Khe đá rất hẹp, Nhị Rỗ phải nghiêng người lách vào, bị kẹt mấy lần, chật vật mãi mới xuống được tận đáy.
Vương Uy thấy sợi dây thừng chững lại, bèn gọi vọng vào khe hỏi xem có chuyện gì. Nhị Rỗ ở dưới gào thật to, bảo thấy một cửa hang, gã muốn vào xem.
Đèn pin của Nhị Rỗ sắp hết pin, có thể tắt bất cứ lúc nào, Vương Uy sợ Nhị Rỗ ở dưới đó xảy ra chuyện, đành bảo lính buộc mình vào dây thừng thả xuống khe đá.
Vương Uy xuống đến nơi thì đèn pin của Nhị Rỗ cũng tắt ngấm, rất may Vương Uy đã có chuẩn bị, đem theo đuốc. Lúc tụt xuống khe đá không tiện cầm đuốc, không cẩn thận rất dễ làm cháy áo quần trên mình. Vương Uy xuống đến nơi liền gọi Nhị Rỗ, gọi mấy tiếng không nghe Nhị Rỗ trả lời. Vương Uy sợ hãi vội đốt đuốc lên, thấy trước mặt là một cửa hang cao chừng nửa thân người.
Vương Uy thầm chửi Nhị Rỗ nói chẳng giữ lời, bảo chờ bên dưới vậy mà nháy mắt đã không thấy đâu. Xong việc này nhất định phải xạc cho gã một trận, cái tội vô kỷ luật, không nghe lệnh chỉ huy.
Nơi Vương Uy đứng là vách đá chênh vênh, rơi xuống coi như thịt nát xương tan. Nhị Rỗ quý mạng như vàng, nhất định sẽ không nhảy xuống dưới, hẳn đã chui vào cái hang kia rồi.
Vương Uy chẳng kịp suy nghĩ, chỉ sợ trong hang Nhị Rỗ không có ánh sáng, gặp phải rắn rết hay thú dữ thì coi như xong đời, đành chui đầu vào hang.
Trong hang nồng nặc mùi hôi thối, có lẽ là xác con vật nào đó thối rữa. Cửa hang rất hẹp, nhưng bên trong cũng đủ để đứng thẳng người.
Cái hang là một đường hầm dẫn xuống dưới, xung quanh yên tĩnh tới mức Vương Uy nghe rõ mồn một tiếng chân mình, ngọn đuốc chỉ soi sáng được trong phạm vi mấy mét, bóng tối rợn người vây chặt lấy anh.
Vương Uy đi được một quãng, thoáng nghe thấy trong hang sâu vang lên những tiếng động gì đó rất mơ hồ, không thật. Vương Uy cầm chắc tay súng, thận trọng đi về phía phát ra tiếng động kia. Lại đi tiếp một đoạn nữa, âm thanh to hơn rất nhiều, dường như là tiếng động vật đang rau ráu nhai gì đó. Trong bóng tối mịt mùng nghe thấy âm thanh ấy ai cũng phải nổi da gà. Nghe âm thanh này, hình như là thú dữ đang ăn, có cả tiếng xé thịt, nhưng điều khiến người ta lấy làm lạ là, cái hang chật hẹp thế này lấy đâu ra thú dữ?
Nhị Rỗ chui vào hang rồi không thấy tăm hơi đâu nữa, lý ra hai người vào cách nhau không lâu, hang động này lại chỉ đi thẳng, không có nhánh rẽ, nhất định phải để lại dấu vết gì chứ. Vương Uy càng nghĩ càng cho rằng Nhị Rỗ đã gặp chuyện, chẳng nhẽ trong hang này có thú dữ, tiếng nhai kia là tiếng thú dữ xé thịt gã hay sao?
Vương Uy đang suy nghĩ vẩn vơ bỗng một luồng khí nóng từ phía trước ập tới, tiếng nhai rau ráu như ở sát bên tai. Vương Uy giật nảy mình, toát mồ hôi lạnh, vội lùi lại, giơ súng lên bắn liền mấy phát, nhưng đạn bay cả vào không trung.
Bỗng tiếng nhai dễ sợ kia im bặt.
Vương Uy cũng bình tĩnh lại, anh và Nhị Rỗ là bạn từ hồi học ở đại học Yên Kinh, lại là anh em cùng tòng quân hơn chục năm nay. Có câu sống phải thấy người, chết phải thấy xác, cứ coi như Nhị Rỗ bị thú dữ ăn thịt rồi, anh cũng phải thu nắm xương tàn của gã để khỏi phụ tình anh em sống chết có nhau.
Nghĩ đến đây Vương Uy hạ quyết tâm, tiếp tục đi phía trước, bó đuốc trong tay anh sắp cháy hết, ánh đuốc loang loáng vài lần rồi phụt tắt. Trong khoảnh khắc bóng tối bao trùm, Vưong Uy chợt thấy một bóng người tiến tới trước mặt mình.
Vương Uy giật nảy mình, theo phản xạ đưa tay đẩy bóng đen ra. Vừa chạm vào, anh cảm thấy tay dinh dính dịch thể, không biết là thứ gì. Vưong Uy vội đánh bùi nhùi, châm một bó đuốc khác. Trong ánh đuốc chập chờn anh thấy một gương mặt tái nhợt, dán sát xuống mặt đất, loang lổ máu me. Nhưng có thể khẳng định đó không phải là mặt Nhị Rỗ, Vương Uy cũng thở phào nhẹ nhõm.
Chợt anh lại nghĩ, chuyện này cũng thật bất thường, khe đá thì đã có anh và Nhị Rỗ cùng tụt xuống, lẽ nào trong hang động này còn có lối vào khác? Hơn nữa, trong khoảnh khắc ngọn đuốc tắt phụt, rõ ràng anh trông thấy một bóng người, vậy mà cuối cùng chỉ có một cái đầu, chuyện này cũng thật ly kỳ khó hiểu.
Vương Uy đá văng cái mặt nằm dưới đất, vừa đi tiếp vừa âm thầm chửi rủa khắp lượt tổ tông nhà Nhị Rỗ, gã này thật nhiễu sự, tự dưng tự lành đòi chui vào khe làm quái gì cơ chứ?
Lối đi trước mặt rộng hơn ra, nhưng dọc đường không thấy chút dấu tích nào chứng tỏ từng có những sinh vật khác đặt chân tới. Con đường phía trước rẽ ngoặt một khúc, tại nhánh rẽ có một ô cửa đá cực lớn đang hé mở, như có người vừa tiến vào.
Vương Uy áp tai vào cửa, nghe ngóng động tĩnh bên trong, hồi lâu chẳng nghe thấy gì, anh đành khom người chui vào. Phạm vi chiếu sáng của ngọn đuốc rất nhỏ, chỉ được mấy mét, Vương Uy không sao xác định nổi tình hình trong hang.
Anh giương đuốc tiến vào giữa hang, bỗng phát hiện cách đấy mấy mét có một người đang nằm sấp. Người ấy co ro, tư thế giống hệt người nằm trong khối đá trong mờ trên kia, tức là khoanh tròn như thai nhi trong bụng mẹ. Trống ngực Vương Uy đập thình thịch, thì ra hai anh lính của mình chui vào giữa bệ đá kia không phải ngẫu nhiên, mà là kết quả tất yếu và tuân theo quy luật nào đó, rất có thể họ đã trúng tà thuật.
Vương Uy lại gần xem, thấy người kia nằm khoanh tròn trên một bệ đá vuông vắn, chẳng hề động cựa, xem chừng là một xác chết. Trên mình kẻ đó vận một bộ quân phục đã cũ, Vương Uy nhớ, mấy năm nay quân đội Tứ Xuyên không mặc quân phục loại này nữa, thật là kỳ lạ. Anh bước lên bệ đá, phát hiện đây là một không đầu, liền nghĩ ngay đến cái đầu ở ngoài cửa, lẽ nào cái đầu ấy là của cái xác này?
Vương Uy lật cái xác lên, kinh hoàng nhận ra bên dưới là một phiến đá trong mờ, giống như bệ đá trên lưng chừng núi. Giữa lớp đá trong mờ cũng thấp thoáng một bóng đen, nhưng không trông rõ là thứ gì.
Anh giơ đuốc soi khắp hang, hang này rất lớn, rộng ít nhất mấy chục mét, nhưng bên trong trừ bệ đá kỳ dị này ra không còn bất cứ thứ gì khác. Anh lại gần bệ đá nhìn kỹ, nhận ra nó rất lớn, lớn hơn nhiều so với bệ đá trên lưng chừng núi. Càng ngạc nhiên hơn là, bên trên bệ đá chừng hai mét lại có một bệ đá khác giống hệt gắn vào trần hang, hai cái đối xứng nhau.
Chuyện này thật quá lạ lùng. Như vậy lẽ nào bệ đá trên lưng chừng núi nối liền với bệ đá trong hang? Bệ đá trong mờ kỳ lạ này đã xuyên qua mấy chục mét núi, hay đặt giả thiết táo bạo hơn là bệ đá này còn ăn sâu hơn nữa vào lòng núi, phần bệ đá trên đỉnh hang vốn liền lạc với phần bệ đá dưới đất này, về sau bị người khác dùng cách gì đó đẽo mất một khúc ở giữa.
Nhưng quân phục trên người kẻ này giống như quân phục của đám quân phiệt địa phương đầu thời Dân Quốc vậy, có lẽ hắn ta cũng là người từ cách đây mười năm hai mươi năm trước rồi. Vương Uy lục soát khắp người cái xác kia, tìm thấy một tập văn bản. Lòng hiếu kỳ nổi lên, anh mặc kệ mình đang ở trong sơn động dưới đất, vội mở tập văn bản ra xem.
Xem xong một lượt, Vương Uy toát hết mồ hôi lạnh vì kinh hãi. Thì ra sự kiện đề cập đến trong văn bản liên quan tới một truyền thuyết ly kỳ từ hai mươi năm trước ở Tứ Xuyên.
Cái xác không đầu này là viên thư ký của Mã Văn Ninh, tên quân phiệt lớn vùng Tạng A Bối từ hơn hai mươi năm trước, nói chính xác là, thư ký đội đào trộm mộ của Mã Văn Ninh, đồng thời cũng do hắn chỉ đạo trực tiếp.
Vương Uy đánh Đông dẹp Bắc, đã đi hầu khắp tỉnh Tứ Xuyên, biết không ít chuyện về tên đại quân phiệt Mã Văn Ninh khét tiếng một thời. Nhất là chuyện hắn đào được cỗ quan tài đá, vướng phải lời nguyền độc địa, không những toàn quân bị diệt mà bản thân cũng chết thảm trong nhà. Câu chuyện ấy Vương Uy đã nghe không biết bao nhiêu lần.
Theo văn bản thì trong đội đào mộ không thiếu thầy phong thủy cao tay, bọn họ dựa trên bản đồ kho báu của vị lạt ma để phán đoán vị trí, tìm được một ngọn núi lớn gần vùng Xương Đô, ở đó có một đài thiên táng thần bí. Viên thư ký từ lâu đã nghe Mã Văn Ninh kể về giấc mơ kỳ quái của mình, thấy cái đài thiên táng kia giống hệt trong giấc mơ mà Mã Văn Ninh miêu tả, ông ta vô cùng kinh hãi, vội cho người hỏa tốc về báo lại với Mã Văn Ninh.
Đội đào mộ của Mã Văn Ninh lại phát hiện phía dưới khe đá của đài thiên táng có một hang động bí mật, trong hang mọc một thứ cây kỳ lạ, là cây đá. Giữa thân cây là một khối trong mờ hỗn độn, thông thẳng lên bệ đá ở lưng chừng núi, đài thiên táng trên đó bắt nguồn từ chính cây đá này. Càng xuống dưới, thân cây càng to ra, chẳng ai biết nó bắt rễ từ đâu. Hơn nữa, một đoạn thân cây từ nóc hang xuống mặt đất lại bị chặt ngang. Thật không sao tưởng tượng nổi, thân cây to nhường ấy, phải dùng cách nào mới có thể xén đi một đoạn ở giữa bằng bặn như thế?
Mã Văn Ninh ra lệnh cho đội đào mộ mở một lối đi trong hang, xuyên thẳng qua lòng núi, đưa một đoạn của cây đá kia về. Đội đào mộ phải mất mấy tháng trời mới chuyển được đoạn cây đá đến thung lũng, trong khoảng thời gian đó, trong đội liên tiếp xảy ra chuyện, có rất nhiều người vô cớ mất tích, cấp trên ban lệnh xuống, yêu cầu các chỉ huy sát sao theo dõi thuộc cấp của mình, hễ có vấn đề gì phải báo cáo ngay. Nhưng sách lược ấy vẫn không cải thiện được tình hình, số người mất tích hằng ngày chẳng giảm được bao nhiêu, chỉ cần chỉ huy sơ ý, lập tức trong đám thuộc cấp có người mất tích.
Chuyện mỗi ngày một rầy rà, chỉ mấy tháng, đội đào trộm mộ đã mất hơn một trăm người. Trong thời gian đó, đám lính trộm mộ vốn chưa hề biết thế nào là kính sợ quỷ thần, đều thấp thỏm lo âu, ngủ không yên giấc.
Khúc cây đá được đưa ra ngoài, mọi người mới phát hiện nó rỗng ruột, nói chính xác thì đó là một cỗ quan tài. Các cao thủ đào mồ quật mả trong đội xúm lại nhưng chẳng ai phát hiện ra cỗ quan tài đá này có công dụng gì đặc biệt cả, Mã Văn Ninh nổi giận, liền bắt lính tráng đưa quan tài về huyện A Bối để định đoạt.
Ở tư dinh của mình, Mã Văn Ninh dùng thuốc nổ để mở quan tài đá, không chỉ trông thấy thi thể vị lạt ma bị kền kền xé thành nhiều mảnh mà còn thấy dưới đáy quan tài có một số văn tự kỳ lạ và bản đồ, nghe nói những chữ này rất giống với chữ trên tấm bản đồ của vị lạt ma đưa đến. Vị lạt ma đã từng chỉ dẫn cho Mã Văn Ninh, nên hắn cũng đọc hiểu được đại khái ý nghĩa của nó.
Sau khi quan tài được mở ra, Mã Văn Ninh suốt đêm không sao ngủ được, hôm sau hắn sai lính đem quan tài trả về núi. Hôm quan tài được đưa đi, hắn mời hơn trăm vị Phật sống và lạt ma ở mấy huyện xung quanh đến đọc kinh siêu độ, cảnh tượng rất huyên náo.
Nhưng không ai biết rằng, cái quan tài kia không hề được trả về chỗ cũ mà được đưa đi nơi khác, chính là hang báu vật thần bí ghi trên tấm bản đồ cất giấu trong quan tài, nghe nói chỉ cần tìm thấy nơi ấy sẽ giải được lời nguyền không thể sống quá mười ngày của Mã Văn Ninh và đội trộm mộ.
Những thư từ này đều là mật hàm trao đổi giữa Mã Văn Ninh và viên thư ký, cũng là một trong những kênh quan trọng để Mã Văn Ninh kiểm soát đội trộm mộ. Trên thực tế, tổng chỉ huy trực tiếp của đội đào mộ là viên thư ký, ông ta tiếp nhận mệnh lệnh của Mã Văn Ninh, được phép của Mã Văn Ninh, có thể sai bảo đội đào trộm mộ làm mọi việc.
Viên thư ký cùng đội đào trộm mộ vừa ra khỏi thành thì nhận được lệnh của Mã Văn Ninh, yêu cầu ông ta dẫn một tiểu đội theo đường cũ quay về vùng núi Xương Đô, cứ ở hang núi chờ tin của Mã Văn Ninh. Mã Văn Ninh từ đó bặt vô âm tín, viên thư ký không biết Mã Văn Ninh bảo ông ta ở đó chờ tin gì, nhưng những binh sĩ đào trộm mộ chờ ở hang núi cứ chết dần chết mòn một cách hết sức kỳ quái, khiến viên thư ký càng ngày càng lo lắng. Cho đến khi chỉ còn lại một mình, ông ta mới phát hiện thì ra đằng sau chuyện này ẩn chứa một âm mưu to lớn.
Thư viết đến đây thì dừng lại, mấy trang sau đều để trắng. Vương Uy đang đọc đến đoạn quan trọng thì ngưng, lòng lẫn lộn muôn mối tơ vò, anh lật đi lật lại mấy trang giấy trắng vài lần nhưng chẳng tìm thấy một câu nào nữa. Đột nhiên, Vương Uy ngước lên, trông thấy một bóng đen lù lù bám trên vách hang tự lúc nào, anh giật thót cả mình, chẳng biết cái bóng đó là gì, nhưng nó bám ở đấy nhìn rất khủng bố tinh thần, dưới anh đuốc chập chờn trông như đang cử động. Vương Uy thấy bóng đen kia càng lúc càng lay động rõ hơn, thình lình, ngọn đuốc trong tay chập chờn mấy lần rồi tắt ngấm, một luồng hơi thối nóng hầm hập đột ngột từ sau lưng anh thốc tới.
Vương Uy sợ đứng tim, trong tình cảnh này ai bảo không sợ thì chỉ là nói khoác, anh vắt giò chạy về phía cửa đá, nhưng mới chạy được vài bước chân cẳng đã mềm nhũn ra. Những lời viên thư ký viết trong thư cứ lởn vởn trong óc, tại sao những người lính ở trong hang núi cứ chết dần? Phải chăng họ cũng chui cả vào trong bệ đá kín mít kia như hai người lính theo anh tới đây? Hay là có liên quan đến cái bóng đen bám trên vách hang?
Vương Uy chạy đến nỗi thở không ra hơi, ráng chạm vào cánh cửa đá kia, nhưng đột nhiên hai chân anh bỗng chới với trên không, dường như đã bị thứ gì đó xách gáy lên. Vương Uy ra sức vùng vẫy, nhưng trên không không có chỗ nào để bám víu, lòng anh run lên vì sợ hãi, chẳng biết thứ gì đang ở sau lưng mình?
Đương thắc mắc không hiểu sao thứ ở sau lưng treo mình lên không trung rồi chẳng thấy động tĩnh gì, Vương Uy bỗng thấy toàn thân nhẹ hẫng, rơi bịch từ độ cao mấy mét xuống, xương cốt như muốn gãy vụn cả ra. Anh đang chống tay gượng dậy thì thứ gì đó như một cái trống đá lập tức đèn nghiến anh xuống, khiến anh nằm xụi lơ dưới đất, nảy đom đóm mắt.
Vương Uy giãy giụa trên mặt đất sức nặng trên lưng mỗi lúc một tăng, đột nhiên anh ngước đầu lên, trông thấy phía sau cửa đá sáng rực ánh đuốc. Thoáng cái ngọn lửa sau cửa đá băng qua cánh cửa mở hé, theo sau là một người động tác cứng đờ, đáng sợ hơn là, người đó có một bộ mặt chim, dính đầy máu.
Không chịu nổi sức nặng trên lưng, Vương Uy gục xuống đất ngất lịm.
BA
Vương Uy thấy sợi dây thừng chững lại, bèn gọi vọng vào khe hỏi xem có chuyện gì. Nhị Rỗ ở dưới gào thật to, bảo thấy một cửa hang, gã muốn vào xem.
Đèn pin của Nhị Rỗ sắp hết pin, có thể tắt bất cứ lúc nào, Vương Uy sợ Nhị Rỗ ở dưới đó xảy ra chuyện, đành bảo lính buộc mình vào dây thừng thả xuống khe đá.
Vương Uy xuống đến nơi thì đèn pin của Nhị Rỗ cũng tắt ngấm, rất may Vương Uy đã có chuẩn bị, đem theo đuốc. Lúc tụt xuống khe đá không tiện cầm đuốc, không cẩn thận rất dễ làm cháy áo quần trên mình. Vương Uy xuống đến nơi liền gọi Nhị Rỗ, gọi mấy tiếng không nghe Nhị Rỗ trả lời. Vương Uy sợ hãi vội đốt đuốc lên, thấy trước mặt là một cửa hang cao chừng nửa thân người.
Vương Uy thầm chửi Nhị Rỗ nói chẳng giữ lời, bảo chờ bên dưới vậy mà nháy mắt đã không thấy đâu. Xong việc này nhất định phải xạc cho gã một trận, cái tội vô kỷ luật, không nghe lệnh chỉ huy.
Nơi Vương Uy đứng là vách đá chênh vênh, rơi xuống coi như thịt nát xương tan. Nhị Rỗ quý mạng như vàng, nhất định sẽ không nhảy xuống dưới, hẳn đã chui vào cái hang kia rồi.
Vương Uy chẳng kịp suy nghĩ, chỉ sợ trong hang Nhị Rỗ không có ánh sáng, gặp phải rắn rết hay thú dữ thì coi như xong đời, đành chui đầu vào hang.
Trong hang nồng nặc mùi hôi thối, có lẽ là xác con vật nào đó thối rữa. Cửa hang rất hẹp, nhưng bên trong cũng đủ để đứng thẳng người.
Cái hang là một đường hầm dẫn xuống dưới, xung quanh yên tĩnh tới mức Vương Uy nghe rõ mồn một tiếng chân mình, ngọn đuốc chỉ soi sáng được trong phạm vi mấy mét, bóng tối rợn người vây chặt lấy anh.
Vương Uy đi được một quãng, thoáng nghe thấy trong hang sâu vang lên những tiếng động gì đó rất mơ hồ, không thật. Vương Uy cầm chắc tay súng, thận trọng đi về phía phát ra tiếng động kia. Lại đi tiếp một đoạn nữa, âm thanh to hơn rất nhiều, dường như là tiếng động vật đang rau ráu nhai gì đó. Trong bóng tối mịt mùng nghe thấy âm thanh ấy ai cũng phải nổi da gà. Nghe âm thanh này, hình như là thú dữ đang ăn, có cả tiếng xé thịt, nhưng điều khiến người ta lấy làm lạ là, cái hang chật hẹp thế này lấy đâu ra thú dữ?
Nhị Rỗ chui vào hang rồi không thấy tăm hơi đâu nữa, lý ra hai người vào cách nhau không lâu, hang động này lại chỉ đi thẳng, không có nhánh rẽ, nhất định phải để lại dấu vết gì chứ. Vương Uy càng nghĩ càng cho rằng Nhị Rỗ đã gặp chuyện, chẳng nhẽ trong hang này có thú dữ, tiếng nhai kia là tiếng thú dữ xé thịt gã hay sao?
Vương Uy đang suy nghĩ vẩn vơ bỗng một luồng khí nóng từ phía trước ập tới, tiếng nhai rau ráu như ở sát bên tai. Vương Uy giật nảy mình, toát mồ hôi lạnh, vội lùi lại, giơ súng lên bắn liền mấy phát, nhưng đạn bay cả vào không trung.
Bỗng tiếng nhai dễ sợ kia im bặt.
Vương Uy cũng bình tĩnh lại, anh và Nhị Rỗ là bạn từ hồi học ở đại học Yên Kinh, lại là anh em cùng tòng quân hơn chục năm nay. Có câu sống phải thấy người, chết phải thấy xác, cứ coi như Nhị Rỗ bị thú dữ ăn thịt rồi, anh cũng phải thu nắm xương tàn của gã để khỏi phụ tình anh em sống chết có nhau.
Nghĩ đến đây Vương Uy hạ quyết tâm, tiếp tục đi phía trước, bó đuốc trong tay anh sắp cháy hết, ánh đuốc loang loáng vài lần rồi phụt tắt. Trong khoảnh khắc bóng tối bao trùm, Vưong Uy chợt thấy một bóng người tiến tới trước mặt mình.
Vương Uy giật nảy mình, theo phản xạ đưa tay đẩy bóng đen ra. Vừa chạm vào, anh cảm thấy tay dinh dính dịch thể, không biết là thứ gì. Vưong Uy vội đánh bùi nhùi, châm một bó đuốc khác. Trong ánh đuốc chập chờn anh thấy một gương mặt tái nhợt, dán sát xuống mặt đất, loang lổ máu me. Nhưng có thể khẳng định đó không phải là mặt Nhị Rỗ, Vương Uy cũng thở phào nhẹ nhõm.
Chợt anh lại nghĩ, chuyện này cũng thật bất thường, khe đá thì đã có anh và Nhị Rỗ cùng tụt xuống, lẽ nào trong hang động này còn có lối vào khác? Hơn nữa, trong khoảnh khắc ngọn đuốc tắt phụt, rõ ràng anh trông thấy một bóng người, vậy mà cuối cùng chỉ có một cái đầu, chuyện này cũng thật ly kỳ khó hiểu.
Vương Uy đá văng cái mặt nằm dưới đất, vừa đi tiếp vừa âm thầm chửi rủa khắp lượt tổ tông nhà Nhị Rỗ, gã này thật nhiễu sự, tự dưng tự lành đòi chui vào khe làm quái gì cơ chứ?
Lối đi trước mặt rộng hơn ra, nhưng dọc đường không thấy chút dấu tích nào chứng tỏ từng có những sinh vật khác đặt chân tới. Con đường phía trước rẽ ngoặt một khúc, tại nhánh rẽ có một ô cửa đá cực lớn đang hé mở, như có người vừa tiến vào.
Vương Uy áp tai vào cửa, nghe ngóng động tĩnh bên trong, hồi lâu chẳng nghe thấy gì, anh đành khom người chui vào. Phạm vi chiếu sáng của ngọn đuốc rất nhỏ, chỉ được mấy mét, Vương Uy không sao xác định nổi tình hình trong hang.
Anh giương đuốc tiến vào giữa hang, bỗng phát hiện cách đấy mấy mét có một người đang nằm sấp. Người ấy co ro, tư thế giống hệt người nằm trong khối đá trong mờ trên kia, tức là khoanh tròn như thai nhi trong bụng mẹ. Trống ngực Vương Uy đập thình thịch, thì ra hai anh lính của mình chui vào giữa bệ đá kia không phải ngẫu nhiên, mà là kết quả tất yếu và tuân theo quy luật nào đó, rất có thể họ đã trúng tà thuật.
Vương Uy lại gần xem, thấy người kia nằm khoanh tròn trên một bệ đá vuông vắn, chẳng hề động cựa, xem chừng là một xác chết. Trên mình kẻ đó vận một bộ quân phục đã cũ, Vương Uy nhớ, mấy năm nay quân đội Tứ Xuyên không mặc quân phục loại này nữa, thật là kỳ lạ. Anh bước lên bệ đá, phát hiện đây là một không đầu, liền nghĩ ngay đến cái đầu ở ngoài cửa, lẽ nào cái đầu ấy là của cái xác này?
Vương Uy lật cái xác lên, kinh hoàng nhận ra bên dưới là một phiến đá trong mờ, giống như bệ đá trên lưng chừng núi. Giữa lớp đá trong mờ cũng thấp thoáng một bóng đen, nhưng không trông rõ là thứ gì.
Anh giơ đuốc soi khắp hang, hang này rất lớn, rộng ít nhất mấy chục mét, nhưng bên trong trừ bệ đá kỳ dị này ra không còn bất cứ thứ gì khác. Anh lại gần bệ đá nhìn kỹ, nhận ra nó rất lớn, lớn hơn nhiều so với bệ đá trên lưng chừng núi. Càng ngạc nhiên hơn là, bên trên bệ đá chừng hai mét lại có một bệ đá khác giống hệt gắn vào trần hang, hai cái đối xứng nhau.
Chuyện này thật quá lạ lùng. Như vậy lẽ nào bệ đá trên lưng chừng núi nối liền với bệ đá trong hang? Bệ đá trong mờ kỳ lạ này đã xuyên qua mấy chục mét núi, hay đặt giả thiết táo bạo hơn là bệ đá này còn ăn sâu hơn nữa vào lòng núi, phần bệ đá trên đỉnh hang vốn liền lạc với phần bệ đá dưới đất này, về sau bị người khác dùng cách gì đó đẽo mất một khúc ở giữa.
Nhưng quân phục trên người kẻ này giống như quân phục của đám quân phiệt địa phương đầu thời Dân Quốc vậy, có lẽ hắn ta cũng là người từ cách đây mười năm hai mươi năm trước rồi. Vương Uy lục soát khắp người cái xác kia, tìm thấy một tập văn bản. Lòng hiếu kỳ nổi lên, anh mặc kệ mình đang ở trong sơn động dưới đất, vội mở tập văn bản ra xem.
Xem xong một lượt, Vương Uy toát hết mồ hôi lạnh vì kinh hãi. Thì ra sự kiện đề cập đến trong văn bản liên quan tới một truyền thuyết ly kỳ từ hai mươi năm trước ở Tứ Xuyên.
Cái xác không đầu này là viên thư ký của Mã Văn Ninh, tên quân phiệt lớn vùng Tạng A Bối từ hơn hai mươi năm trước, nói chính xác là, thư ký đội đào trộm mộ của Mã Văn Ninh, đồng thời cũng do hắn chỉ đạo trực tiếp.
Vương Uy đánh Đông dẹp Bắc, đã đi hầu khắp tỉnh Tứ Xuyên, biết không ít chuyện về tên đại quân phiệt Mã Văn Ninh khét tiếng một thời. Nhất là chuyện hắn đào được cỗ quan tài đá, vướng phải lời nguyền độc địa, không những toàn quân bị diệt mà bản thân cũng chết thảm trong nhà. Câu chuyện ấy Vương Uy đã nghe không biết bao nhiêu lần.
Theo văn bản thì trong đội đào mộ không thiếu thầy phong thủy cao tay, bọn họ dựa trên bản đồ kho báu của vị lạt ma để phán đoán vị trí, tìm được một ngọn núi lớn gần vùng Xương Đô, ở đó có một đài thiên táng thần bí. Viên thư ký từ lâu đã nghe Mã Văn Ninh kể về giấc mơ kỳ quái của mình, thấy cái đài thiên táng kia giống hệt trong giấc mơ mà Mã Văn Ninh miêu tả, ông ta vô cùng kinh hãi, vội cho người hỏa tốc về báo lại với Mã Văn Ninh.
Đội đào mộ của Mã Văn Ninh lại phát hiện phía dưới khe đá của đài thiên táng có một hang động bí mật, trong hang mọc một thứ cây kỳ lạ, là cây đá. Giữa thân cây là một khối trong mờ hỗn độn, thông thẳng lên bệ đá ở lưng chừng núi, đài thiên táng trên đó bắt nguồn từ chính cây đá này. Càng xuống dưới, thân cây càng to ra, chẳng ai biết nó bắt rễ từ đâu. Hơn nữa, một đoạn thân cây từ nóc hang xuống mặt đất lại bị chặt ngang. Thật không sao tưởng tượng nổi, thân cây to nhường ấy, phải dùng cách nào mới có thể xén đi một đoạn ở giữa bằng bặn như thế?
Mã Văn Ninh ra lệnh cho đội đào mộ mở một lối đi trong hang, xuyên thẳng qua lòng núi, đưa một đoạn của cây đá kia về. Đội đào mộ phải mất mấy tháng trời mới chuyển được đoạn cây đá đến thung lũng, trong khoảng thời gian đó, trong đội liên tiếp xảy ra chuyện, có rất nhiều người vô cớ mất tích, cấp trên ban lệnh xuống, yêu cầu các chỉ huy sát sao theo dõi thuộc cấp của mình, hễ có vấn đề gì phải báo cáo ngay. Nhưng sách lược ấy vẫn không cải thiện được tình hình, số người mất tích hằng ngày chẳng giảm được bao nhiêu, chỉ cần chỉ huy sơ ý, lập tức trong đám thuộc cấp có người mất tích.
Chuyện mỗi ngày một rầy rà, chỉ mấy tháng, đội đào trộm mộ đã mất hơn một trăm người. Trong thời gian đó, đám lính trộm mộ vốn chưa hề biết thế nào là kính sợ quỷ thần, đều thấp thỏm lo âu, ngủ không yên giấc.
Khúc cây đá được đưa ra ngoài, mọi người mới phát hiện nó rỗng ruột, nói chính xác thì đó là một cỗ quan tài. Các cao thủ đào mồ quật mả trong đội xúm lại nhưng chẳng ai phát hiện ra cỗ quan tài đá này có công dụng gì đặc biệt cả, Mã Văn Ninh nổi giận, liền bắt lính tráng đưa quan tài về huyện A Bối để định đoạt.
Ở tư dinh của mình, Mã Văn Ninh dùng thuốc nổ để mở quan tài đá, không chỉ trông thấy thi thể vị lạt ma bị kền kền xé thành nhiều mảnh mà còn thấy dưới đáy quan tài có một số văn tự kỳ lạ và bản đồ, nghe nói những chữ này rất giống với chữ trên tấm bản đồ của vị lạt ma đưa đến. Vị lạt ma đã từng chỉ dẫn cho Mã Văn Ninh, nên hắn cũng đọc hiểu được đại khái ý nghĩa của nó.
Sau khi quan tài được mở ra, Mã Văn Ninh suốt đêm không sao ngủ được, hôm sau hắn sai lính đem quan tài trả về núi. Hôm quan tài được đưa đi, hắn mời hơn trăm vị Phật sống và lạt ma ở mấy huyện xung quanh đến đọc kinh siêu độ, cảnh tượng rất huyên náo.
Nhưng không ai biết rằng, cái quan tài kia không hề được trả về chỗ cũ mà được đưa đi nơi khác, chính là hang báu vật thần bí ghi trên tấm bản đồ cất giấu trong quan tài, nghe nói chỉ cần tìm thấy nơi ấy sẽ giải được lời nguyền không thể sống quá mười ngày của Mã Văn Ninh và đội trộm mộ.
Những thư từ này đều là mật hàm trao đổi giữa Mã Văn Ninh và viên thư ký, cũng là một trong những kênh quan trọng để Mã Văn Ninh kiểm soát đội trộm mộ. Trên thực tế, tổng chỉ huy trực tiếp của đội đào mộ là viên thư ký, ông ta tiếp nhận mệnh lệnh của Mã Văn Ninh, được phép của Mã Văn Ninh, có thể sai bảo đội đào trộm mộ làm mọi việc.
Viên thư ký cùng đội đào trộm mộ vừa ra khỏi thành thì nhận được lệnh của Mã Văn Ninh, yêu cầu ông ta dẫn một tiểu đội theo đường cũ quay về vùng núi Xương Đô, cứ ở hang núi chờ tin của Mã Văn Ninh. Mã Văn Ninh từ đó bặt vô âm tín, viên thư ký không biết Mã Văn Ninh bảo ông ta ở đó chờ tin gì, nhưng những binh sĩ đào trộm mộ chờ ở hang núi cứ chết dần chết mòn một cách hết sức kỳ quái, khiến viên thư ký càng ngày càng lo lắng. Cho đến khi chỉ còn lại một mình, ông ta mới phát hiện thì ra đằng sau chuyện này ẩn chứa một âm mưu to lớn.
Thư viết đến đây thì dừng lại, mấy trang sau đều để trắng. Vương Uy đang đọc đến đoạn quan trọng thì ngưng, lòng lẫn lộn muôn mối tơ vò, anh lật đi lật lại mấy trang giấy trắng vài lần nhưng chẳng tìm thấy một câu nào nữa. Đột nhiên, Vương Uy ngước lên, trông thấy một bóng đen lù lù bám trên vách hang tự lúc nào, anh giật thót cả mình, chẳng biết cái bóng đó là gì, nhưng nó bám ở đấy nhìn rất khủng bố tinh thần, dưới anh đuốc chập chờn trông như đang cử động. Vương Uy thấy bóng đen kia càng lúc càng lay động rõ hơn, thình lình, ngọn đuốc trong tay chập chờn mấy lần rồi tắt ngấm, một luồng hơi thối nóng hầm hập đột ngột từ sau lưng anh thốc tới.
Vương Uy sợ đứng tim, trong tình cảnh này ai bảo không sợ thì chỉ là nói khoác, anh vắt giò chạy về phía cửa đá, nhưng mới chạy được vài bước chân cẳng đã mềm nhũn ra. Những lời viên thư ký viết trong thư cứ lởn vởn trong óc, tại sao những người lính ở trong hang núi cứ chết dần? Phải chăng họ cũng chui cả vào trong bệ đá kín mít kia như hai người lính theo anh tới đây? Hay là có liên quan đến cái bóng đen bám trên vách hang?
Vương Uy chạy đến nỗi thở không ra hơi, ráng chạm vào cánh cửa đá kia, nhưng đột nhiên hai chân anh bỗng chới với trên không, dường như đã bị thứ gì đó xách gáy lên. Vương Uy ra sức vùng vẫy, nhưng trên không không có chỗ nào để bám víu, lòng anh run lên vì sợ hãi, chẳng biết thứ gì đang ở sau lưng mình?
Đương thắc mắc không hiểu sao thứ ở sau lưng treo mình lên không trung rồi chẳng thấy động tĩnh gì, Vương Uy bỗng thấy toàn thân nhẹ hẫng, rơi bịch từ độ cao mấy mét xuống, xương cốt như muốn gãy vụn cả ra. Anh đang chống tay gượng dậy thì thứ gì đó như một cái trống đá lập tức đèn nghiến anh xuống, khiến anh nằm xụi lơ dưới đất, nảy đom đóm mắt.
Vương Uy giãy giụa trên mặt đất sức nặng trên lưng mỗi lúc một tăng, đột nhiên anh ngước đầu lên, trông thấy phía sau cửa đá sáng rực ánh đuốc. Thoáng cái ngọn lửa sau cửa đá băng qua cánh cửa mở hé, theo sau là một người động tác cứng đờ, đáng sợ hơn là, người đó có một bộ mặt chim, dính đầy máu.
Không chịu nổi sức nặng trên lưng, Vương Uy gục xuống đất ngất lịm.
BA
/15
|