nha đầu nhà ngươi!”.
Thiếu nữ áo lam mỉm cười:
“Thiếu nữ xưa nay thích cười đùa, ông không thích nghe, vậy thì ta cứ nói cho ông nghe!”.
Tụ Thủ Tiều Ẩn cười lạnh một tiếng:
“Lão phu xưa nay không hề thương hoa tiếc ngọc, nếu ngươi cứ muốn thử thủ đoạn của lão phu, vậy chi bằng hãy cứ nói vài câu vớ vẩn!”.
Thiếu nữ áo đỏ vẫn lặng lẽ đi bên cạnh, lúc này chợt chen vào cười rằng:
“Đại sư tỷ cười nói với hạng người như tượng gỗ này, không cảm thấy buồn chán ư? Phía sau chúng ta đang có tình lang của tam sư muội, đại sư tỷ muốn vui, sao không gọi y tới?”.
Thiếu nữ áo trắng nhíu mày, lạnh lùng nói:
“Nhị sư tỷ lại làm khó tiểu muội rồi”.
Thiếu nữ áo lam chợt thu lại nụ cười, lạnh lùng nói:
“Ai cho các ngươi chen vào, có phải không coi đại sư tỷ này ra gì hay không?”.
Thiếu nữ áo đỏ vội vàng nói:
“Tiểu muội không dám”.
Thiếu nữ áo trắng thì lặng lẽ cúi đầu, không nói một lời.
Thiếu nữ áo lam đưa mắt nhìn một vòng, lập tức nở nụ cười như hoa, quay đầu sang nhìn Tụ Thủ Tiều Ẩn:
“Ông không biết thương hoa tiếc ngọc, chắc là một lão già tuyệt tử tuyệt tôn?”.
Tụ Thủ Tiều Ẩn sắc mặt thay đổi, tay phải giở lên phất tới, miệng giận dữ quát:
“Ả nha đầu miệng còn hôi sữa, dám cười cợt lão phu?” luồng kình phong bén như dao, lướt thẳng tới như điện xẹt. Thiếu nữ áo đỏ hơi lách người, ống tay áo phất lên, vỗ vào cổ tay phải của Tụ Thủ Tiều Ẩn, miệng vẫn mỉm cười:
“Quả nhiên là một người thô lỗ”.
Tụ Thủ Tiều Ẩn hơi giật mình, nhủ thầm:
“Ả này tuổi chẳng qua trên dưới hai mươi thế mà có thể dồn nội gia chân lực vào ống tay áo rồi đánh ra, quả thật không thể coi thường người trong Minh Nhạc”.
Ý nghĩ ấy lướt qua, tay phải đã vội vàng hạ xuống thâu về, ngón trỏ và ngón giữa của tay trái khép lại, điểm vào huyệt khúc trì của thiếu nữ áo lam. Thiếu nữ áo lam kêu lên:
“Ôi chao! Quả thật lòng dạ như sắt đá, ra tay vô tình”. Nàng vừa noi vừa thối lui nhanh ra sau một bước, tránh đòn đánh ấy của Tụ Thủ Tiều Ẩn, ống tay áo phất lên, giáng thẳng lên đầu. Tụ Thủ Tiều Ẩn thấy cú phất tay áo ấy có một luồng ám kình cùng với một làn u hương nhàn nhạt, nghĩ bụng cú đánh này chắc chắn chứa đựng một lực âm nhu rất mạnh, tay trái vội gạt ngang ra.
Thiếu nữ áo lam sau khi cuộn tay áo đánh trúng Tụ Thủ Tiều Ẩn, lập tức cảm thấy một luồng ám kình bắn ngược lại, lòng hơi giật mình, thầm nhủ:
“Lực kình của lão tiều phu này thật ghê gớm”. Thế rồi tăng thêm mấy phần chân lực, ống tay áo của nàng cuộn vào cánh tay của Tụ Thủ Tiều Ẩn mà không chịu buông ra. Tụ Thủ Tiều Ẩn tuy tiếp được đòn đánh này, nhưng cảm thấy cánh tay trái tê rần, hầu như không thể chịu đựng được nữa, trong lòng thầm kinh phục. Hai người thầm đấu nội lực, nhưng bề ngoài trông rất phong tình. Thiếu nữ áo lam ấy cuộn ống tay áo ấy vào cẳng tay trái của Sử Mưu Độn, tựa như nắm tay của ông ta cùng đi, lại cố ý bước đi uyển chuyển, lả lướt.
Nhưng quần hào ở phía sau đều có thể thấy rằng, hai người xem ra là sánh vai đi cùng, nhưng thực sự cả hai bên đều đang dồn ra chân lực để ép đối phương. Ống tay áo của thiếu nữ áo lam cuộn lên tay Tụ Thủ Tiều Ẩn đã dồn nội lực lên cánh tay. Hai người đi được khoảng bảy tám trượng, thiếu nữ áo lam chợt rút ống tay áo về, thỏ thẻ cười rằng:
“Ông đã lớn tuổi như thế này, sao chưa chết đi?”.
Tụ Thủ Tiều Ẩn sau một hồi đấu nội lực, đã thấy không thể xem thường kẻ cường địch này, gân cốt trên cánh tay trái tê rần, cảm thấy hơi đau, nếu thiếu nữ áo lam không chịu thâu tay áo về, trong vòng một trăm bước, ông ta không thể đấu tiếp như thế nữa. Sử Mưu Độn vừa ngầm vận khí để khí huyết lưu thông, vừa lạnh lùng đáp:
“Lão phu không con không cái, có chết đi cũng chẳng ai quét mộ, cần gì phải vội?” khi ông ta đang nói thì đã đến một ngã rẽ. Thiếu nữ áo lam chợt ngừng lại, quay đầu nhìn lại Đại Phương thiền sư nói:
“Nhà sư già kia, đã đến Tuyệt Mệnh cốc!”.
Đại Phương thiền sư nghiêm nghị bước tới nói:
“Mời cô nương dẫn đường vào cốc”. Ông ta khí độ uy nghiêm, không bao giờ cười đùa, thiếu nữ áo lam ấy cũng không dám cười cợt với ông ta, nàng lách người bước vào một lối nhỏ chỉ chứa đủ hai người. Tiêu Dao Tử lướt ngang người chặn thiếu nữ áo đỏ lại, đi sánh vai cùng với thiếu nữ áo lam. Thiếu nữ áo đỏ đi phía sau Tiêu Dao Tử, Tụ Thủ Tiều Ẩn thì đi phía sau thiếu nữ áo đỏ, Mai Giáng Tuyết đi sát theo sau Tụ Thủ Tiều Ẩn, Đại Phương thiền sư dắt quần hào nối đuôi nhau bước theo. Đi hết con đường hẹp ấy, cảnh sắc đột nhiên thay đổi.
Chỉ thấy trước mặt là một sơn cốc rộng vô tận, trồng đầy cây cối và hoa cỏ, trên cây có các loại hoa đua nở, nhưng hình dạng của các loại hoa thì chưa bao giờ thấy qua, địa thế ở đây giống như trong tấm bản đồ của Mai Giáng Tuyết.
Giữa ruộng hoa là một lối đi nhỏ bằng cát vàng rộng bốn thước, thiếu nữ áo lam quay đầu cười:
“Các vị tốt nhất phải đi chậm hơn”.
Tiêu Dao Tử lớn giọng cười:
“Chôn thân giữa ruộng hoa, chết cũng không hối tiếc”.
Thiếu nữ áo lam mỉm cười:
“Con ma chột mắt kia, ông có biết loại hoa này tên gì không?”.
Tiêu Dao Tử cười lạnh đáp:
“Hoa dại trong tử cốc, tên gọi chắc cũng chẳng hay ho gì?”.
Thiếu nữ áo lam đáp:
“Ta cũng đoán ông không biết, loại hoa này tên gọi là Tiêu Hồn lan, phàm những kẻ thấy loại hoa này đều phải chết, vả lại chết rất thê thảm”.
Tiêu Dao Tử cười lớn nói:
“Cô nương nói như thế khiến cho lão hủ nhớ lại một câu nói, chính là nguyện chết dưới hoa để làm hoa phong lưu! Lão hủ nay tuổi đã lớn, có thể chết giữa ruộng hoa thế này, không biết là phước tu được mấy kiếp, nhưng cô nương tuổi mới vừa đôi mươi, xinh đẹp tuyệt luân, chết giữa ruộng hoa thì thật là đáng tiếc!”.
Thiếu nữ áo lam cười rằng:
“Ông nay tuổi đã lớn mới biết đến phong tình, may mà cây cỏ vô tri, chẳng biết xấu đẹp, không đến nỗi từ chối ý đẹp được chết cùng hoa của ông”. Lời nói của nàng chua chát sâu cay, khiến cho người nghe thấy đau đến tận xương. Tiêu Dao Tử vốn muốn mỉa mai trở lại, nhưng chợt nghĩ:
“Mình là người có thân phận, mà lại đấu khẩu với ả, bị ả mắng những lời khó nghe, đó quả thực là chuyện không đáng”. Đi hết con đường nhỏ bằng cát vàng, mọi người đến một bãi cỏ bằng, bãi cỏ xanh mơn mởn này rộng khoảng bốn năm mẫu, xung quanh là các loại hoa, cảnh sắc cực đẹp. Thiếu nữ áo lam chợt ngừng lại, cao giọng nói:
“Phiền các vị hãy ngồi xuống dưỡng thần trong chốc lát, đến khi ở tiệc Chiêu Hồn, chúng tôi sẽ đến tiếp đãi”. Nàng nói xuống thì phất tay, quay sang hai sư muội:
“Chúng ta đi thôi!” rồi cất bước toan bỏ đi.
Đại Phương thiền sư trầm giọng nói:
“Cô nương hãy chậm bước, lão nạp có chuyện muốn hỏi”.
Thiếu nữ áo lam ấy nheo mắt nhìn Đại Phương thiền sư rồi nói:
“Có chuyện gì?”.
Đại Phương thiền sư vẫn giữ vẻ mặt trang nghiêm, nói:
“Lão nạp tuy đến đây theo lời mời, nhưng chưa từng hứa sẽ đến vào đúng ngày năm tháng năm, tất cả những người ở đây đều có chút tiếng tăm trong võ lâm, ai nấy đều bận rộn, cho nên khó đợi lâu được, vậy phiền cô nương hãy sớm bẩm báo cho lệnh sư, bảo bà ta mau xuất hiện tương kiến, nếu đã có lòng thành mời chúng tôi, vậy chi bằng cứ sớm phân thắng thua cho xong”.
Thiếu nữ áo lam ấy nhìn sắc trời cười nói:
“Lúc này đã đến giờ ngọ, gia sư đãi khách không qua quá giờ tý đêm nay, các vị từ xa đến đây cũng nên nghỉ ngơi một lát để khỏi chết mà không nhắm mắt”.
Chợt nghe một giọng nói lạnh lùng thô lỗ vang lên:
“Đãi khách cái quái gì, lão phu đâu phải đói đến nỗi chạy đến đây ngắm hoa uống rượu của các ngươi, hãy mau bảo sư phụ của ngươi lập tức xuất hiện, đừng để ta nổi giận nổi lửa đốt sạch đám cây cỏ này của các ngươi”.
Thiếu nữ áo lam nheo mắt nhìn tới, chỉ thấy một ông già vừa mập vừa lùn bước ra khỏi đám đông quần hào, nàng không khỏi nhíu mày:
“Ngươi là ai? Sao lại ăn nói tùy tiện thế?”.
Ông già ấy buông giọng cười lớn rồi nói:
“Lão phu rất ít đến Trung Nguyên, dù có nói ra danh hiệu thì tên nha đầu miệng còn hơi sữa nhà ngươi cũng chẳng biết”.
Thiếu nữ áo lam ấy chợt thay đổi sắc mặt, nụ cười thường xuất hiện trên khóe miệng cũng biến mất, lạnh lùng đáp:
“Nếu bảo ít khi đến Trung Nguyên, chắc là nhân vật của Tây Vực đây?”.
Ông già ấy nghe thế thì hơi ngạc nhiên, thầm nhủ:
“Ả nha đầu này thật thông minh, có thể đoán được mình đến từ Tây Vực”. Thế rồi hơi suy nghĩ, đáp rằng:
“Đúng vậy, lão phu từ Tây Vực đến đây, Thiên Sơn Thần Quyền Bạch Trác Nghĩa chính là lão phu!”.
Thiếu nữ áo lam cười lạnh:
“Ngươi đường xa vạn dặm từ Tây Vực đến đây chịu chết, quả thực là kiếp nạn khó tránh, tự mình chôn thân”.
Bạch Trác Nghĩa nổi giận:
“Ngươi nói vớ vẩn điều gì? Nếu mở miệng làm tổn thương người nữa đứng trách lão phu ra tay động thủ dạy dỗ ngươi!”.
Thiếu nữ áo lam ấy vẫn lạnh lùng như sương, điềm nhiên nói:
“Kẻ ở nơi xa xôi hoang vắng, có gì đáng sợ?”.
Bạch Trác Nghĩa cao giọng quát:
“Một ả nha đầu mà cũng giám coi thường lão phu, không dạy cho ngươi một bài học, ngươi sẽ còn phách lối nữa!” rồi tay phải giở lên từ xa đánh tới. Thiếu nữ áo lam thấy y đưa tay từ xa đánh tới, trong lòng đã biết đối phương chắc chắn sẽ đánh ra một luồng chưởng phong phách không, thế rồi vội vàng ngầm đề tụ chân khí giới bị. Nào ngờ đối phương đã thu quyền lại, chẳng hề có chút động tĩnh gì, trong lòng cảm thấy ngạc nhiên lắm, nhủ thầm:
“Lão già này chẳng qua chỉ phô trương thanh thế, tự tìm đường xuống thang mà thôi!” nghĩ đến đây, chợt cảm thấy một luồng ám kình im hơi lặng tiếng giáng tới, mà lực đạo rất lớn, nàng chỉ cảm thấy giật mình, bất đồ thối lùi đến ba bước, nếu không sớm ngầm vận khí giới bị, nàng chắc chắn sẽ bị thương dưới đòn này.
Phải biết rằng Vô Ảnh thần quyền là tuyệt kỹ của phái Thiên Sơn, ở võ lâm Trung Nguyên không ai biết loại võ công này, thiếu nữ áo lam tuy thân mang tuyệt kỹ, nhưng cũng không biết Bạch Trác Nghĩa tại sao có thể chỉ phất tay một cái mà phát ra một luồng ám kình.
Sau khi đánh ra một đòn Vô Ảnh thần quyền, Bạch Trác Nghĩa cười rằng:
“Đó chẳng qua là một đòn trừng phạt nhỏ, nếu nói ra những lời phách lối nữa, đừng trách lão phu ra tay đánh người!”.
Thiếu nữ áo lam ấy sắc mặt trắng bệch, im lặng không nói, đứng trong chốc lát thì đột nhiên lách hai vai lướt tới như điện chớp, tay phải phất ra một cái, loại binh khí quái dị trông giống như sừng nai, đỏ như máu điểm về phía Bạch Trác Nghĩa. Té ra nàng đã bị một đòn Vô Ảnh thần quyền của Bạch Trác Nghĩa đánh chấn thương nội phủ, đang vận khí điều tức cho nên không thể nào lên tiếng được, nhưng nàng công lực thâm hậu, sau một hồi điều tức thì lập tức chân khí trở về, thế là bất ngờ lướt lên.
Bạch Trác Nghĩa phất ống tay trái quét vào món binh khí trông giống như sừng hưu ấy. Thiếu nữ áo lam đánh ra binh khí rất nhanh, nhưng thế thu về càng nhanh hơn, Bạch Trác Nghĩa chưa phất trúng thì đột nhiên đã tự bay về, tay của nàng múa ra một màn hồng quang. Bạch Trác Nghĩa chỉ cảm thấy mắt hoa lên, bốn phương tám hướng đều là hồng quang chói mắt đánh tới, trong lòng hơi run sợ, vội vàng thối lui nhanh ra sau, nhưng không ngờ thiếu nữ áo lam đã điểm tay trái tới. Cú điểm này rất bất ngờ, quỷ dị vô cùng, Bạch Trác Nghĩa nhất thời né không kịp, chỉ đành phất tay tiếp lấy cú điểm ấy, chỉ cảm thấy nơi bị nàng điểm trúng đau nhói lên, vội vàng rút tay về. Thiếu nữ áo lam điểm trúng Bạch Trác Nghĩa xong, tung mình vọt ra sau đến hơn một trượng, cười rằng:
“Đây gọi là Thiên Phu Nhất chỉ, cho ngươi xem thử sự lợi hại của ta, nếu trong lòng không phục thì đợi lát nữa hai chúng ta sẽ lại đánh thêm trận nữa”.
Quần hào thấy thủ pháp của thiếu nữ áo lam quỷ dị, ai nấy đều giật mình nhủ rằng:
“Lộ số võ công của ả này thay đổi khó lường, thật sự không thể coi thường”.
Bạch Trác Nghĩa coi kỹ lại cánh tay bị thương, trên tay có một mảng lớn như đồng tiền đã đổi màu xanh, nếu chỉ này điểm vào trúng yếu huyệt thì chắc chắn sẽ bị trọng thương ngay tại chỗ, thế rồi thầm than:
“Nhân vật võ lâm Trung Nguyên quả thực cao thủ như mây, không thể coi thường”.
Đại Phương thiền sư phát chưởng trái, bốn nhà sư khoác cà sa màu đỏ mau chóng rê tới, chặn thiếu nữ áo lam lại. Thiếu nữ áo lam nhướng mày, cười lạnh nói:
“Các ngươi chắc muốn chết đây?” bốn nhà sư chỉ ưỡn ngực giơ đao chặn đường lại, tựa như không hề nghe câu hỏi của thiếu nữ áo lam. Đại Phương thiền sư cao giọng niệm một tiếng Phật hiệu rồi nói:
“Cô nương hãy tạm dừng bước, lão nạp vẫn chưa nói hết lời, giờ đây cao thủ như mây, bọn ba người cô nương tự tin có thể vượt qua chăng?”.
Thiếu nữ áo lam đưa mắt nhìn quần hào rồi thầm nhủ:
“Nhà sư già này nói cũng không sai, ba người chúng ta muốn vượt sự cản trở của họ chỉ e không dễ, chúng ta bố trí vẫn chưa chặt chẽ, sư phụ nhất thời cũng khó đến cứu viện, nếu thực sự động thủ chỉ e rằng sẽ thua thiệt”. Lúc nãy nàng vừa mới bị một đòn Vô Ảnh thần quyền của Bạch Trác Nghĩa, thì biết tất cả những người ở đây đều mang tuyệt kỹ trong người, cho nên ý nghĩ khinh địch cũng giảm đi rất nhiều.
Thế rồi nàng mới giả vờ trấn tĩnh mà cười rằng:
“Sao? Chả lẽ muốn giữ ba tỷ muội chúng tôi ở đây cùng các người chăng?”.
Đại Phương thiền sư là bậc tôn sư của một phái, là người rất nghiêm nghị, nghe những lời nói phóng đãng ấy của nàng thì trong nhất thời không thể nghĩ ra lời nào để đối đáp. Trầm ngâm một lát, Đại Phương thiền sư mới nghiêm nghị nói:
“Lão phu là người trong cửa Phật, bình sinh không ưa cười nói”.
Thiếu nữ áo lam hơi trầm ngâm:
“Xem ra hình như ông là nhân vật đầu não lần này?”.
Đại Phương thiền sư nói:
“Được họ đề cử lão nạp, tạm cho lão nạp ra mặt bàn bạc với lệnh sư”.
Thiếu nữ áo lam nói:
“Đại hội chưa bắt đầu, gia sư e rằng không thể hiện thân”.
Đại Phương thiền sư nói:
“Lệnh sư đừng nên bày trò nữa, anh hùng trong thiên hạ được bà ta mời đều đã đến đây, sao bà ta còn chưa ra mặt gặp gỡ?”.
Thiếu nữ áo lam lạnh lùng nói:
“Các người không đến theo kỳ hẹn, còn trách được ai?”.
Đại Phương thiền sư nói:
“Tất cả những người ở đây đều đã chuẩn bị lương khô, không cần lệnh sư tiếp đãi nữa”.
Thiếu nữ áo lam nhủ thầm:
“Xem ra lão hòa thượng này chỉ muốn giữ chúng ta ở lại làm con tin, lúc này sư phụ vẫn chưa sắp xếp chu đáo, nếu mình xung đột với họ, không những không có người cứu viện mà còn sẽ làm hỏng toàn cuộc, cân nhắc nặng nhẹ, chỉ đành tạm thời kéo dài thời gian”. Ý nghĩ ấy lướt qua, thế rồi mới nhoẻn miệng cười:
“Gia sư nghỉ ngơi vẫn chưa thức, thật khó lập tức xuất hiện ...”.
Đại Phương thiền sư tiếp lời:
“Vậy làm phiền các vị hãy tạm thời ở đây, đợi lệnh sư xuất hiện rồi đi cũng không muộn”.
Thiếu nữ áo lam quay đầu nhìn thiếu nữ áo đỏ và Mai Giáng Tuyết, cười rằng:
“Nói như vậy, ông muốn giữ ba chỉ em chúng tôi ở đây làm con tin?”.
Tụ Thủ Tiều Ẩn cười lạnh một tiếng, chen vào nói:
“Đâu chỉ làm con tin, nếu thời gian kéo dài mà không chịu xuất hiện, trước tiên sẽ giết ba người các ngươi, sau đó sẽ nổi lửa đốt sạch nơi này của các ngươi”.
Thiếu nữ áo lam nói:
“Khẩu khí của ngươi thật lớn, ngươi tự tin có thể đốt được chăng? Hừ ...”.
Đại Phương thiền sư nói:
“Điều đó cũng rất khó nói, trên giang hồ tuy có giới luật, nhưng lệnh sư làm việc thật quá đáng, nếu quần hào nổi giận, thì khó tránh sẽ vượt qua giới luật, lúc đó lão nạp cũng không thể ngăn cản được”.
Thiếu nữ áo lam thầm lo:
“Sư phụ vẫn chưa biết thế địch như thế nào, đợi mình quay về bẩm báo, nếu như lão hòa thượng này cứ giữ mình lại, đây quả thực là chuyện phiền toái”.
Té ra Đại Phương thiền sư lo lắng Minh Nhạc Nhạc chủ đặt mai phục trong rừng cây cho nên cố ý giữ ba thiếu nữ này không cho họ bỏ đi. Thiếu nữ áo lam trầm ngâm một hồi rồi cười:
“Nếu các người muốn gặp gia sư, ta sẽ đi mời người đến đây”. Đại Phương thiền sư hơi trầm tư rồi nói:
“Trong số ba người các vị, chả lẽ cô nương nhất định phải đi?”.
Thiếu nữ áo lam cười rằng:
“Vậy các ông cứ tùy tiện chỉ định một người!” rồi lòng thầm nhủ:
“Bọn chúng không chịu buông tha cho mình, té ra là coi mình là nhân vật đầu não”.
Đại Phương thiền sư chậm rãi lướt nhìn thiếu nữ áo đỏ, rồi đưa mắt nhìn Mai Giáng Tuyết, đang định mở miệng chỉ định Mai Giáng Tuyết, chợt lòng nảy ra một ý, nhủ rằng:
“Nếu mình bảo nàng đi, vạn nhất khiến cho sư phụ của nàng nghi ngờ, há chẳng phải khéo hóa vụng, hại nàng hay sao?” ý nghĩ ấy lướt qua, rồi đưa tay chỉ vào thiếu nữ áo đỏ nói:
“Vậy xin mời vị cô nương áo đỏ này!”.
Thiếu nữ áo lam nhìn thiếu nữ áo đỏ rồi cười:
“Nhị sư muội, lão hòa thượng đã thích muội rồi đó”.
Thiếu nữ áo đỏ nghe thiếu nữ áo lam nói như thế, mới chậm rãi bước tới, cười rằng:
“Nhưng muội phải mời sư phụ ư?”.
Đại Phương thiền sư cười lạnh rồi nói:
“Trước giờ tý, nếu lệnh sư vẫn không chịu xuất hiện, đừng trách chúng tôi ra tay độc ác ...” ánh mắt nhìn lướt về phía thiếu nữ áo lam và Mai Giáng Tuyết nói tiếp:
“Hai vị cô nương đừng hòng rời khỏi chốn này”.
Cửu Tinh Truy Hồn Hầu Chấn Phương nói tiếp một câu:
“Còn vườn hoa này nữa, cũng sẽ hóa thành than”.
Thiếu nữ áo đỏ đưa tay vuốt mái tóc rối, nhoẻn miệng cười:
“Đừng quá khoác lác, nếu chúng tôi vẫn chưa bố trí, cũng không thể mời các vị đến đây!” nói xong thì ưỡn ẹo tiến về phía trước. Đại Phương thiền sư phất tay, các hòa thượng đang chặn đường lập tức lách qua một bên, chừa ra một lối. Thiếu nữ áo đỏ ung dung bước qua mấy hòa thượng ấy, chợt nàng ngừng bước, quay đầu lại cười:
“Ở bên ngoài mảnh rừng này có một loại độc chướng bao phủ suốt ngày đêm, không màu không vị, các vị tốt nhất hãy dừng ở đây đừng đi bừa, nếu xông ra khỏi mảnh rừng một bước, lúc đó trúng độc thì đừng trách chúng tôi”. Rồi nàng cũng không đợi bọn Đại Phương thiền sư trả lời, tung mình vọt một cái ra đến hai trượng. Chỉ thấy bóng dáng mảnh khảnh của nàng ẩn hiện trong rừng hoa rồi biến mất. Đại Phương thiền sư giơ tay phải vẽ trong không trung một vòng tròn, ba mươi sáu đệ tử đi cùng đột nhiên mau chóng di chuyển xen vào nhau, trong khoảnh khắc đã xếp thành một trận thế.
Tiêu Dao Tử mỉm cười, hỏi:
“Đây có phải La Hán trận vang danh thiên hạ của quý phái không?”.
Đại Phương thiền sư cười rằng:
“Đúng vậy, xưa nay bổn tự ít khi dùng đến La Hán trận này, La Hán trận chia thành hai loại, đó là đại trận và tiểu trận, đại trận do một trăm lẻ tám đệ tử xếp thành, tiểu trận có ba mươi sáu người, đáng tiếc đệ tử của quý phái vẫn chưa kịp đến, nếu không lão nạp có thể tận mắt thấy Ngũ Hành kiếm trận vang danh thiên hạ của quý phái”.
Tiêu Dao Tử nói:
“Đại sư hãy yên tâm, khi tại hạ vào núi đã ngầm để lại ám hiệu bổn phái, từ đỉnh Minh Nguyệt đến đây ...”.
Tụ Thủ Tiều Ẩn Sử Mưu Độn chen vào nói:
“Chúng ta đến dự tiệc trước, chỉ e người trong quý phái không biết chuyện này, cho nên khó đuổi theo kịp ...”.
Thiếu nữ áo lam đột nhiên mỉm cười nói tiếp:
“Tốt nhất là bọn chúng có thể đến kịp vào Tuyệt Mệnh cốc trước giờ tý, để chúng tôi khỏi phí công sức”.
Tiêu Dao Tử không thèm để ý đến thiếu nữ áo lam nữa, cười lớn một hồi rồi nói:
“Ngày chúng ta quyết định đến dự tiệc sớm, lão hủ đã phái đệ tử canh giữ ở dưới đỉnh Minh Nguyệt về núi Võ Đang, bảo bọn họ tranh thủ đến, tính thời gian có lẽ trong vòng hai ngày sẽ tới, hôm nay không tới thì ngày mai nhất định sẽ tìm đến nơi này”.
Đại Phương thiền sư ngửa mặt nhìn sắc trời:
“Lão nạp mong được gặp chưởng môn quý phái là Thần Chung đạo trưởng có thể đích thân dắt đệ tử đến đây, hai phái chúng ta năm xưa có chút hiểu nhầm, cũng có thể nhân cơ hội này mà hóa giải”.
Tiêu Dao Tử nói:
“Đại sư hãy yên tâm, chưởng môn sư điệt của lão hủ đã không còn nghĩ đến hiểu lầm của hai phái chúng ta nữa, lão hủ đã nói rõ ràng mọi sự với Thần Chung sư điệt”.
Đại Phương thiền sư hơi mỉm cười, nói:
“Lúc này vẫn còn cách giờ tý quá sớm, chúng ta hãy nghỉ ngơi”. Nói xong thì ngồi xuống xếp bằng, nhắm mắt dưỡng thần.
Quần hào đều ngồi xuống, vây xung quanh thiếu nữ áo lam và Mai Giáng Tuyết. Mai Giáng Tuyết đưa mắt nhìn quanh quần hào, cũng ngồi xuống, đặt cây ngọc xích trên tay trước người. Từ khi bước ra, nàng chưa nói lời nào, bộ mặt vẫn cứ lạnh lùng như băng tuyết, tựa như mọi chuyện trên đời này chẳng đủ khiến cho nàng mỉm cười.
Người mặc áo đen trên thạch đài chợt bật cười quái dị, cây phướn dài trong tay quét ra một luồng cuồng phong đánh ngược trở lại rất uy mãnh. Cây phướn trong tay của y dài khoảng một trượng ba thước, khi y đưa tay quét tới thì vừa đúng tới ngay chỗ Ngũ Tông Hán đang đứng. Luồng chưởng lực phách không của Ngũ Tông Hán đánh ra bị luồng kình lực của quái nhân mặc áo đem cản lại, bị hóa giải trong vô hình, luồng kình phong của cây phướn dài đã tiến sát tới người y.
Ngũ Tông Hán thất kinh, vội vàng thối lui ba bước mới tránh được đòn ấy. Luồng lực đạo kinh người của người mặc áo đen kia không những khiến cho Ngũ Tông Hán thất kinh mà thối lui, cả Đại Phương thiền sư và Tiêu Dao Tử cũng giật mình.
Đại Phương thiền sư đưa tay lấy cây thiền trượng trong tay của một đệ tử, ngầm vận công lực của toàn thân, mặt mũi trang nghiêm mà bước tới, hạ giọng nói với Ngũ Tông Hán:
“Ngũ huynh, để lão nạp tiếp của y một chiêu xem thử”. Người mặc áo đen ấy vẫn ngồi yên, ngoại trừ hai cánh tay hoạt động, nửa thân dưới không hề nhúc nhích, cây phướn dài một trượng ba thước trong tay của y cứ múa may nhẹ nhàng cứ như chẳng có vật gì cả. Đại Phương thiền sư tiến tới phía trước bốn nắm bước, ngừng lại rồi cầm ngang cây thiền trượng, lạnh lùng nói:
“Lão nạp muốn lãnh giáo thí chủ ...”.
Người mặc áo đen ấy không đợi Đại Phương thiền sư nói hết. Quát lớn một tiếng gió cây phướn quét tới một luồng kình phong cuộn lên, thanh thế cực kỳ khiếp đảm.
Đại Phương thiền sư hai tay cầm trượng vụt ngang ra, tiếp lấy một đòn ấy. Chỉ nghe một tiếng chấn động kinh thiên động địa vang lên, người ngồi trên đài chợt lắc lư thân mình, còn Đại Phương thiền sư thì cũng hơi lảo đảo. Chợt nghe Đại Phương thiền sư cao giọng niệm một tiếng Phật hiệu:
“A di đà Phật! ”, rồi cây thiền trượng quét ra một chiêu Lực Tảo Ngũ Nhạc về phía cây phướn trong tay của người mặc áo đen. Trong chốc lát tiếng kim khí vang lên không ngớt trong tai, cây thiết trượng và cây phướn dài đã chạm nhau năm chiêu.
Năm chiêu này đều như dời núi lấp biển, quần hào tuy là người lão luyện, đã thấy không ít những trận chiến kinh tâm động phách, nhưng cũng chỉ lần đầu tiên thấy kiểu đánh này, ai nấy đều trố mắt ra nhìn. Lá phướn bằng vải trắng đã bị rách bươm, bay đi trong gió, cây phướn dài trong tay người mặc áo đen chỉ còn là một cây sắt.
Thiền sư Đại Phương vốn là người đức cao vọng trọng, sau khi tiếp mấy chiêu tựa như đã thực sự nổi giận, ông ta hơi ngừng lại một chút thì giơ tay đánh tiếp ra một trượng.
Người mặc áo đen trên thạch đài lại tiếp lấy một đòn ấy, đột nhiên há mồm phun ra một búng máu tươi. Đại Phương thiền sư nhướng mắt nhìn qua, chỉ thấy người áo đen ấy hơi ngửa người ra sau, dựa vào vách đá ở sau lưng, rõ ràng sau khi tiếp mấy trượng ấy thì đã sức cùng lực kiệt.
Đại Phương thiền sư thầm thở dài một tiếng, chậm rãi bước về phía thạch đài.
Chợt thấy người mặc áo đen ấy mở hai mắt, mặt lộ vẻ đau đớn, kêu rú lên một tiếng, rồi giơ cây gậy sắt bổ từ trên xuống. Đại Phương thiền sư tựa như đã đoán được điều này, ông ta vẫn còn sức đánh tiếp, thấy đối phương đột nhiên ra tay vừa dữ vừa nhanh, trong lòng không khỏi cả giận. Ông ta nhủ thầm:
“Lực tay kẻ nảy cương mãnh như thế, để lại sẽ là mầm họa”. Trong khi nghĩ như thế, cây thiền trượng đã giở ngang lên đỉnh đầu, tiếp lấy một gậy của người mặc áo đen, sau đó lật tay đánh ngược lại một trượng.
Ông ta đã dùng hết lực toàn thân để đánh ra trượng này, cho nên uy thế không thể xem thường, chỉ thấy người mặc áo đen ấy phun ra mấy ngụm máu tươi, cây gậy sắt trong tay cũng rơi xuống. Y gắng gượng lảo đảo một hồi, thân người chợt đổ về phía trước, treo bên mép thạch đài. Đại Phương thiền sư nhìn lại, thầm ngạc nhiên:
“Kẻ này rõ ràng đã bị lực phản chấn nội gia của mình đánh chết, tại sao lại không rơi xuống thách đài?” đến khi nhìn kỹ lại, chỉ thấy nửa thân trên của người mặc áo đen ấy tuy treo ngược bên mép thạch đài, nhưng tư thế ngồi của nửa thân dưới vẫn không thay đổi.
Cảnh ấy khiến cho người ta khó hiểu, Đại Phương thiền sư muốn tung mình vọt lên thạch đài xem cho rõ, nhưng Tiêu Dao Tử đã phóng lên trước, hạ xuống thạch đài.
Ông ta nhìn kỹ lại, trong lóng không khỏi giật mình. Té ra hai chân của người mặc áo đen đã bị một sợi dây màu đen cột trên thạch đài, hai xương đùi bị một sợi dây xích sắt xuyên qua, cột lại trên thạch đài, cho nên y tuy có thần lực ngàn cân nhưng cũng khó di chuyển thân thể. Ông ta chậm rãi giở áo của người áo đen lên, để cho quần hào ở dưới đài thấy hết rồi mới lộn ngược người xuống dưới thạch đài. Đại Phương thiền sư thở dài nhẹ một tiếng, nói:
“Xem ra Nhạc chủ Minh Nhạc tám phần là yêu phụ năm xưa sử dụng Thất Xảo Thoa, ngoại trừ mụ ta, e rằng chẳng thể tìm được người nào độc ác như thế”.
Trần Huyền Sương nhìn người áo đen bị khóa ở trên thạch đài, đột nhiên thở dài rồi nói:
“Người này không biết đã bị khóa trên thạch đài này bao lâu, hừ! Chả lẽ ngày nào y cũng ngồi với đám tượng đá này, mà không sợ tý nào sao?”.
Phương Triệu Nam nói:
“Y sợ cũng vô ích!”.
Trần Huyền Sương chợt nhớ lại mình đã nói rằng sẽ nhốt Phương Triệu Nam ở một nơi u cốc không có người đến, nàng nhoẻn miệng cười hỏi:
“Nam ca ca, nếu huynh bị người ta khóa như thế, huynh có sợ không?”.
Phương Triệu Nam lắc đầu:
“Nếu thực sự có một ngày như thế, sợ cũng vô ích!”.
Trần Huyền Sương vẫn dịu dàng nói:
“Dù huynh đến nơi đâu, muội cũng sẽ đi cùng huynh, hai chúng ta bên nhau, huynh đương nhiên không cần sợ nữa!”.
Lúc này Phương Triệu Nam nhìn lại, quần hào đã bước về phía trước vì thế nhẹ kéo tay áo Trần Huyền Sương nói:
“Lên đường!”.
Bốn nhà sư Thiếu Lâm hộ tống Đại Phương thiền sư đi ở hàng đầu, cứ đi khoảng hai ba trượng thì có một bức tượng bằng đá. Những người đá trông rất kỳ quái, trên mặt được bôi nhiều màu sắc khác nhau, trên tay thì cầm những loại binh khí kỳ lạ, nhìn từ xa thì trông rất sống động, khiến người ta không phân biệt được đâu là thật đâu là giả. Tuy giữa thanh thiên bạch nhật, nhưng ánh nắng ở đây tựa như đã yếu đi rất nhiều. Quần hào đều là người lão luyện nhưng chưa ai từng thấy cảnh kinh dị này ngoại trừ người mặc áo đen tay cầm phướn dài lúc nãy, đi vào ba bốn dặm mà mọi người vẫn không thấy người sống nào.
Ngoài tiếng bước chân xào xạc, người ta chẳng nghe được tiếng gì cả, dù là một tiếng ho cũng chẳng thấy. Đại Phương thiền sư dần dần nhanh chân, trong chốc lát lại đi được ba bốn dặm nữa. Một cơn gió núi thổi đến, hương hoa xộc vào mũi khiến cho người ta cảm thấy như ngây như ngất. Tiêu Dao Tử chợt dừng bước, lớn giọng nói:
“Đây là hương hoa gì, lão phu sao chưa từng ngửi qua?”.
Nghe ông ta nói như thế, quần hào đều cảm thấy loại hương hoa này rất kỳ dị, mùi hương rất nồng, trong đời họ chưa bao giờ ngửi qua. Nhướng mắt nhìn qua, chỉ thấy trước mặt có một rừng tùng um tùm cản lối, mùi hương hoa nồng nặc ấy phát ra từ trong rừng tùng. Đại Phương thiền sư đảo mắt nhìn rừng tùng ất một hồi, chỉ thấy thân cây thẳng băng, lá reo theo gió, rừng tùng ấy tuy ùm tùm nhưng chẳng thấy gì kỳ dị. Ông ta vẫn quay đầu lại hỏi với vẻ không yên tâm:
“Tiêu huynh hãy xem rừng tùng ấy có mai phục gì chăng?”.
Tiêu Dao Tử nói:
“Trong rừng tùng dù cho có ngầm đặt cung nỏ hay độc khí, bên ngoài cũng khó nhìn ra”.
Đại Phương thiền sư nói:
“Ý lão nạp muốn hỏi trong rừng tùng kia phải chăng có sắp đặt những trận thế như bát quái, cửu cung hay không?”.
Tiêu Dao Tử nói:
“Chỉ nhìn từ bề ngoài thì rừng tùng này có lẽ đã sống hàng trăm năm, vả lại mọc tự nhiên chứ không phải có người trồng, ả yêu phụ ấy chẳng qua lợi dụng rừng tùng tự nhiên này để sắp đặt xung quanh mà thôi”. Ông ta đã sống nhiều năm ở trong rùng sâu cho nên vừa nhìn thì đã biết cây cối đã sống được bao nhiêu năm. Đại Phương thiền sư múa cây thiền trượng trong tay, nói:
“Nếu rừng tùng không có trận thế kỳ môn độn giáp, chúng ta hãy bước vào xem thử!”.
Quần hào đều cất bước đi theo sau Đại Phương thiền sư.
Rừng tùng ấy xem ra rậm rạp, hướng không sâu lắm, chỉ trong chốc lát thì mọi người đã ra khỏi rừng tùng. Trước mắt toàn là hoa màu đỏ, mùi hương nồng nặc phát ra từ loại hoa này, mọi người đến gần thì mùi hương càng nồng hơn. Điều kỳ lạ là hoa ở đây toàn là màu đỏ, rõ ràng có người trồng. Mảnh đất trồng hoa này rộng đến khoảng năm mươi mẫu, hai bên là vách núi, ở dưới là hoa, ở giữa ruộng hoa ấy có một lối đi bằng đá trắng, lối đi này rất nhỏ, chỉ có thể chứa đủ một người bước qua. Ở một nơi âm u như địa ngục đột nhiên có một vườn hoa xinh đẹp như thế này. Trần Huyền Sương trên đường đến đây đã thấy những tượng đá quái dị, lúc này chợt thấy một vườn hoa màu đỏ, nàng tò mò đưa mắt nhìn quanh rồi thì thầm hỏi Phương Triệu Nam:
“Nam ca ca, đây là hoa gì, sao muội chưa từng gặp?”.
Phương Triệu Nam lắc đầu:
“Loại hoa này trông rất quái lạ, huynh cũng chưa thấy bao giờ”.
Đại Phương thiền sư đột nhiên tung mình vọt một cái lên đến con đường nhỏ bằng đá, sải bước tiến về phía trước. Quần hào nối đuôi theo sau, băng qua con đường nhỏ vượt qua vườn hoa. Cả đoạn đường không hề có trở ngại gì, đi qua mấy ngã núi, hoa cũng không còn nữa, trước mắt là một mảnh đất trống rộng rãi.
Cỏ xanh mơn mởn, tùng trúc đùa trong gió, lại là một cảnh đẹp mắt nữa. Ở phía xa là một ngọn núi cao chót vót, đứng sừng sững giữa bãi cỏ xanh, một lớp mây trắng mờ mịt bao phủ lấy ngọn núi ấy. Đại Phương thiền sư tuy tinh mắt nhưng cũng không thể nhìn thấy được rõ ràng cảnh vật ở trên đỉnh núi. Tiêu Dao Tử chỉ tay về phía đỉnh núi rồi nói:
“Ngọn núi trong mây ấy chắc đã là Minh Nhạc?”.
Đại Phương thiền sư ngẩng đầu, suy nghĩ một hồi rồi nói:
“Đúng vậy, giữa lúc trời trong xanh, ánh nắng chói chang mà mây mù bao phủ, âm khí năng nề, chỉ nhìn bề ngoài thôi cũng đã thấy không sai”.
Tiêu Dao Tử ngẩng mặt hú dài rồi nói:
“Chúng ta hãy tới chân núi xem thử”. Rồi cất bước tiến về phía trước. Quần hào đều thi triển thuật khinh công lướt nhanh như sao xẹt đi theo sau Tiêu Dao Tử phóng tới chân ngọn núi mây mù bao phủ ấy. Chỉ trong chốc lát, đi được ba bốn dặm đường thì tới chân núi. Nhướng mắt nhìn lên, chỉ thấy sương trắng bao phủ ngọn núi, quần hào tuy cách ngọn núi có ba bốn trượng nhưng vẫn không nhìn thấy cảnh vật ở trên. Đại Phương thiền sư nhíu mày, nói:
“Mây ở đâu mà bao phủ cả ngọn núi ...”.
Tụ Thủ Tiều Ẩn Sử Mưu Độn chợt chen vào hỏi:
“Đại sư có cảm thấy thời tiết ở nơi này có điều chi không ổn không?” ông ta vừa nhắc thì quần hào lập tức cảnh giác chỉ cảm thấy sau khi đến ngọn núi này thì khí hậu đột nhiên nóng nực hơn rất nhiều.
Chỉ nghe một tiếng cười lạnh nói:
“Lão phu bình sinh không bao giờ tin yêu ma, cho nên lão phu cũng không tin người ở Trung Nguyên biết sử dụng yêu pháp”. Mọi người quay đầu nhìn lại, chỉ thấy người lên tiếng ấy chính là ông già lùn đã sử dụng Vô Ảnh thần quyền, ông ta đang tiến về phía trước. Tụ Thủ Tiều Ẩn lạnh lùng nói:
“Đại mạc Tây Vực là nơi băng thiên tuyết địa, đương nhiên hiếm thấy núi lửa ...”.
Ông già ấy chợt quay đầu nhìn lại hỏi:
“Cái gì?”.
Đại Phương thiền sư sợ hai người lại tranh cãi với nhau dẫn đến xung đột, vội vàng chen vào nói:
“Ở vùng Đông Nam thường có chuyện nổ núi lửa, không biết huynh đài có nghe nói đến chưa?”.
Tiêu Dao Tử tiếp lời:
“Sử huynh vừa nhắc thì đã giúp cho lão hủ hiểu ra, ở nơi núi non trùng điệp thế này sao lại có một mảnh đất phì nhiêu, chắc là hàng trăm năm trước có một ngọn núi lửa sau khi nổ thì chỉ còn lại một đỉnh núi, còn xung quanh là đất bằng, đỉnh núi này e rằng có lẽ cũng là một ngọn núi lửa, cho nên mới có mây mù bốc lên ...”.
Chợt nghe Đại Phương thiền sư trầm giọng hỏi:
“Đó là gì?”.
Quần hào định thần nhìn tới, chỉ thấy trong mây mù dày đặc có một tấm biển chậm rãi thò ra, trên đó có mấy chữ viết bằng máu:
“Trong mây mù có độc chướng, nếu không được mời thì đừng lên núi!” ông già lùn ấy vừa nhìn thấy tấm biển thì chậm rãi lùi ra sau hai bước. Y định hỏi Đại Phương thiền sư, bỗng sau tấm biển ấy có ba người chậm rãi bước ra. Ba người này dàn hàng ngang bước tới. Quần hào vừa nhìn thì ai nấy đều đã động lòng. Té ra ba người sánh vai nhau bước tới là ba người đẹp tuyệt thế. Người ở giữa tương đối lớn hơn, tóc bới thành búi, trên lưng cắm thanh bảo kiếm, trong tay thì đang cầm một vật kỳ lạ trông giống như sừng nai mà đỏ như lửa, mặc y phục màu xanh lam, nhưng khuôn mặt thì lạnh lẽo. Người đi bên phải mặc đồ đỏ, tóc dài phủ vai, trong tay cầm cây phất trần, trên người cũng cắm thanh bảo kiếm.
Người đi bên trái toàn thân mặc y phục màu trắng như tuyết, tóc dài phủ vai, trong tay cầm một cây ngọc xích. Đại Phương thiền sư vừa nhìn thì đã nhận ra thiếu nữ áo trắng ấy chính là nàng Mai Giáng Tuyết đã gặp trên đỉnh Minh Nguyệt. Lúc này khuôn mặt xinh xắn của nàng vẫn lạnh lùng như băng tuyết, không hề thấy nét cười. Ba người sánh vai bước tới, áo quần bay phất phới trong gió, khi cách quần hào còn khoảng sáu thước, họ đều dừng bước. Tấm biển lúc nãy là do hai đại hán toàn thân mặc đồ đen cầm, bọn họ đang đứng ở chân núi. Chỉ thấy thiếu nữ mặc đồ màu lam đứng ở giữa hơi cúi người, môi mấp máy, phát ra giọng nói dịu dàng mà trong trẻo:
“Các người có phải đến dự tiệc Chiêu Hồn chăng?” giọng nói của nàng tuy dịu dàng dễ nghe, nhưng lời thì rất lạnh lùng. Đại Phương thiền sư chắp tay niệm một tiếng Phật hiệu rồi nói:
“Đúng vậy, bọn tại hạ đến đây dự hội”.
Thiếu nữ áo trắng ngẩng mặt nhìn bầu trời vô tận, nói:
“Hình như gia sư mời các vị đến mùng năm tháng năm mới vào Tuyệt Mệnh cốc, nay vẫn còn cách một tháng nữa, sao các vị lại đến sớm thế?”.
Đại Phương thiền sư nghiêm nghị nói:
“Không biết lệnh sư đã hẹn với ai vào ngày năm tháng năm?”.
Thiếu nữ áo lam nói:
“Gia sư đã nhắc đến chuyện này trong bức thư kèm theo Thất Xảo Thoa, lão thiền sư không nhớ chăng?”.
Đại Phương thiền sư cười lạnh rồi nói:
“Đó là do lệnh sư tự bảo thế, bọn lão nạp chả lẽ nhất định phải tuân theo?”.
Thiếu nữ áo lam ấy chợt mỉm cười:
“Nói như thế, các vị nhất định phải đến trước?”.
Đại Phương thiền sư nói:
“Đã đến nơi này, chả lẽ phải quay về?”.
Thiếu nữ áo lam hơi suy nghĩ rồi nói:
“Thôi được! Nếu các vị đã kiên quyết như thế, vậy hãy đi theo ta!” rồi chậm rãi xoay người dẫn đường tiến về phía trước. Đi một lát mọi người đã đến dưới chân núi. Lúc này thiếu nữ áo lam chợt xoay người, bước sang bên trái. Đại Phương thiền sư hơi nhíu mày, chỉ đành đi theo sau, lòng thầm nhủ:
“Ta đi cách các ngươi không xa, dù cho có mưu kế ám toán các ngươi cũng không thể thi triển”. Đang suy nghĩ, thì chợt nghe tiếng áo bay trong gió, Tụ Thủ Tiều Ẩn Sử Mưu Độn và Tiêu Dao Tử sánh vai đuổi lên, vượt qua khỏi Đại Phương thiền sư, đi phía sau ba thiếu nữ ấy, vẫn cách nhau không quá năm sáu thước.
Thiếu nữ áo lam quay đầu nhìn hai người ấy cười rằng:
“Nếu các vị không yên tâm, chúng ta hãy đi cùng được chăng?” lời lẽ của hai câu nói ấy rất sắc bén, Tiêu Dao Tử và Tụ Thủ Tiều Ẩn đưa mắt nhìn nhau hơi mỉm cười, sải bước đuổi theo. Té ra hai người này suy nghĩ sâu xa, chỉ nhìn nhau thì đã hiểu ý, đều cảm thấy đây không phải là lúc tranh cãi, nàng đã buông lời mỉa mai như thế thì chi bằng cứ tương kế tựu kế đi cùng với họ. Cử chỉ của thiếu nữ áo lam bạo dạn vô cùng, trước mắt mọi người mà vẫn sánh vai cùng với Tiêu Dao Tử, vả lại còn cười nói huyên thuyên, không hề có ý ái ngại. Một mùi u hương nhạt nhạt từ người nàng phát ra khiến cho người ta ngây ngất. Nàng đưa mắt nhìn Tụ Thủ Tiều Ẩn rồi lại quay đầu sang nhìn Tiêu Dao Tử, cười rằng:
“Có phải ông đã mù một mắt từ nhỏ không?”.
Con mắt độc nhất của Tiêu Dao Tử quắc lên rồi nói:
“Lão hủ đã lớn tuổi, có mù một mắt cũng chẳng hề gì”.
Thiếu nữ áo lam ấy nhoẻn miệng cười rồi nói:
“Trời có lúc sáng lúc tối, trăng có lúc tròn lúc khuyết, trên đời cũng chẳng có ai thập toàn thập mỹ, ông tuy chột một mắt nhưng võ công chắc hẳn không kém”.
Tiêu Dao Tử lạnh lùng đáp:
“Mấy lời khen ngợi này của cô nương, phải chăng đã quá đường đột?”.
Thiếu nữ áo lam cười rằng:
“Tiểu nữ xưa nay nói chuyện bao giờ cũng có căn cứ, quyết không phải đoán mò”.
Tiêu Dao Tử nói:
“Xin được nghe kỹ”.
Thiếu nữ áo lam liếc mắt rồi yểu điệu nói:
“Nếu tiểu nữ nói ra, chỉ e ông nghe xong thì không vui!” nàng cố ý cao giọng nói hai câu này khiến cho quần hào ở sau đều nghe thấy.
Tiêu Dao Tử thầm mắng:
“Ả nha đầu thật điêu ngoa!” nhưng miệng thì vẫn cố ý cười mà nói rằng:
“Lão hủ đã lớn tuổi, lòng tựa như nước lạnh, dù lời khó nghe nào cũng có thể chấp nhận, cô nương hãy yên tâm!”.
Thiếu nữ áo lam nói:
“Một người có khiếm khuyết trong thân thể, đa số đều có cảm giác tự ti, cũng giống như ông vừa nói, lòng như nước lạnh, không dễ bị quấy nhiễu, điều đó hợp với yếu quyết của người luyện võ, tâm ý dễ tập trung. Ông đã chột một con mắt, trong lòng đương nhiên có cảm giác tự ti rất sâu, chắc chắn là người luôn tránh xa cửa ải khó phá nhất là nhan sắc, đến khi tập võ thì một lòng một ý, không hề có tạp niệm, võ công đương nhiên tiến triển nhanh hơn người thường, nếu tiểu nữ đoán không sai, có lẽ ông vẫn là người độc thân!” nàng là một thiếu nữ trẻ tuổi mà nói ra những lời ấy, mặt không hề đổi sắc.
Tiêu Dao Tử buông giọng cười lớn:
“Lão hủ khâm phục cao luận của cô nương, nhưng lão hủ không phải là người không biết đến phong tình”.
Thiếu nữ áo lam ấy mỉm cười đáp:
“Nếu ông biết đến phong tình, đâu có cô độc như thế này”.
Hai người càng nói càng lớn tiếng, quần hào ở phía sau đều nghe thấy, những lời mỉa mai của cặp tóc trắng má hồng ấy khiến cho quần hào ai nấy đều cười thầm.
Thiếu nữ áo lam và Tiêu Dao Tử mỉa mai nhau một hồi, chợt quay mặt nhìn Tụ Thủ Tiều Ẩn Sử Mưu Độn rồi hỏi:
“Ông họ gì?”.
Tụ Thủ Tiều Ẩn lạnh lùng đáp:
“Lão phu xưa nay không thích đấu khẩu với người khác”.
Thiếu nữ áo lam cười rằng:
“Chả trách nào ông mặt mày lạnh lẽo như băng tuyết, vừa nhìn thì đã biết là một kẻ ngờ nghệch, bộ quần áo trên người của ông thật hợp, rất đẹp đôi với người bạn chột mắt của ông”.
Tụ Thủ Tiều Ẩn tức giận nói:
“Lão phu là người thế nào mà đôi co với ả nha đầu nhà ngươi!”.
Thiếu nữ áo lam mỉm cười:
“Thiếu nữ xưa nay thích cười đùa, ông không thích nghe, vậy thì ta cứ nói cho ông nghe!”.
Tụ Thủ Tiều Ẩn cười lạnh một tiếng:
“Lão phu xưa nay không hề thương hoa tiếc ngọc, nếu ngươi cứ muốn thử thủ đoạn của lão phu, vậy chi bằng hãy cứ nói vài câu vớ vẩn!”.
Thiếu nữ áo đỏ vẫn lặng lẽ đi bên cạnh, lúc này chợt chen vào cười rằng:
“Đại sư tỷ cười nói với hạng người như tượng gỗ này, không cảm thấy buồn chán ư? Phía sau chúng ta đang có tình lang của tam sư muội, đại sư tỷ muốn vui, sao không gọi y tới?”.
Thiếu nữ áo trắng nhíu mày, lạnh lùng nói:
“Nhị sư tỷ lại làm khó tiểu muội rồi”.
Thiếu nữ áo lam chợt thu lại nụ cười, lạnh lùng nói:
“Ai cho các ngươi chen vào, có phải không coi đại sư tỷ này ra gì hay không?”.
Thiếu nữ áo đỏ vội vàng nói:
“Tiểu muội không dám”.
Thiếu nữ áo trắng thì lặng lẽ cúi đầu, không nói một lời.
Thiếu nữ áo lam đưa mắt nhìn một vòng, lập tức nở nụ cười như hoa, quay đầu sang nhìn Tụ Thủ Tiều Ẩn:
“Ông không biết thương hoa tiếc ngọc, chắc là một lão già tuyệt tử tuyệt tôn?”.
Tụ Thủ Tiều Ẩn sắc mặt thay đổi, tay phải giở lên phất tới, miệng giận dữ quát:
“Ả nha đầu miệng còn hôi sữa, dám cười cợt lão phu?” luồng kình phong bén như dao, lướt thẳng tới như điện xẹt. Thiếu nữ áo đỏ hơi lách người, ống tay áo phất lên, vỗ vào cổ tay phải của Tụ Thủ Tiều Ẩn, miệng vẫn mỉm cười:
“Quả nhiên là một người thô lỗ”.
Tụ Thủ Tiều Ẩn hơi giật mình, nhủ thầm:
“Ả này tuổi chẳng qua trên dưới hai mươi thế mà có thể dồn nội gia chân lực vào ống tay áo rồi đánh ra, quả thật không thể coi thường người trong Minh Nhạc”.
Ý nghĩ ấy lướt qua, tay phải đã vội vàng hạ xuống thâu về, ngón trỏ và ngón giữa của tay trái khép lại, điểm vào huyệt khúc trì của thiếu nữ áo lam. Thiếu nữ áo lam kêu lên:
“Ôi chao! Quả thật lòng dạ như sắt đá, ra tay vô tình”. Nàng vừa noi vừa thối lui nhanh ra sau một bước, tránh đòn đánh ấy của Tụ Thủ Tiều Ẩn, ống tay áo phất lên, giáng thẳng lên đầu. Tụ Thủ Tiều Ẩn thấy cú phất tay áo ấy có một luồng ám kình cùng với một làn u hương nhàn nhạt, nghĩ bụng cú đánh này chắc chắn chứa đựng một lực âm nhu rất mạnh, tay trái vội gạt ngang ra.
Thiếu nữ áo lam sau khi cuộn tay áo đánh trúng Tụ Thủ Tiều Ẩn, lập tức cảm thấy một luồng ám kình bắn ngược lại, lòng hơi giật mình, thầm nhủ:
“Lực kình của lão tiều phu này thật ghê gớm”. Thế rồi tăng thêm mấy phần chân lực, ống tay áo của nàng cuộn vào cánh tay của Tụ Thủ Tiều Ẩn mà không chịu buông ra. Tụ Thủ Tiều Ẩn tuy tiếp được đòn đánh này, nhưng cảm thấy cánh tay trái tê rần, hầu như không thể chịu đựng được nữa, trong lòng thầm kinh phục. Hai người thầm đấu nội lực, nhưng bề ngoài trông rất phong tình. Thiếu nữ áo lam ấy cuộn ống tay áo ấy vào cẳng tay trái của Sử Mưu Độn, tựa như nắm tay của ông ta cùng đi, lại cố ý bước đi uyển chuyển, lả lướt.
Nhưng quần hào ở phía sau đều có thể thấy rằng, hai người xem ra là sánh vai đi cùng, nhưng thực sự cả hai bên đều đang dồn ra chân lực để ép đối phương. Ống tay áo của thiếu nữ áo lam cuộn lên tay Tụ Thủ Tiều Ẩn đã dồn nội lực lên cánh tay. Hai người đi được khoảng bảy tám trượng, thiếu nữ áo lam chợt rút ống tay áo về, thỏ thẻ cười rằng:
“Ông đã lớn tuổi như thế này, sao chưa chết đi?”.
Tụ Thủ Tiều Ẩn sau một hồi đấu nội lực, đã thấy không thể xem thường kẻ cường địch này, gân cốt trên cánh tay trái tê rần, cảm thấy hơi đau, nếu thiếu nữ áo lam không chịu thâu tay áo về, trong vòng một trăm bước, ông ta không thể đấu tiếp như thế nữa. Sử Mưu Độn vừa ngầm vận khí để khí huyết lưu thông, vừa lạnh lùng đáp:
“Lão phu không con không cái, có chết đi cũng chẳng ai quét mộ, cần gì phải vội?” khi ông ta đang nói thì đã đến một ngã rẽ. Thiếu nữ áo lam chợt ngừng lại, quay đầu nhìn lại Đại Phương thiền sư nói:
“Nhà sư già kia, đã đến Tuyệt Mệnh cốc!”.
Đại Phương thiền sư nghiêm nghị bước tới nói:
“Mời cô nương dẫn đường vào cốc”. Ông ta khí độ uy nghiêm, không bao giờ cười đùa, thiếu nữ áo lam ấy cũng không dám cười cợt với ông ta, nàng lách người bước vào một lối nhỏ chỉ chứa đủ hai người. Tiêu Dao Tử lướt ngang người chặn thiếu nữ áo đỏ lại, đi sánh vai cùng với thiếu nữ áo lam. Thiếu nữ áo đỏ đi phía sau Tiêu Dao Tử, Tụ Thủ Tiều Ẩn thì đi phía sau thiếu nữ áo đỏ, Mai Giáng Tuyết đi sát theo sau Tụ Thủ Tiều Ẩn, Đại Phương thiền sư dắt quần hào nối đuôi nhau bước theo. Đi hết con đường hẹp ấy, cảnh sắc đột nhiên thay đổi.
Chỉ thấy trước mặt là một sơn cốc rộng vô tận, trồng đầy cây cối và hoa cỏ, trên cây có các loại hoa đua nở, nhưng hình dạng của các loại hoa thì chưa bao giờ thấy qua, địa thế ở đây giống như trong tấm bản đồ của Mai Giáng Tuyết.
Giữa ruộng hoa là một lối đi nhỏ bằng cát vàng rộng bốn thước, thiếu nữ áo lam quay đầu cười:
“Các vị tốt nhất phải đi chậm hơn”.
Tiêu Dao Tử lớn giọng cười:
“Chôn thân giữa ruộng hoa, chết cũng không hối tiếc”.
Thiếu nữ áo lam mỉm cười:
“Con ma chột mắt kia, ông có biết loại hoa này tên gì không?”.
Tiêu Dao Tử cười lạnh đáp:
“Hoa dại trong tử cốc, tên gọi chắc cũng chẳng hay ho gì?”.
Thiếu nữ áo lam đáp:
“Ta cũng đoán ông không biết, loại hoa này tên gọi là Tiêu Hồn lan, phàm những kẻ thấy loại hoa này đều phải chết, vả lại chết rất thê thảm”.
Tiêu Dao Tử cười lớn nói:
“Cô nương nói như thế khiến cho lão hủ nhớ lại một câu nói, chính là nguyện chết dưới hoa để làm hoa phong lưu! Lão hủ nay tuổi đã lớn, có thể chết giữa ruộng hoa thế này, không biết là phước tu được mấy kiếp, nhưng cô nương tuổi mới vừa đôi mươi, xinh đẹp tuyệt luân, chết giữa ruộng hoa thì thật là đáng tiếc!”.
Thiếu nữ áo lam cười rằng:
“Ông nay tuổi đã lớn mới biết đến phong tình, may mà cây cỏ vô tri, chẳng biết xấu đẹp, không đến nỗi từ chối ý đẹp được chết cùng hoa của ông”. Lời nói của nàng chua chát sâu cay, khiến cho người nghe thấy đau đến tận xương. Tiêu Dao Tử vốn muốn mỉa mai trở lại, nhưng chợt nghĩ:
“Mình là người có thân phận, mà lại đấu khẩu với ả, bị ả mắng những lời khó nghe, đó quả thực là chuyện không đáng”. Đi hết con đường nhỏ bằng cát vàng, mọi người đến một bãi cỏ bằng, bãi cỏ xanh mơn mởn này rộng khoảng bốn năm mẫu, xung quanh là các loại hoa, cảnh sắc cực đẹp. Thiếu nữ áo lam chợt ngừng lại, cao giọng nói:
“Phiền các vị hãy ngồi xuống dưỡng thần trong chốc lát, đến khi ở tiệc Chiêu Hồn, chúng tôi sẽ đến tiếp đãi”. Nàng nói xuống thì phất tay, quay sang hai sư muội:
“Chúng ta đi thôi!” rồi cất bước toan bỏ đi.
Đại Phương thiền sư trầm giọng nói:
“Cô nương hãy chậm bước, lão nạp có chuyện muốn hỏi”.
Thiếu nữ áo lam ấy nheo mắt nhìn Đại Phương thiền sư rồi nói:
“Có chuyện gì?”.
Đại Phương thiền sư vẫn giữ vẻ mặt trang nghiêm, nói:
“Lão nạp tuy đến đây theo lời mời, nhưng chưa từng hứa sẽ đến vào đúng ngày năm tháng năm, tất cả những người ở đây đều có chút tiếng tăm trong võ lâm, ai nấy đều bận rộn, cho nên khó đợi lâu được, vậy phiền cô nương hãy sớm bẩm báo cho lệnh sư, bảo bà ta mau xuất hiện tương kiến, nếu đã có lòng thành mời chúng tôi, vậy chi bằng cứ sớm phân thắng thua cho xong”.
Thiếu nữ áo lam ấy nhìn sắc trời cười nói:
“Lúc này đã đến giờ ngọ, gia sư đãi khách không qua quá giờ tý đêm nay, các vị từ xa đến đây cũng nên nghỉ ngơi một lát để khỏi chết mà không nhắm mắt”.
Chợt nghe một giọng nói lạnh lùng thô lỗ vang lên:
“Đãi khách cái quái gì, lão phu đâu phải đói đến nỗi chạy đến đây ngắm hoa uống rượu của các ngươi, hãy mau bảo sư phụ của ngươi lập tức xuất hiện, đừng để ta nổi giận nổi lửa đốt sạch đám cây cỏ này của các ngươi”.
Thiếu nữ áo lam nheo mắt nhìn tới, chỉ thấy một ông già vừa mập vừa lùn bước ra khỏi đám đông quần hào, nàng không khỏi nhíu mày:
“Ngươi là ai? Sao lại ăn nói tùy tiện thế?”.
Ông già ấy buông giọng cười lớn rồi nói:
“Lão phu rất ít đến Trung Nguyên, dù có nói ra danh hiệu thì tên nha đầu miệng còn hơi sữa nhà ngươi cũng chẳng biết”.
Thiếu nữ áo lam ấy chợt thay đổi sắc mặt, nụ cười thường xuất hiện trên khóe miệng cũng biến mất, lạnh lùng đáp:
“Nếu bảo ít khi đến Trung Nguyên, chắc là nhân vật của Tây Vực đây?”.
Ông già ấy nghe thế thì hơi ngạc nhiên, thầm nhủ:
“Ả nha đầu này thật thông minh, có thể đoán được mình đến từ Tây Vực”. Thế rồi hơi suy nghĩ, đáp rằng:
“Đúng vậy, lão phu từ Tây Vực đến đây, Thiên Sơn Thần Quyền Bạch Trác Nghĩa chính là lão phu!”.
Thiếu nữ áo lam cười lạnh:
“Ngươi đường xa vạn dặm từ Tây Vực đến đây chịu chết, quả thực là kiếp nạn khó tránh, tự mình chôn thân”.
Bạch Trác Nghĩa nổi giận:
“Ngươi nói vớ vẩn điều gì? Nếu mở miệng làm tổn thương người nữa đứng trách lão phu ra tay động thủ dạy dỗ ngươi!”.
Thiếu nữ áo lam ấy vẫn lạnh lùng như sương, điềm nhiên nói:
“Kẻ ở nơi xa xôi hoang vắng, có gì đáng sợ?”.
Bạch Trác Nghĩa cao giọng quát:
“Một ả nha đầu mà cũng giám coi thường lão phu, không dạy cho ngươi một bài học, ngươi sẽ còn phách lối nữa!” rồi tay phải giở lên từ xa đánh tới. Thiếu nữ áo lam thấy y đưa tay từ xa đánh tới, trong lòng đã biết đối phương chắc chắn sẽ đánh ra một luồng chưởng phong phách không, thế rồi vội vàng ngầm đề tụ chân khí giới bị. Nào ngờ đối phương đã thu quyền lại, chẳng hề có chút động tĩnh gì, trong lòng cảm thấy ngạc nhiên lắm, nhủ thầm:
“Lão già này chẳng qua chỉ phô trương thanh thế, tự tìm đường xuống thang mà thôi!” nghĩ đến đây, chợt cảm thấy một luồng ám kình im hơi lặng tiếng giáng tới, mà lực đạo rất lớn, nàng chỉ cảm thấy giật mình, bất đồ thối lùi đến ba bước, nếu không sớm ngầm vận khí giới bị, nàng chắc chắn sẽ bị thương dưới đòn này.
Phải biết rằng Vô Ảnh thần quyền là tuyệt kỹ của phái Thiên Sơn, ở võ lâm Trung Nguyên không ai biết loại võ công này, thiếu nữ áo lam tuy thân mang tuyệt kỹ, nhưng cũng không biết Bạch Trác Nghĩa tại sao có thể chỉ phất tay một cái mà phát ra một luồng ám kình.
Sau khi đánh ra một đòn Vô Ảnh thần quyền, Bạch Trác Nghĩa cười rằng:
“Đó chẳng qua là một đòn trừng phạt nhỏ, nếu nói ra những lời phách lối nữa, đừng trách lão phu ra tay đánh người!”.
Thiếu nữ áo lam ấy sắc mặt trắng bệch, im lặng không nói, đứng trong chốc lát thì đột nhiên lách hai vai lướt tới như điện chớp, tay phải phất ra một cái, loại binh khí quái dị trông giống như sừng nai, đỏ như máu điểm về phía Bạch Trác Nghĩa. Té ra nàng đã bị một đòn Vô Ảnh thần quyền của Bạch Trác Nghĩa đánh chấn thương nội phủ, đang vận khí điều tức cho nên không thể nào lên tiếng được, nhưng nàng công lực thâm hậu, sau một hồi điều tức thì lập tức chân khí trở về, thế là bất ngờ lướt lên.
Bạch Trác Nghĩa phất ống tay trái quét vào món binh khí trông giống như sừng hưu ấy. Thiếu nữ áo lam đánh ra binh khí rất nhanh, nhưng thế thu về càng nhanh hơn, Bạch Trác Nghĩa chưa phất trúng thì đột nhiên đã tự bay về, tay của nàng múa ra một màn hồng quang. Bạch Trác Nghĩa chỉ cảm thấy mắt hoa lên, bốn phương tám hướng đều là hồng quang chói mắt đánh tới, trong lòng hơi run sợ, vội vàng thối lui nhanh ra sau, nhưng không ngờ thiếu nữ áo lam đã điểm tay trái tới. Cú điểm này rất bất ngờ, quỷ dị vô cùng, Bạch Trác Nghĩa nhất thời né không kịp, chỉ đành phất tay tiếp lấy cú điểm ấy, chỉ cảm thấy nơi bị nàng điểm trúng đau nhói lên, vội vàng rút tay về. Thiếu nữ áo lam điểm trúng Bạch Trác Nghĩa xong, tung mình vọt ra sau đến hơn một trượng, cười rằng:
“Đây gọi là Thiên Phu Nhất chỉ, cho ngươi xem thử sự lợi hại của ta, nếu trong lòng không phục thì đợi lát nữa hai chúng ta sẽ lại đánh thêm trận nữa”.
Quần hào thấy thủ pháp của thiếu nữ áo lam quỷ dị, ai nấy đều giật mình nhủ rằng:
“Lộ số võ công của ả này thay đổi khó lường, thật sự không thể coi thường”.
Bạch Trác Nghĩa coi kỹ lại cánh tay bị thương, trên tay có một mảng lớn như đồng tiền đã đổi màu xanh, nếu chỉ này điểm vào trúng yếu huyệt thì chắc chắn sẽ bị trọng thương ngay tại chỗ, thế rồi thầm than:
“Nhân vật võ lâm Trung Nguyên quả thực cao thủ như mây, không thể coi thường”.
Đại Phương thiền sư phát chưởng trái, bốn nhà sư khoác cà sa màu đỏ mau chóng rê tới, chặn thiếu nữ áo lam lại. Thiếu nữ áo lam nhướng mày, cười lạnh nói:
“Các ngươi chắc muốn chết đây?” bốn nhà sư chỉ ưỡn ngực giơ đao chặn đường lại, tựa như không hề nghe câu hỏi của thiếu nữ áo lam. Đại Phương thiền sư cao giọng niệm một tiếng Phật hiệu rồi nói:
“Cô nương hãy tạm dừng bước, lão nạp vẫn chưa nói hết lời, giờ đây cao thủ như mây, bọn ba người cô nương tự tin có thể vượt qua chăng?”.
Thiếu nữ áo lam đưa mắt nhìn quần hào rồi thầm nhủ:
“Nhà sư già này nói cũng không sai, ba người chúng ta muốn vượt sự cản trở của họ chỉ e không dễ, chúng ta bố trí vẫn chưa chặt chẽ, sư phụ nhất thời cũng khó đến cứu viện, nếu thực sự động thủ chỉ e rằng sẽ thua thiệt”. Lúc nãy nàng vừa mới bị một đòn Vô Ảnh thần quyền của Bạch Trác Nghĩa, thì biết tất cả những người ở đây đều mang tuyệt kỹ trong người, cho nên ý nghĩ khinh địch cũng giảm đi rất nhiều.
Thế rồi nàng mới giả vờ trấn tĩnh mà cười rằng:
“Sao? Chả lẽ muốn giữ ba tỷ muội chúng tôi ở đây cùng các người chăng?”.
Đại Phương thiền sư là bậc tôn sư của một phái, là người rất nghiêm nghị, nghe những lời nói phóng đãng ấy của nàng thì trong nhất thời không thể nghĩ ra lời nào để đối đáp. Trầm ngâm một lát, Đại Phương thiền sư mới nghiêm nghị nói:
“Lão phu là người trong cửa Phật, bình sinh không ưa cười nói”.
Thiếu nữ áo lam hơi trầm ngâm:
“Xem ra hình như ông là nhân vật đầu não lần này?”.
Đại Phương thiền sư nói:
“Được họ đề cử lão nạp, tạm cho lão nạp ra mặt bàn bạc với lệnh sư”.
Thiếu nữ áo lam nói:
“Đại hội chưa bắt đầu, gia sư e rằng không thể hiện thân”.
Đại Phương thiền sư nói:
“Lệnh sư đừng nên bày trò nữa, anh hùng trong thiên hạ được bà ta mời đều đã đến đây, sao bà ta còn chưa ra mặt gặp gỡ?”.
Thiếu nữ áo lam lạnh lùng nói:
“Các người không đến theo kỳ hẹn, còn trách được ai?”.
Đại Phương thiền sư nói:
“Tất cả những người ở đây đều đã chuẩn bị lương khô, không cần lệnh sư tiếp đãi nữa”.
Thiếu nữ áo lam nhủ thầm:
“Xem ra lão hòa thượng này chỉ muốn giữ chúng ta ở lại làm con tin, lúc này sư phụ vẫn chưa sắp xếp chu đáo, nếu mình xung đột với họ, không những không có người cứu viện mà còn sẽ làm hỏng toàn cuộc, cân nhắc nặng nhẹ, chỉ đành tạm thời kéo dài thời gian”. Ý nghĩ ấy lướt qua, thế rồi mới nhoẻn miệng cười:
“Gia sư nghỉ ngơi vẫn chưa thức, thật khó lập tức xuất hiện ...”.
Đại Phương thiền sư tiếp lời:
“Vậy làm phiền các vị hãy tạm thời ở đây, đợi lệnh sư xuất hiện rồi đi cũng không muộn”.
Thiếu nữ áo lam quay đầu nhìn thiếu nữ áo đỏ và Mai Giáng Tuyết, cười rằng:
“Nói như vậy, ông muốn giữ ba chỉ em chúng tôi ở đây làm con tin?”.
Tụ Thủ Tiều Ẩn cười lạnh một tiếng, chen vào nói:
“Đâu chỉ làm con tin, nếu thời gian kéo dài mà không chịu xuất hiện, trước tiên sẽ giết ba người các ngươi, sau đó sẽ nổi lửa đốt sạch nơi này của các ngươi”.
Thiếu nữ áo lam nói:
“Khẩu khí của ngươi thật lớn, ngươi tự tin có thể đốt được chăng? Hừ ...”.
Đại Phương thiền sư nói:
“Điều đó cũng rất khó nói, trên giang hồ tuy có giới luật, nhưng lệnh sư làm việc thật quá đáng, nếu quần hào nổi giận, thì khó tránh sẽ vượt qua giới luật, lúc đó lão nạp cũng không thể ngăn cản được”.
Thiếu nữ áo lam thầm lo:
“Sư phụ vẫn chưa biết thế địch như thế nào, đợi mình quay về bẩm báo, nếu như lão hòa thượng này cứ giữ mình lại, đây quả thực là chuyện phiền toái”.
Té ra Đại Phương thiền sư lo lắng Minh Nhạc Nhạc chủ đặt mai phục trong rừng cây cho nên cố ý giữ ba thiếu nữ này không cho họ bỏ đi. Thiếu nữ áo lam trầm ngâm một hồi rồi cười:
“Nếu các người muốn gặp gia sư, ta sẽ đi mời người đến đây”. Đại Phương thiền sư hơi trầm tư rồi nói:
“Trong số ba người các vị, chả lẽ cô nương nhất định phải đi?”.
Thiếu nữ áo lam cười rằng:
“Vậy các ông cứ tùy tiện chỉ định một người!” rồi lòng thầm nhủ:
“Bọn chúng không chịu buông tha cho mình, té ra là coi mình là nhân vật đầu não”.
Đại Phương thiền sư chậm rãi lướt nhìn thiếu nữ áo đỏ, rồi đưa mắt nhìn Mai Giáng Tuyết, đang định mở miệng chỉ định Mai Giáng Tuyết, chợt lòng nảy ra một ý, nhủ rằng:
“Nếu mình bảo nàng đi, vạn nhất khiến cho sư phụ của nàng nghi ngờ, há chẳng phải khéo hóa vụng, hại nàng hay sao?” ý nghĩ ấy lướt qua, rồi đưa tay chỉ vào thiếu nữ áo đỏ nói:
“Vậy xin mời vị cô nương áo đỏ này!”.
Thiếu nữ áo lam nhìn thiếu nữ áo đỏ rồi cười:
“Nhị sư muội, lão hòa thượng đã thích muội rồi đó”.
Thiếu nữ áo đỏ nghe thiếu nữ áo lam nói như thế, mới chậm rãi bước tới, cười rằng:
“Nhưng muội phải mời sư phụ ư?”.
Đại Phương thiền sư cười lạnh rồi nói:
“Trước giờ tý, nếu lệnh sư vẫn không chịu xuất hiện, đừng trách chúng tôi ra tay độc ác ...” ánh mắt nhìn lướt về phía thiếu nữ áo lam và Mai Giáng Tuyết nói tiếp:
“Hai vị cô nương đừng hòng rời khỏi chốn này”.
Cửu Tinh Truy Hồn Hầu Chấn Phương nói tiếp một câu:
“Còn vườn hoa này nữa, cũng sẽ hóa thành than”.
Thiếu nữ áo đỏ đưa tay vuốt mái tóc rối, nhoẻn miệng cười:
“Đừng quá khoác lác, nếu chúng tôi vẫn chưa bố trí, cũng không thể mời các vị đến đây!” nói xong thì ưỡn ẹo tiến về phía trước. Đại Phương thiền sư phất tay, các hòa thượng đang chặn đường lập tức lách qua một bên, chừa ra một lối. Thiếu nữ áo đỏ ung dung bước qua mấy hòa thượng ấy, chợt nàng ngừng bước, quay đầu lại cười:
“Ở bên ngoài mảnh rừng này có một loại độc chướng bao phủ suốt ngày đêm, không màu không vị, các vị tốt nhất hãy dừng ở đây đừng đi bừa, nếu xông ra khỏi mảnh rừng một bước, lúc đó trúng độc thì đừng trách chúng tôi”. Rồi nàng cũng không đợi bọn Đại Phương thiền sư trả lời, tung mình vọt một cái ra đến hai trượng. Chỉ thấy bóng dáng mảnh khảnh của nàng ẩn hiện trong rừng hoa rồi biến mất. Đại Phương thiền sư giơ tay phải vẽ trong không trung một vòng tròn, ba mươi sáu đệ tử đi cùng đột nhiên mau chóng di chuyển xen vào nhau, trong khoảnh khắc đã xếp thành một trận thế.
Tiêu Dao Tử mỉm cười, hỏi:
“Đây có phải La Hán trận vang danh thiên hạ của quý phái không?”.
Đại Phương thiền sư cười rằng:
“Đúng vậy, xưa nay bổn tự ít khi dùng đến La Hán trận này, La Hán trận chia thành hai loại, đó là đại trận và tiểu trận, đại trận do một trăm lẻ tám đệ tử xếp thành, tiểu trận có ba mươi sáu người, đáng tiếc đệ tử của quý phái vẫn chưa kịp đến, nếu không lão nạp có thể tận mắt thấy Ngũ Hành kiếm trận vang danh thiên hạ của quý phái”.
Tiêu Dao Tử nói:
“Đại sư hãy yên tâm, khi tại hạ vào núi đã ngầm để lại ám hiệu bổn phái, từ đỉnh Minh Nguyệt đến đây ...”.
Tụ Thủ Tiều Ẩn Sử Mưu Độn chen vào nói:
“Chúng ta đến dự tiệc trước, chỉ e người trong quý phái không biết chuyện này, cho nên khó đuổi theo kịp ...”.
Thiếu nữ áo lam đột nhiên mỉm cười nói tiếp:
“Tốt nhất là bọn chúng có thể đến kịp vào Tuyệt Mệnh cốc trước giờ tý, để chúng tôi khỏi phí công sức”.
Tiêu Dao Tử không thèm để ý đến thiếu nữ áo lam nữa, cười lớn một hồi rồi nói:
“Ngày chúng ta quyết định đến dự tiệc sớm, lão hủ đã phái đệ tử canh giữ ở dưới đỉnh Minh Nguyệt về núi Võ Đang, bảo bọn họ tranh thủ đến, tính thời gian có lẽ trong vòng hai ngày sẽ tới, hôm nay không tới thì ngày mai nhất định sẽ tìm đến nơi này”.
Đại Phương thiền sư ngửa mặt nhìn sắc trời:
“Lão nạp mong được gặp chưởng môn quý phái là Thần Chung đạo trưởng có thể đích thân dắt đệ tử đến đây, hai phái chúng ta năm xưa có chút hiểu nhầm, cũng có thể nhân cơ hội này mà hóa giải”.
Tiêu Dao Tử nói:
“Đại sư hãy yên tâm, chưởng môn sư điệt của lão hủ đã không còn nghĩ đến hiểu lầm của hai phái chúng ta nữa, lão hủ đã nói rõ ràng mọi sự với Thần Chung sư điệt”.
Đại Phương thiền sư hơi mỉm cười, nói:
“Lúc này vẫn còn cách giờ tý quá sớm, chúng ta hãy nghỉ ngơi”. Nói xong thì ngồi xuống xếp bằng, nhắm mắt dưỡng thần.
Quần hào đều ngồi xuống, vây xung quanh thiếu nữ áo lam và Mai Giáng Tuyết. Mai Giáng Tuyết đưa mắt nhìn quanh quần hào, cũng ngồi xuống, đặt cây ngọc xích trên tay trước người. Từ khi bước ra, nàng chưa nói lời nào, bộ mặt vẫn cứ lạnh lùng như băng tuyết, tựa như mọi chuyện trên đời này chẳng đủ khiến cho nàng mỉm cười.
/58
|