Sắp đến canh tư, yên lặng như tờ, nghe như có tiếng gió xào xạc phớt qua. Một sợi hương trầm nhè nhẹ trong trẻo lượn lờ quấn quýt quanh màn gấm hoa văn hoa sen buông rũ.
Dao Anh ngồi quỳ trước mặt Đàm Ma La Già, nghiêng người về trước, thu bàn tay cầm chiếc khăn.
Đàm Ma La Già nhìn nàng, phòng rất tối nhưng nàng cách rất gần, gần đến mức như thấy được trên làn da tuyết trắng của nàng như có một vầng sáng mượt mà lưu chuyển, ánh mắt chàng dừng lên mái tóc bên đen nhánh hơi rối của nàng, thật lâu không nói gì.
Phật đã đưa nàng tới không phải sao?
Chàng mãi không lên tiếng, ánh mắt hơi khác thường, Dao Anh xích lại gần hơn, lo lắng hỏi: “Pháp sư bị bệnh ạ? Để tôi gọi Ba Murs vào?” Giọng nàng uyển chuyển, mi mắt khẽ chớp. Mỗi một chớp động, giống như tam sinh bên cạnh ao, một đóa sen nước đón gió khẽ đung đưa.
Đàm Ma La Già lấy lại tinh thần, từng chút một thu lại sợi dây suy nghĩ đang trôi nổi, ý thức từ từ khôi phục tỏ tường.
“Không cần.” Chàng thản nhiên nói với giọng khàn khàn.
Dao Anh nhìn qua lớp cà sa trên người chàng thấm đẫm mồ hôi, đưa mắt lên khuôn mặt chàng, sắc mặt chàng tái nhợt, lúc mới về đã đầy vẻ mỏi mệt, cặp mày hơi nhíu lại, so với ban nãy còn muốn tiều tụy hơn.
“Pháp sư là sư theo khổ tu* ạ?” Nàng hỏi.
Tu khổ hạnh là một hình thức tu bắt cơ thể phải chịu đói khát đau đớn. Hình thức tu này có trước khi Phật giáo ra đời, chính thái tử Tất Đạt Đa trên con đường sáng lập đạo Phật đã từng tu khổ hạnh trong 6 năm trời, nhưng sau đó Ngài đã phát hiện cách tu này không đem lại sự giải thoát hoàn toàn nên đã từ bỏ và tiếp tục tìm chân lý Phật giáo. Những người sáng lập ra phép tu khổ hạnh nằm trong phong trào tìm hướng giải thoát bản thân khỏi khổ đau của trần thế mà lúc đó cũng xuất hiện khá nhiều phép tu khác nhau. Người tu khổ hạnh thường ăn rất ít, sống im lặng và ngồi yên tĩnh ngoài trời nhiều giờ mỗi ngày. Họ quan niệm rằng con người sống vật chất đầy đủ nhưng vẫn đau khổ, nên họ quyết lấy sự đau khổ của bản thân để tìm ra sự giải thoát cuối cùng. Phép tu khổ hạnh có cách nay cũng hơn hai ngàn sáu trăm năm, dĩ nhiên bây giờ không còn ai tu theo phép tu như vậy nữa. Tuy vậy, thực tế vẫn có một bộ phận còn theo tư tưởng và hành phép tu này ở các mức độ khác nhau. (wiki)
Đàm Ma La Già cúi đầu nhìn nàng.
Dao Anh nghiêm túc nói: “Tôi nghe người ta nói, khổ tu dùng khổ hạnh để tu hành, họ thường lang thang một mình, không có chỗ ở cố định, bẩn thỉu, quần áo tả tơi, thường nhịn ăn, ngủ trên giường rải đầy đinh, chân trần đi qua lửa than đỏ, dùng nhiều đau đớn để đạt đến mục đích tu luyện của bản thân.”
Ngón tay Đàm Ma La Già khẩy cầm châu, nói: “Đó là một cách khổ tu của Thiên Trúc, khổ hạnh trong sa môn không đề cao nỗi khổ cực đoan vô ích, chỉ yêu cầu từ bỏ tham muốn.”
Dao Anh nhíu mày, đối diện ánh mắt của Đàm Ma La Già, trực tiếp nhìn chàng. “Thế sao cơ thể Pháp sư khó chịu, lại không mời thầy y uống thuốc, mà định cứ vậy mà qua thôi?”
“Pháp sư, ngài thật sự không phải hòa thượng khổ tu ạ?” Giọng nàng như hỏi vặn nhưng vẻ mặt lại có mấy phần mang ý cười hoạt bát.
Đàm Ma La Già dời mắt.
Dao Anh nhìn theo động tác của chàng, đôi ngươi đen như mực nhìn chàng chằm chằm, đối mặt với chàng, “Nếu Pháp sư không phải hòa thượng khổ tu, sao cứ phải chịu đựng những nỗi khổ vô ích này?”
Đàm Ma La Già rũ mắt, nói: “Khổ này cũng không hẳn là vô ích.” Chàng luyện công pháp kỳ dị, chịu phạt cũng là đang nhắc nhở mình, để tránh mất đi nỗi kính trọng sự sống.
Dao Anh trầm ngâm một lát, thấy chàng vẫn một vẻ trang nghiêm, biết không khuyên nổi, thầm thở dài, nói: “Tôi không dám tranh luận với Pháp sư nữa, có điều cà sa trên người Pháp sư đẫm mồ hôi rồi kìa, nên thay y phục đi.” Có nói thế nào thì cũng phải thay đồ ướt ra.
Nói xong, không đợi chàng trả lời, nàng đứng dậy ra mở cửa. “Đưa một thùng nước nóng vào, và bộ áo tăng sạch sẽ, Pháp sư cần thay đồ.”
Ba Murs mở to mắt nhìn: Hơn nửa đêm, sao tự nhiên muốn nước nóng, còn thay đồ nữa? Tại sao Vương lại muốn nửa đêm thay đồ chứ?
Cậu lướt nhìn Dao Anh, thấy dù tóc nàng có hơi bù xù như mới ngủ dậy, nhưng vẻ mặt thản nhiên, quần áo chỉnh tề, trong lòng thầm mắng mình suy nghĩ nhiều, ánh mắt từ từ buông xuống, chợt thấy đôi chân ngọc trần trụi, mắt lại trừng lớn.
Cậu như bị đứng hình giây lát rồi chợt chạy đi, sau chốc lát bưng thùng nước nóng vào thiền thất và áo tăng để thay cho Đàm Ma La Già.
Thiền thất tối đen, cậu đặt đồ xuống lặng lẽ nhìn quanh một vòng, không thấy Dao Anh, lặng lẽ thở hắt, cung kính lui ra.
Dao Anh đã tránh về phòng trong, ngồi trên giường thấp, nghiêng tai nghe ngóng.
Nghe tiếng nước róc rách bên ngoài, sau đó là một loạt sột soạt nho nhỏ, nàng thả lỏng trong lòng, thở phào nằm xuống ngủ tiếp.
Vừa hạ xuống gối mềm, nghe một tiếng bịch ngoài màn gấm, bọt nước bốc lên, như có vật gì nặng ngã xuống đất.
Ngài ấy yếu ớt vậy, bên cạnh không ai chăm sóc, không phải ngất đi chứ? Dao Anh nhanh chóng chồm dậy, hất màn gấm, thấy rõ cảnh trong thiền thất, ngây ra. Trong tia sáng lờ mờ, một bóng người cao gầy đưa lưng về phía nàng, đang từ từ cởi cà sa trên người, lộ ra lưng vai rộng.
Vóc người Đàm Ma La Già cao lớn, bình thường mặc cà sa rộng rãi nhìn thon gầy, khi cởi ra, Dao Anh mới phát giác người chàng cân đối đầy đặn, đường cong lưu loát rõ ràng, mồ hôi từng dòng lăn xuống như thoa một lớp dầu lên lưng căng đầy, trong ánh sáng lờ mờ lóe lên màu mật ong.
Nhưng điều khiến Dao Anh giật mình là, trên lưng Đàm Ma La Già sưng đỏ một mảng, vết thương chằng chịt khắp nơi.
Thì ra ngài ấy không bị bệnh, túa mồ hôi là vì vừa chịu phạt trượng.
Dao Anh đứng dưới màn gấm, kinh ngạc nhìn bóng lưng thon dài rắn chắc của Đàm Ma La Già, xuất thần.
Đàm Ma La Già như cảm giác được, hơi khựng lại, hơi xoay mặt sang, gò má đường nét rõ ràng, xương lông mày xương cao thẳng, nhìn lạnh lẽo thấu xương, một nửa cà sa đã cởi khoác giữa cánh tay với hông, trong hơi nước mịt mờ mông lung, như mây che sương phủ, giống như Bồ Tát thân ở trần vẽ trên bích hoạ, tư thái cao gầy ưu nhã, trang nghiêm, im ắng, dường như ẩn chứa sức lực mạnh mẽ bên trong.
Dao Anh vẫn nhìn đến ngây ra.
Chàng dừng ở đó.
Một tiếng ưng kêu phá vỡ vắng vẻ, con ưng vỗ cánh, mang theo cơn gió mát, màn gấm khẽ động.
Đàm Ma La Già kéo cà sa bị tuột xuống lên, khóe mắt lơ đãng quét qua phía màn gấm, tựa như có ý, lại như hững hờ.
Dao Anh không khỏi chột dạ một trận, tim đập cực nhanh, lẹ làng thả tấm màn rồi quay lại giường nằm, đắp chăn phủ kín từ đầu đến chân, không nhúc nhích.
Sau tấm màn gấm, Đàm Ma La Già nhướng mắt nhìn qua tấm màn còn hơi chao động, cúi người nhặt lên cây nến vừa rồi lỡ tay đánh rơi, để lên bàn.
Thay bộ đồ sạch sẽ, người khoan khoái hơn rất nhiều.
Chàng tiếp tục ngồi xuống, lần này không rơi vào cảnh trong mơ nữa.
…
Hôm sau, Dao Anh ngủ đến giờ Thìn, bị đánh thức bởi một cuộc nói chuyện lớn tiếng.
Ngoài thiền thất có bóng người lay động, tiếng thấp giọng tranh luận.
Nàng đứng xuống đất, rón rén dọn dẹp lại chỗ của mình rồi ra khỏi phòng trong, vén một khe hẹp nhìn ra ngoài.
Trời đã sáng rõ, ngoài chính đường sáng sủa, Đàm Ma La Già mặc một bộ tăng y màu xám, xếp bằng trước trường án đọc tấu chương. Tất Sa quỳ ở cửa, thân mặc giáp nhẹ, dưới cánh tay kẹp mũ giáp, vẻ mặt lo lắng.
“Vương, thần chắc chắn sẽ trông chừng công chúa Xích Mã thật kỹ lưỡng, không để người làm loạn, thật sự phải đưa người đi sao ạ?”
Đàm Ma La Già không ngẩng lên, nói: “Trương Húc là Cấm quan trong quân, tỷ ấy định tổn thương Trương Húc, theo luật phải phạt cấm túc. Qua ba tháng, cậu lại đi đón về thành.”
Giọng không cho phép tranh cãi.
Tất Sa chần chừ một lát, không dám nói thêm, có vẻ hơi không cam lòng.
Đàm Ma La Già không nói gì.
Tất Sa thở dài.
Bầu không khí ngưng lại.
Dao Anh ở cạnh cửa đợi một lúc thấy Tất Sa đứng dậy cáo lui mới ôm túi bước ra.
“Đêm qua đã quấy rầy Pháp sư, Pháp sư khá hơn chút chưa ạ?”
Đàm Ma La Già cúi đầu, nâng cao cổ tay cầm bút, ừ một tiếng, phất tay áo. Duyên Giác bước lên, đưa mắt ra hiệu Dao Anh theo mình về viện tử.
Dao Anh cáo từ đi ra, được mấy bước, nhìn thấy bóng lưng Tất Sa xa xa, nghĩ sao đột nhiên quay lại.
Duyên Giác giật mình: “Công chúa?”
Dao Anh đi qua hành lang, dưới ánh nhìn kinh ngạc của mọi người bước vào thiền thất.
“Công chúa!” Ba Murs và Duyên Giác gấp gáp đến túa mồ hôi đầu, nhỏ giọng la lên, đuổi theo vào thiền thất, ra hiệu nàng nhanh chóng theo họ đi.
Dao Anh lắc đầu, nhìn Đàm Ma La Già đang cúi đầu viết, nói khẽ: “Tôi có mấy câu muốn nói với Pháp sư.”
Hai người Ba Murs nhìn nhau, không biết có nên giục nàng rời đi không.
Đàm Ma La Già ngẩng lên, đôi mắt xanh biếc nhẹ quét qua hai người. Cả hai hiểu ý, không ngăn Dao Anh nữa, lập tức lui ra.
Đàm Ma La Già vẫn không ngừng viết, “Công chúa muốn nói chuyện gì với ta?”
Dao Anh đi đến trước trường án, cúi người ngồi xuống, châm chước một lát mới nói: “Pháp sư, trừ người anh cùng mẹ của tôi, tôi còn có mấy huynh trưởng nữa, trong đó có một người anh cùng cha khác mẹ, tên là Lý Huyền Trinh.”
“Lý Huyền Trinh vẫn luôn muốn giết mẹ và anh trai tôi.”
Bút trong tay Đàm Ma La Già thoáng dừng lại.
Dao Anh ngưng mắt chăm chú nhìn tuyết trắng mêng mang trước đình, chậm rãi nói ra gút mắc trời xui đất khiến năm xưa giữa Lý Đức, Đường thị và Tạ Mãn Nguyện.
“… Rồi mẹ Lý Huyền Trinh tự thiêu mà chết, muốn hắn báo thù cho bà, Lý Huyền Trinh đã lập lời thề, chờ hắn nắm quyền, chắc chắn sẽ giết mẹ và anh tôi báo thù cho mẹ.”
Nàng thở dài. “Năm đó tôi dưỡng bệnh ở Xích Bích, có quen biết với Lý Huyền Trinh cũng đang che dấu thân phận, cả hai không biết thân phận của đối phương, đã thành bạn bè.”
“Mấy tháng sau, chúng tôi ngồi cùng thuyền về Xích Bích, Lý Huyền Trinh phát hiện tôi là con gái kẻ thù của hắn… Hận không thể giết tôi tại chỗ.”
Dao Anh cười cười. “Khi đó, tôi tưởng Lý Huyền Trinh chỉ là xúc động trong chốc lát, hắn không phải người đại gian đại ác, dù sao tôi cũng là em gái cùng cha, đợi khi hắn tỉnh táo lại, có lẽ sẽ nghĩ rõ ràng.”
Dao Anh nhớ lại chuyện cũ, nụ cười trên mặt từ từ nhạt đi.
“Tôi thử cùng hắn ở chung cho tốt, tôi thầm nghĩ, người như huynh trưởng, với bộ hạ thì tha thứ, với người xa lạ thì giúp đỡ, lần lượt cứu quý nữ gặp rủi ro, nhất định sẽ không giận chó đánh mèo vô tội.” Nàng trăm phương ngàn kế nghĩ cách hóa giải oán hận của Lý Huyền Trinh, kết quả lại không như mong muốn.
Lý Huyền Trinh sẽ không bỏ qua Tạ Mãn Nguyện và Lý Trọng Kiền, cũng sẽ không bỏ qua nàng.
“Năm đó… phụ tá của hắn Ngụy Minh suýt nữa hại chết anh tôi, khi đó tôi vẫn còn chưa từ bỏ thuyết phục hắn, tôi viết thư cho hắn, xin hắn buông tha anh tôi, tôi còn cam đoan, anh tôi không hề có ý tranh quyền đoạt vị, chúng tôi sẽ lẩn đi thật xa, cả một đời sẽ không xuất hiện trước mặt hắn.”
Nét mặt Dao Anh lạnh lùng. “Hôm sau, ngay trước mặt tôi, hắn bắn chết con chó nhỏ của tôi.”
Là con chó săn Lý Trọng Kiền cho nàng.
Lúc trước nàng không khoẻ, không thể đi theo binh sĩ Lý gia săn bắn, sau khi từ Xích Bích về Ngụy Quận, nàng đã khá hơn nhiều. Hôm ấy, nàng vô cùng cao hứng đem theo chó săn đi rừng tham gia náo nhiệt, sau đó trơ mắt nhìn ba mũi tên của Lý Huyền Trinh liên tiếp bắn, con chó nhỏ một khắc trước còn sinh long hoạt hổ nằm lăn trong bụi cỏ, không ngừng co giật.
Dao Anh nhảy xuống lưng ngựa, thử đi ôm lấy chó con, giúp nó trốn đi, mắt con chó nhỏ ướt sũng trừng nàng, thoi thóp.
Lý Huyền Trinh đi đến trước mặt nàng, hông đeo đoản đao, chân dậm ủng dài, trường cung nắm trong tay, tên đã lên dây, đầu mũi tên vẫn chỉ vào chó nhỏ trên đất, đầy lạnh lùng, người đầy máu tanh.
“Lý Huyền Trinh…” Dao Anh run rẩy cả người, ngẩng lên, gọi thẳng tên hắn, “Nó chỉ là một con chó nhỏ… chơi cùng ta mấy tháng… là lần đầu ta dẫn nó ra ngoài… huynh tha cho nó đi…”
Lý Huyền Trinh nhìn nàng, không nói một lời, vung trường cung.
Dao Anh thở phào.
Một chớp mắt tiếp theo, Lý Huyền Trinh rút ra đoản đao, giơ tay chém xuống, chó con kịch liệt co quắp mấy lần, không còn hơi thở.
Hắn lạnh lùng nhìn Dao Anh, mắt phượng móc nghiêng, ánh mắt âm trầm: “Chó làm người bị thương, không thể giữ.”
Hai tay Dao Anh run run.
Lý Huyền Trinh rút đoản đao, tiện tay lau trên tay áo, “Chó giữ lại không được, người cũng thế.” Hắn sẽ không bỏ qua cho Tạ Mãn Nguyện với Lý Trọng Kiền.
Lòng Dao Anh chùng xuống, triệt triệt để để.
Con chó con không làm tổn thương người, là Lý Trọng Kiền cho nàng, trung thành ngoan ngoãn, sao có thể làm người bị thương?
Rõ ràng là do Chu Lục Vân đột nhiên phóng ngựa xông lên núi, làm ngựa của nàng và đám thị nữ chấn kinh, suýt té xuống ngựa, chó con mới xông ra sủa, ngăn Chu Lục Vân.
Chỉ vì con chó con là của nàng, Lý Huyền Trinh mới ra tay tàn nhẫn, không phân tốt xấu liền giết nó.
Nó vô tội biết bao.
Dao Anh nhìn con chó con đã chết, quẹt khóe mắt, run rẩy nhặt mũi tên trên đất, bước chân lảo đảo, nhào đến Lý Huyền Trinh, mũi tên trong tay giận dữ đâm về phía hắn.
Cánh tay dài của Lý Huyền Trinh mở ra, dễ dàng bắt lấy cổ tay nàng, hơi dùng sức.
Tay Dao Anh tê dại mất lực, bị hắn nhấc lên.
Lý Huyền Trinh cúi đầu nhìn nàng, khinh miệt rút mũi tên trong bàn tay nàng. “Thất muội, đừng không biết tự lượng sức mình.”
Dao Anh giãy khỏi tay hắn, lạnh lùng nhìn hắn, từng chữ từng chữ nói: “Lý Huyền Trinh, anh trai ta không hại mẹ huynh, cũng không hại huynh, anh ấy cũng lãnh binh đánh trận giống huynh, tận tụy tận trung, huynh mà dám tổn thương anh ấy ta sẽ cùng huynh chết chung một chỗ! Huynh là Đại tướng quân, tay ta trói gà không chặt, hôm nay ta không phải là đối thủ của huynh, sau này ta có thể cũng không phải là đối thủ của huynh, có điều chỉ còn ta còn nói được còn thở được, huynh đừng nghĩ tới chuyện hại anh trai ta.”
Hắn có mạng trời thì sao chứ, cùng lắm thì, chết chung một chỗ.
Sắc mặt Lý Huyền Trinh âm trầm như nước.
…
Trong thiền thất hương khói lửng lờ bay. Một ánh mắt đặt trên người Dao Anh, lạnh lùng, cũng chẳng dịu dàng, nhưng lại có sức trấn an lòng người.
Dao Anh từ từ phục hồi tinh thần, phát hiện Đàm Ma La Già dừng bút từ lúc nào, nhìn lên nàng, mày hơi nhíu lại.
Nàng cười cười với chàng. Nói mấy chuyện phàm tục này cho ngài ấy nghe như đang làm khó ngài rồi.
Dao Anh thở thật dài, “Từ đó về sau, tôi không nuôi chó nữa, tự tay tôi mai táng nó, cũng chôn luôn kỳ vọng với người huynh trưởng…”
Nàng dừng lại. “Sau này, tôi đi hòa thân bộ lạc Diệp Lỗ, viên Dạ Quang Bích đã mất, ngựa Ô Tôn anh trai tặng cũng không còn…” Nhớ đến cặp mắt ngoan ngoãn dịu dàng của ngựa Ô Tôn trước khi chết nhìn chàng, chóp mũi Dao Anh đột nhiên chua xót, hốc mắt nóng lên, suýt rơi lệ.
Màn nỉ treo cao, kẹp lấy hơi tuyết lạnh gió rét thổi vào thiền thất, đập trên sách kinh trên trường án, chuông gió dưới hiên leng keng lay động.
Đây là Vương Đình, không phải chốn bình nguyên tuyết sa mạc khắp nơi mênh mông.
Dao Anh nhắm mắt, đè nén cảm xúc, ngước nhìn Đàm Ma La Già. “Pháp sư, mấy năm qua tôi với anh trai chịu đủ bất công, xét đến cùng, cũng vì cha và anh cả giận chó đánh mèo. Cha tôi mất đi vợ cả, anh cả mất mẹ, họ giận lây sang ba mẹ con tôi, muốn bọn tôi chôn cùng bà.”
Khóe miệng Dao Anh kéo ra. “Ở Đại Ngụy, huynh trưởng là Thái Tử mà tất cả mọi người gửi gắm kỳ vọng, được bộ hạ kính yêu, hòa hợp với triều thần… Còn cha ta, là Hoàng đế, dưới mắt kẻ khác, một chút tư tâm của họ đối với ta và anh trai không có gì đáng chỉ trích.” Trong mắt nhóm triều thần, sau khi Lý Huyền Trinh lên ngôi báo thù cho mẹ, có ra tay độc ác với mẹ con Lý Trọng Kiền cũng là chuyện không thể bình thường hơn, họ chả thấy có gì đáng nhục nhã.
Không chỉ một người từng cảm thán với Dao Anh: Tạ gia chưa từng làm khó Đường thị, Lý Huyền Trinh đúng là xả giận, ba mẹ con ngài không còn đường nào khác, đành phải chấp nhận.
Mạnh được yếu thua, kẻ mạnh là vua, ai rơi vào thế yếu liền ráng chịu người ức hiếp.
Từ xưa đến nay, không lúc nào không đúng.
Cũng giống vậy, sau khi Đàm Ma La Già đoạt lại Vương quyền, công chúa Xích Mã muốn báo thù cho người trong họ, chưa cam tâm, không buông tha kể cả với những người họ Trương khác chi, trong mắt những người khác, về tình có thể hiểu.
Trên thực tế rất nhiều người cảm thấy báo thù cách đó mới sướng lòng: Người Trương gia gần như giết cả nhà Đàm Ma, công chúa Xích Mã nên lấy đạo của người trả lại cho người, giết sạch tất cả người họ Trương.
Thế nên, Xích Mã mới sinh lòng oán hận với Đàm Ma La Già. Chàng ngăn cản cô ta trả thù người họ Trương vô tội, từ dưới đao cô ta cứu bao nhiêu người Hán bị liên lụy, nên cô ta mới cho rằng chàng phản bội gia tộc Đàm Ma.
Công chúa Xích Mã không hiểu dụng ý của Đàm Ma La Già ư? Cô ta không biết việc đề bạt Trương Húc có ý nghĩa thế nào với làn sóng mới sao?
Công chúa Xích Mã hiểu chứ. Nhưng không đủ để triệt tiêu thù hận của mình.
Cũng như Lý Huyền Trinh, hắn rõ ràng là người biết phân rõ lợi hại, hắn có thể rộng rãi nhiều lần với bộ hạ ngang ngược kiệt ngạo, có thể sống chung với kẻ thù còn biến chiến tranh thành tơ lụa, nhưng không muốn buông tha người vô tội của Tạ gia, chỉ vì đã từng lập lời thề với mẹ để Tạ gia chôn cùng bà.
Lý Huyền Trinh và Xích Mã, đều vì thù hận mà trở nên méo mó, không thể nào thay đổi.
Kẻ dũng cảm phẫn nộ, rút đao với người mạnh hơn; người rụt rè phẫn nộ, lại rút đao với kẻ yếu hơn.
Họ đều có quá khứ chua xót nhưng đâu phải là lý do để họ phát tiết lên người vô tội.
Dao Anh nhìn đôi mắt xanh biếc thật sâu của Đàm Ma La Già, có chút cảm khái nói: “Pháp sư, tôi và hậu nhân Trương gia tình cảnh tương tự.”
Mi tâm Đàm Ma La Già khẽ nhúc nhích.
Dao Anh thở phào, chun mũi, giữa lông mày tràn ra ý cười, vẻ mặt nhẹ đi phần nào. “Cho nên, lúc vừa đến Vương Đình, tôi nghe chuyện giữa Pháp sư, công chúa Xích Mã và Trương gia, vô cùng kính nể Pháp sư.”
Khi đó cảm giác của nàng, tựa như đang đi trên con đường tối tăm rất dài rất dài, tuyệt vọng bất lực, chợt thấy ánh sáng lấp lóe.
Quan hệ giữa Đàm Ma La Già và công chúa Xích Mã căng thẳng, chàng thông minh như vậy, chắc chắn biết cách làm dịu đi mâu thuẫn với chị mình: Dung túng cho công chúa Xích Mã giết tất cả người Hán họ Trương, lấy việc tàn sát nô lệ người Hán tìm vui.
Chàng lại không muốn.
Chàng nói, chị báo thù, không thể tùy ý hại đến người vô tội, dù vậy sẽ làm công chúa Xích Mã thù hận chàng.
Dao Anh thẳng tắp lưng, tư thế ngồi đoan chính nghiêm chỉnh, nói: “Pháp sư tâm không có thứ khác, chí hướng cao xa, những chuyện nhỏ nhặt này với Pháp sư mà nói, cũng chỉ như là mây khói thoảng qua… Có điều tôi vẫn muốn nói với Pháp sư một việc.”
Đàm Ma La Già nhìn nàng: “Là chuyện gì?”
Dao Anh đưa tay vuốt tóc, đón lấy ánh mắt chàng, trịnh trọng nói: “Tôi muốn nói cho Pháp sư, lòng khoan hậu của Pháp sư không phải là vô nghĩa, đối với hậu nhân của Trương gia, đối với người như tôi mà nói, Lòng khoan hậu của Pháp sư ảnh hưởng cả cuộc đời của bọn tôi. Nếu như người tôi gặp là Pháp sư, hẳn sẽ không chịu nhiều khổ đau thế.”
Đàm Ma La Già ý chí kiên định, hẳn trong lòng tự có núi cao, không thèm để ý đến cái nhìn của người đời, một Xích Mã oán hận và bộ hạ không hiểu vẫn không chút nào ảnh hưởng lòng ngài.
Ngài tỉnh táo lý trí đến thế, vốn không cần người khác khuyên giải và an ủi.
Nhưng Dao Anh vẫn muốn nói suy nghĩ trong lòng cho chàng hay, muốn cho chàng biết, chàng hiếm có biết nhường nào.
Nàng nhìn chàng, mi cong cong, trong mắt đầy chân thành.
Tay Đàm Ma La Già cầm bút nhẹ rung rinh.
Ngoài cửa có tiếng bước chân, tăng binh đến bẩm báo, thấy Dao Anh ngồi quỳ chân trước trường án, trù trừ không dám vào.
“Tôi không quấy rầy Pháp sư nữa.”
Dao Anh nhanh nhẹn đứng dậy, cáo lỗi với La Già rồi rời đi.
Đàm Ma La Già không nhúc nhích, ngưng mắt nhìn bóng lưng nàng đi xa.
Một câu từng đọc trong điển tịch Hán chợt hiện.
Ngô đạo bất cô.
Một mình lẻ loi đi trên con đường tu hành, không ai để theo, không ai có thể cận kề, đưa mắt nhìn bốn phía, chỉ mênh mông một mảng, không biết đi bao lâu, đột nhiên, có người chào đón, vui vui vẻ vẻ nhìn chàng, mi dài chớp chớp.
Hai vùng xa nhau vạn dặm, chữ viết, phong tục khác nhau, nàng cũng không phải là người trong sa môn, lại có thể nói ra suy nghĩ của chàng, nhìn thấy đăm chiêu của chàng.
Có lẽ, đây chính là an bài của Phật.
Dao Anh ngồi quỳ trước mặt Đàm Ma La Già, nghiêng người về trước, thu bàn tay cầm chiếc khăn.
Đàm Ma La Già nhìn nàng, phòng rất tối nhưng nàng cách rất gần, gần đến mức như thấy được trên làn da tuyết trắng của nàng như có một vầng sáng mượt mà lưu chuyển, ánh mắt chàng dừng lên mái tóc bên đen nhánh hơi rối của nàng, thật lâu không nói gì.
Phật đã đưa nàng tới không phải sao?
Chàng mãi không lên tiếng, ánh mắt hơi khác thường, Dao Anh xích lại gần hơn, lo lắng hỏi: “Pháp sư bị bệnh ạ? Để tôi gọi Ba Murs vào?” Giọng nàng uyển chuyển, mi mắt khẽ chớp. Mỗi một chớp động, giống như tam sinh bên cạnh ao, một đóa sen nước đón gió khẽ đung đưa.
Đàm Ma La Già lấy lại tinh thần, từng chút một thu lại sợi dây suy nghĩ đang trôi nổi, ý thức từ từ khôi phục tỏ tường.
“Không cần.” Chàng thản nhiên nói với giọng khàn khàn.
Dao Anh nhìn qua lớp cà sa trên người chàng thấm đẫm mồ hôi, đưa mắt lên khuôn mặt chàng, sắc mặt chàng tái nhợt, lúc mới về đã đầy vẻ mỏi mệt, cặp mày hơi nhíu lại, so với ban nãy còn muốn tiều tụy hơn.
“Pháp sư là sư theo khổ tu* ạ?” Nàng hỏi.
Tu khổ hạnh là một hình thức tu bắt cơ thể phải chịu đói khát đau đớn. Hình thức tu này có trước khi Phật giáo ra đời, chính thái tử Tất Đạt Đa trên con đường sáng lập đạo Phật đã từng tu khổ hạnh trong 6 năm trời, nhưng sau đó Ngài đã phát hiện cách tu này không đem lại sự giải thoát hoàn toàn nên đã từ bỏ và tiếp tục tìm chân lý Phật giáo. Những người sáng lập ra phép tu khổ hạnh nằm trong phong trào tìm hướng giải thoát bản thân khỏi khổ đau của trần thế mà lúc đó cũng xuất hiện khá nhiều phép tu khác nhau. Người tu khổ hạnh thường ăn rất ít, sống im lặng và ngồi yên tĩnh ngoài trời nhiều giờ mỗi ngày. Họ quan niệm rằng con người sống vật chất đầy đủ nhưng vẫn đau khổ, nên họ quyết lấy sự đau khổ của bản thân để tìm ra sự giải thoát cuối cùng. Phép tu khổ hạnh có cách nay cũng hơn hai ngàn sáu trăm năm, dĩ nhiên bây giờ không còn ai tu theo phép tu như vậy nữa. Tuy vậy, thực tế vẫn có một bộ phận còn theo tư tưởng và hành phép tu này ở các mức độ khác nhau. (wiki)
Đàm Ma La Già cúi đầu nhìn nàng.
Dao Anh nghiêm túc nói: “Tôi nghe người ta nói, khổ tu dùng khổ hạnh để tu hành, họ thường lang thang một mình, không có chỗ ở cố định, bẩn thỉu, quần áo tả tơi, thường nhịn ăn, ngủ trên giường rải đầy đinh, chân trần đi qua lửa than đỏ, dùng nhiều đau đớn để đạt đến mục đích tu luyện của bản thân.”
Ngón tay Đàm Ma La Già khẩy cầm châu, nói: “Đó là một cách khổ tu của Thiên Trúc, khổ hạnh trong sa môn không đề cao nỗi khổ cực đoan vô ích, chỉ yêu cầu từ bỏ tham muốn.”
Dao Anh nhíu mày, đối diện ánh mắt của Đàm Ma La Già, trực tiếp nhìn chàng. “Thế sao cơ thể Pháp sư khó chịu, lại không mời thầy y uống thuốc, mà định cứ vậy mà qua thôi?”
“Pháp sư, ngài thật sự không phải hòa thượng khổ tu ạ?” Giọng nàng như hỏi vặn nhưng vẻ mặt lại có mấy phần mang ý cười hoạt bát.
Đàm Ma La Già dời mắt.
Dao Anh nhìn theo động tác của chàng, đôi ngươi đen như mực nhìn chàng chằm chằm, đối mặt với chàng, “Nếu Pháp sư không phải hòa thượng khổ tu, sao cứ phải chịu đựng những nỗi khổ vô ích này?”
Đàm Ma La Già rũ mắt, nói: “Khổ này cũng không hẳn là vô ích.” Chàng luyện công pháp kỳ dị, chịu phạt cũng là đang nhắc nhở mình, để tránh mất đi nỗi kính trọng sự sống.
Dao Anh trầm ngâm một lát, thấy chàng vẫn một vẻ trang nghiêm, biết không khuyên nổi, thầm thở dài, nói: “Tôi không dám tranh luận với Pháp sư nữa, có điều cà sa trên người Pháp sư đẫm mồ hôi rồi kìa, nên thay y phục đi.” Có nói thế nào thì cũng phải thay đồ ướt ra.
Nói xong, không đợi chàng trả lời, nàng đứng dậy ra mở cửa. “Đưa một thùng nước nóng vào, và bộ áo tăng sạch sẽ, Pháp sư cần thay đồ.”
Ba Murs mở to mắt nhìn: Hơn nửa đêm, sao tự nhiên muốn nước nóng, còn thay đồ nữa? Tại sao Vương lại muốn nửa đêm thay đồ chứ?
Cậu lướt nhìn Dao Anh, thấy dù tóc nàng có hơi bù xù như mới ngủ dậy, nhưng vẻ mặt thản nhiên, quần áo chỉnh tề, trong lòng thầm mắng mình suy nghĩ nhiều, ánh mắt từ từ buông xuống, chợt thấy đôi chân ngọc trần trụi, mắt lại trừng lớn.
Cậu như bị đứng hình giây lát rồi chợt chạy đi, sau chốc lát bưng thùng nước nóng vào thiền thất và áo tăng để thay cho Đàm Ma La Già.
Thiền thất tối đen, cậu đặt đồ xuống lặng lẽ nhìn quanh một vòng, không thấy Dao Anh, lặng lẽ thở hắt, cung kính lui ra.
Dao Anh đã tránh về phòng trong, ngồi trên giường thấp, nghiêng tai nghe ngóng.
Nghe tiếng nước róc rách bên ngoài, sau đó là một loạt sột soạt nho nhỏ, nàng thả lỏng trong lòng, thở phào nằm xuống ngủ tiếp.
Vừa hạ xuống gối mềm, nghe một tiếng bịch ngoài màn gấm, bọt nước bốc lên, như có vật gì nặng ngã xuống đất.
Ngài ấy yếu ớt vậy, bên cạnh không ai chăm sóc, không phải ngất đi chứ? Dao Anh nhanh chóng chồm dậy, hất màn gấm, thấy rõ cảnh trong thiền thất, ngây ra. Trong tia sáng lờ mờ, một bóng người cao gầy đưa lưng về phía nàng, đang từ từ cởi cà sa trên người, lộ ra lưng vai rộng.
Vóc người Đàm Ma La Già cao lớn, bình thường mặc cà sa rộng rãi nhìn thon gầy, khi cởi ra, Dao Anh mới phát giác người chàng cân đối đầy đặn, đường cong lưu loát rõ ràng, mồ hôi từng dòng lăn xuống như thoa một lớp dầu lên lưng căng đầy, trong ánh sáng lờ mờ lóe lên màu mật ong.
Nhưng điều khiến Dao Anh giật mình là, trên lưng Đàm Ma La Già sưng đỏ một mảng, vết thương chằng chịt khắp nơi.
Thì ra ngài ấy không bị bệnh, túa mồ hôi là vì vừa chịu phạt trượng.
Dao Anh đứng dưới màn gấm, kinh ngạc nhìn bóng lưng thon dài rắn chắc của Đàm Ma La Già, xuất thần.
Đàm Ma La Già như cảm giác được, hơi khựng lại, hơi xoay mặt sang, gò má đường nét rõ ràng, xương lông mày xương cao thẳng, nhìn lạnh lẽo thấu xương, một nửa cà sa đã cởi khoác giữa cánh tay với hông, trong hơi nước mịt mờ mông lung, như mây che sương phủ, giống như Bồ Tát thân ở trần vẽ trên bích hoạ, tư thái cao gầy ưu nhã, trang nghiêm, im ắng, dường như ẩn chứa sức lực mạnh mẽ bên trong.
Dao Anh vẫn nhìn đến ngây ra.
Chàng dừng ở đó.
Một tiếng ưng kêu phá vỡ vắng vẻ, con ưng vỗ cánh, mang theo cơn gió mát, màn gấm khẽ động.
Đàm Ma La Già kéo cà sa bị tuột xuống lên, khóe mắt lơ đãng quét qua phía màn gấm, tựa như có ý, lại như hững hờ.
Dao Anh không khỏi chột dạ một trận, tim đập cực nhanh, lẹ làng thả tấm màn rồi quay lại giường nằm, đắp chăn phủ kín từ đầu đến chân, không nhúc nhích.
Sau tấm màn gấm, Đàm Ma La Già nhướng mắt nhìn qua tấm màn còn hơi chao động, cúi người nhặt lên cây nến vừa rồi lỡ tay đánh rơi, để lên bàn.
Thay bộ đồ sạch sẽ, người khoan khoái hơn rất nhiều.
Chàng tiếp tục ngồi xuống, lần này không rơi vào cảnh trong mơ nữa.
…
Hôm sau, Dao Anh ngủ đến giờ Thìn, bị đánh thức bởi một cuộc nói chuyện lớn tiếng.
Ngoài thiền thất có bóng người lay động, tiếng thấp giọng tranh luận.
Nàng đứng xuống đất, rón rén dọn dẹp lại chỗ của mình rồi ra khỏi phòng trong, vén một khe hẹp nhìn ra ngoài.
Trời đã sáng rõ, ngoài chính đường sáng sủa, Đàm Ma La Già mặc một bộ tăng y màu xám, xếp bằng trước trường án đọc tấu chương. Tất Sa quỳ ở cửa, thân mặc giáp nhẹ, dưới cánh tay kẹp mũ giáp, vẻ mặt lo lắng.
“Vương, thần chắc chắn sẽ trông chừng công chúa Xích Mã thật kỹ lưỡng, không để người làm loạn, thật sự phải đưa người đi sao ạ?”
Đàm Ma La Già không ngẩng lên, nói: “Trương Húc là Cấm quan trong quân, tỷ ấy định tổn thương Trương Húc, theo luật phải phạt cấm túc. Qua ba tháng, cậu lại đi đón về thành.”
Giọng không cho phép tranh cãi.
Tất Sa chần chừ một lát, không dám nói thêm, có vẻ hơi không cam lòng.
Đàm Ma La Già không nói gì.
Tất Sa thở dài.
Bầu không khí ngưng lại.
Dao Anh ở cạnh cửa đợi một lúc thấy Tất Sa đứng dậy cáo lui mới ôm túi bước ra.
“Đêm qua đã quấy rầy Pháp sư, Pháp sư khá hơn chút chưa ạ?”
Đàm Ma La Già cúi đầu, nâng cao cổ tay cầm bút, ừ một tiếng, phất tay áo. Duyên Giác bước lên, đưa mắt ra hiệu Dao Anh theo mình về viện tử.
Dao Anh cáo từ đi ra, được mấy bước, nhìn thấy bóng lưng Tất Sa xa xa, nghĩ sao đột nhiên quay lại.
Duyên Giác giật mình: “Công chúa?”
Dao Anh đi qua hành lang, dưới ánh nhìn kinh ngạc của mọi người bước vào thiền thất.
“Công chúa!” Ba Murs và Duyên Giác gấp gáp đến túa mồ hôi đầu, nhỏ giọng la lên, đuổi theo vào thiền thất, ra hiệu nàng nhanh chóng theo họ đi.
Dao Anh lắc đầu, nhìn Đàm Ma La Già đang cúi đầu viết, nói khẽ: “Tôi có mấy câu muốn nói với Pháp sư.”
Hai người Ba Murs nhìn nhau, không biết có nên giục nàng rời đi không.
Đàm Ma La Già ngẩng lên, đôi mắt xanh biếc nhẹ quét qua hai người. Cả hai hiểu ý, không ngăn Dao Anh nữa, lập tức lui ra.
Đàm Ma La Già vẫn không ngừng viết, “Công chúa muốn nói chuyện gì với ta?”
Dao Anh đi đến trước trường án, cúi người ngồi xuống, châm chước một lát mới nói: “Pháp sư, trừ người anh cùng mẹ của tôi, tôi còn có mấy huynh trưởng nữa, trong đó có một người anh cùng cha khác mẹ, tên là Lý Huyền Trinh.”
“Lý Huyền Trinh vẫn luôn muốn giết mẹ và anh trai tôi.”
Bút trong tay Đàm Ma La Già thoáng dừng lại.
Dao Anh ngưng mắt chăm chú nhìn tuyết trắng mêng mang trước đình, chậm rãi nói ra gút mắc trời xui đất khiến năm xưa giữa Lý Đức, Đường thị và Tạ Mãn Nguyện.
“… Rồi mẹ Lý Huyền Trinh tự thiêu mà chết, muốn hắn báo thù cho bà, Lý Huyền Trinh đã lập lời thề, chờ hắn nắm quyền, chắc chắn sẽ giết mẹ và anh tôi báo thù cho mẹ.”
Nàng thở dài. “Năm đó tôi dưỡng bệnh ở Xích Bích, có quen biết với Lý Huyền Trinh cũng đang che dấu thân phận, cả hai không biết thân phận của đối phương, đã thành bạn bè.”
“Mấy tháng sau, chúng tôi ngồi cùng thuyền về Xích Bích, Lý Huyền Trinh phát hiện tôi là con gái kẻ thù của hắn… Hận không thể giết tôi tại chỗ.”
Dao Anh cười cười. “Khi đó, tôi tưởng Lý Huyền Trinh chỉ là xúc động trong chốc lát, hắn không phải người đại gian đại ác, dù sao tôi cũng là em gái cùng cha, đợi khi hắn tỉnh táo lại, có lẽ sẽ nghĩ rõ ràng.”
Dao Anh nhớ lại chuyện cũ, nụ cười trên mặt từ từ nhạt đi.
“Tôi thử cùng hắn ở chung cho tốt, tôi thầm nghĩ, người như huynh trưởng, với bộ hạ thì tha thứ, với người xa lạ thì giúp đỡ, lần lượt cứu quý nữ gặp rủi ro, nhất định sẽ không giận chó đánh mèo vô tội.” Nàng trăm phương ngàn kế nghĩ cách hóa giải oán hận của Lý Huyền Trinh, kết quả lại không như mong muốn.
Lý Huyền Trinh sẽ không bỏ qua Tạ Mãn Nguyện và Lý Trọng Kiền, cũng sẽ không bỏ qua nàng.
“Năm đó… phụ tá của hắn Ngụy Minh suýt nữa hại chết anh tôi, khi đó tôi vẫn còn chưa từ bỏ thuyết phục hắn, tôi viết thư cho hắn, xin hắn buông tha anh tôi, tôi còn cam đoan, anh tôi không hề có ý tranh quyền đoạt vị, chúng tôi sẽ lẩn đi thật xa, cả một đời sẽ không xuất hiện trước mặt hắn.”
Nét mặt Dao Anh lạnh lùng. “Hôm sau, ngay trước mặt tôi, hắn bắn chết con chó nhỏ của tôi.”
Là con chó săn Lý Trọng Kiền cho nàng.
Lúc trước nàng không khoẻ, không thể đi theo binh sĩ Lý gia săn bắn, sau khi từ Xích Bích về Ngụy Quận, nàng đã khá hơn nhiều. Hôm ấy, nàng vô cùng cao hứng đem theo chó săn đi rừng tham gia náo nhiệt, sau đó trơ mắt nhìn ba mũi tên của Lý Huyền Trinh liên tiếp bắn, con chó nhỏ một khắc trước còn sinh long hoạt hổ nằm lăn trong bụi cỏ, không ngừng co giật.
Dao Anh nhảy xuống lưng ngựa, thử đi ôm lấy chó con, giúp nó trốn đi, mắt con chó nhỏ ướt sũng trừng nàng, thoi thóp.
Lý Huyền Trinh đi đến trước mặt nàng, hông đeo đoản đao, chân dậm ủng dài, trường cung nắm trong tay, tên đã lên dây, đầu mũi tên vẫn chỉ vào chó nhỏ trên đất, đầy lạnh lùng, người đầy máu tanh.
“Lý Huyền Trinh…” Dao Anh run rẩy cả người, ngẩng lên, gọi thẳng tên hắn, “Nó chỉ là một con chó nhỏ… chơi cùng ta mấy tháng… là lần đầu ta dẫn nó ra ngoài… huynh tha cho nó đi…”
Lý Huyền Trinh nhìn nàng, không nói một lời, vung trường cung.
Dao Anh thở phào.
Một chớp mắt tiếp theo, Lý Huyền Trinh rút ra đoản đao, giơ tay chém xuống, chó con kịch liệt co quắp mấy lần, không còn hơi thở.
Hắn lạnh lùng nhìn Dao Anh, mắt phượng móc nghiêng, ánh mắt âm trầm: “Chó làm người bị thương, không thể giữ.”
Hai tay Dao Anh run run.
Lý Huyền Trinh rút đoản đao, tiện tay lau trên tay áo, “Chó giữ lại không được, người cũng thế.” Hắn sẽ không bỏ qua cho Tạ Mãn Nguyện với Lý Trọng Kiền.
Lòng Dao Anh chùng xuống, triệt triệt để để.
Con chó con không làm tổn thương người, là Lý Trọng Kiền cho nàng, trung thành ngoan ngoãn, sao có thể làm người bị thương?
Rõ ràng là do Chu Lục Vân đột nhiên phóng ngựa xông lên núi, làm ngựa của nàng và đám thị nữ chấn kinh, suýt té xuống ngựa, chó con mới xông ra sủa, ngăn Chu Lục Vân.
Chỉ vì con chó con là của nàng, Lý Huyền Trinh mới ra tay tàn nhẫn, không phân tốt xấu liền giết nó.
Nó vô tội biết bao.
Dao Anh nhìn con chó con đã chết, quẹt khóe mắt, run rẩy nhặt mũi tên trên đất, bước chân lảo đảo, nhào đến Lý Huyền Trinh, mũi tên trong tay giận dữ đâm về phía hắn.
Cánh tay dài của Lý Huyền Trinh mở ra, dễ dàng bắt lấy cổ tay nàng, hơi dùng sức.
Tay Dao Anh tê dại mất lực, bị hắn nhấc lên.
Lý Huyền Trinh cúi đầu nhìn nàng, khinh miệt rút mũi tên trong bàn tay nàng. “Thất muội, đừng không biết tự lượng sức mình.”
Dao Anh giãy khỏi tay hắn, lạnh lùng nhìn hắn, từng chữ từng chữ nói: “Lý Huyền Trinh, anh trai ta không hại mẹ huynh, cũng không hại huynh, anh ấy cũng lãnh binh đánh trận giống huynh, tận tụy tận trung, huynh mà dám tổn thương anh ấy ta sẽ cùng huynh chết chung một chỗ! Huynh là Đại tướng quân, tay ta trói gà không chặt, hôm nay ta không phải là đối thủ của huynh, sau này ta có thể cũng không phải là đối thủ của huynh, có điều chỉ còn ta còn nói được còn thở được, huynh đừng nghĩ tới chuyện hại anh trai ta.”
Hắn có mạng trời thì sao chứ, cùng lắm thì, chết chung một chỗ.
Sắc mặt Lý Huyền Trinh âm trầm như nước.
…
Trong thiền thất hương khói lửng lờ bay. Một ánh mắt đặt trên người Dao Anh, lạnh lùng, cũng chẳng dịu dàng, nhưng lại có sức trấn an lòng người.
Dao Anh từ từ phục hồi tinh thần, phát hiện Đàm Ma La Già dừng bút từ lúc nào, nhìn lên nàng, mày hơi nhíu lại.
Nàng cười cười với chàng. Nói mấy chuyện phàm tục này cho ngài ấy nghe như đang làm khó ngài rồi.
Dao Anh thở thật dài, “Từ đó về sau, tôi không nuôi chó nữa, tự tay tôi mai táng nó, cũng chôn luôn kỳ vọng với người huynh trưởng…”
Nàng dừng lại. “Sau này, tôi đi hòa thân bộ lạc Diệp Lỗ, viên Dạ Quang Bích đã mất, ngựa Ô Tôn anh trai tặng cũng không còn…” Nhớ đến cặp mắt ngoan ngoãn dịu dàng của ngựa Ô Tôn trước khi chết nhìn chàng, chóp mũi Dao Anh đột nhiên chua xót, hốc mắt nóng lên, suýt rơi lệ.
Màn nỉ treo cao, kẹp lấy hơi tuyết lạnh gió rét thổi vào thiền thất, đập trên sách kinh trên trường án, chuông gió dưới hiên leng keng lay động.
Đây là Vương Đình, không phải chốn bình nguyên tuyết sa mạc khắp nơi mênh mông.
Dao Anh nhắm mắt, đè nén cảm xúc, ngước nhìn Đàm Ma La Già. “Pháp sư, mấy năm qua tôi với anh trai chịu đủ bất công, xét đến cùng, cũng vì cha và anh cả giận chó đánh mèo. Cha tôi mất đi vợ cả, anh cả mất mẹ, họ giận lây sang ba mẹ con tôi, muốn bọn tôi chôn cùng bà.”
Khóe miệng Dao Anh kéo ra. “Ở Đại Ngụy, huynh trưởng là Thái Tử mà tất cả mọi người gửi gắm kỳ vọng, được bộ hạ kính yêu, hòa hợp với triều thần… Còn cha ta, là Hoàng đế, dưới mắt kẻ khác, một chút tư tâm của họ đối với ta và anh trai không có gì đáng chỉ trích.” Trong mắt nhóm triều thần, sau khi Lý Huyền Trinh lên ngôi báo thù cho mẹ, có ra tay độc ác với mẹ con Lý Trọng Kiền cũng là chuyện không thể bình thường hơn, họ chả thấy có gì đáng nhục nhã.
Không chỉ một người từng cảm thán với Dao Anh: Tạ gia chưa từng làm khó Đường thị, Lý Huyền Trinh đúng là xả giận, ba mẹ con ngài không còn đường nào khác, đành phải chấp nhận.
Mạnh được yếu thua, kẻ mạnh là vua, ai rơi vào thế yếu liền ráng chịu người ức hiếp.
Từ xưa đến nay, không lúc nào không đúng.
Cũng giống vậy, sau khi Đàm Ma La Già đoạt lại Vương quyền, công chúa Xích Mã muốn báo thù cho người trong họ, chưa cam tâm, không buông tha kể cả với những người họ Trương khác chi, trong mắt những người khác, về tình có thể hiểu.
Trên thực tế rất nhiều người cảm thấy báo thù cách đó mới sướng lòng: Người Trương gia gần như giết cả nhà Đàm Ma, công chúa Xích Mã nên lấy đạo của người trả lại cho người, giết sạch tất cả người họ Trương.
Thế nên, Xích Mã mới sinh lòng oán hận với Đàm Ma La Già. Chàng ngăn cản cô ta trả thù người họ Trương vô tội, từ dưới đao cô ta cứu bao nhiêu người Hán bị liên lụy, nên cô ta mới cho rằng chàng phản bội gia tộc Đàm Ma.
Công chúa Xích Mã không hiểu dụng ý của Đàm Ma La Già ư? Cô ta không biết việc đề bạt Trương Húc có ý nghĩa thế nào với làn sóng mới sao?
Công chúa Xích Mã hiểu chứ. Nhưng không đủ để triệt tiêu thù hận của mình.
Cũng như Lý Huyền Trinh, hắn rõ ràng là người biết phân rõ lợi hại, hắn có thể rộng rãi nhiều lần với bộ hạ ngang ngược kiệt ngạo, có thể sống chung với kẻ thù còn biến chiến tranh thành tơ lụa, nhưng không muốn buông tha người vô tội của Tạ gia, chỉ vì đã từng lập lời thề với mẹ để Tạ gia chôn cùng bà.
Lý Huyền Trinh và Xích Mã, đều vì thù hận mà trở nên méo mó, không thể nào thay đổi.
Kẻ dũng cảm phẫn nộ, rút đao với người mạnh hơn; người rụt rè phẫn nộ, lại rút đao với kẻ yếu hơn.
Họ đều có quá khứ chua xót nhưng đâu phải là lý do để họ phát tiết lên người vô tội.
Dao Anh nhìn đôi mắt xanh biếc thật sâu của Đàm Ma La Già, có chút cảm khái nói: “Pháp sư, tôi và hậu nhân Trương gia tình cảnh tương tự.”
Mi tâm Đàm Ma La Già khẽ nhúc nhích.
Dao Anh thở phào, chun mũi, giữa lông mày tràn ra ý cười, vẻ mặt nhẹ đi phần nào. “Cho nên, lúc vừa đến Vương Đình, tôi nghe chuyện giữa Pháp sư, công chúa Xích Mã và Trương gia, vô cùng kính nể Pháp sư.”
Khi đó cảm giác của nàng, tựa như đang đi trên con đường tối tăm rất dài rất dài, tuyệt vọng bất lực, chợt thấy ánh sáng lấp lóe.
Quan hệ giữa Đàm Ma La Già và công chúa Xích Mã căng thẳng, chàng thông minh như vậy, chắc chắn biết cách làm dịu đi mâu thuẫn với chị mình: Dung túng cho công chúa Xích Mã giết tất cả người Hán họ Trương, lấy việc tàn sát nô lệ người Hán tìm vui.
Chàng lại không muốn.
Chàng nói, chị báo thù, không thể tùy ý hại đến người vô tội, dù vậy sẽ làm công chúa Xích Mã thù hận chàng.
Dao Anh thẳng tắp lưng, tư thế ngồi đoan chính nghiêm chỉnh, nói: “Pháp sư tâm không có thứ khác, chí hướng cao xa, những chuyện nhỏ nhặt này với Pháp sư mà nói, cũng chỉ như là mây khói thoảng qua… Có điều tôi vẫn muốn nói với Pháp sư một việc.”
Đàm Ma La Già nhìn nàng: “Là chuyện gì?”
Dao Anh đưa tay vuốt tóc, đón lấy ánh mắt chàng, trịnh trọng nói: “Tôi muốn nói cho Pháp sư, lòng khoan hậu của Pháp sư không phải là vô nghĩa, đối với hậu nhân của Trương gia, đối với người như tôi mà nói, Lòng khoan hậu của Pháp sư ảnh hưởng cả cuộc đời của bọn tôi. Nếu như người tôi gặp là Pháp sư, hẳn sẽ không chịu nhiều khổ đau thế.”
Đàm Ma La Già ý chí kiên định, hẳn trong lòng tự có núi cao, không thèm để ý đến cái nhìn của người đời, một Xích Mã oán hận và bộ hạ không hiểu vẫn không chút nào ảnh hưởng lòng ngài.
Ngài tỉnh táo lý trí đến thế, vốn không cần người khác khuyên giải và an ủi.
Nhưng Dao Anh vẫn muốn nói suy nghĩ trong lòng cho chàng hay, muốn cho chàng biết, chàng hiếm có biết nhường nào.
Nàng nhìn chàng, mi cong cong, trong mắt đầy chân thành.
Tay Đàm Ma La Già cầm bút nhẹ rung rinh.
Ngoài cửa có tiếng bước chân, tăng binh đến bẩm báo, thấy Dao Anh ngồi quỳ chân trước trường án, trù trừ không dám vào.
“Tôi không quấy rầy Pháp sư nữa.”
Dao Anh nhanh nhẹn đứng dậy, cáo lỗi với La Già rồi rời đi.
Đàm Ma La Già không nhúc nhích, ngưng mắt nhìn bóng lưng nàng đi xa.
Một câu từng đọc trong điển tịch Hán chợt hiện.
Ngô đạo bất cô.
Một mình lẻ loi đi trên con đường tu hành, không ai để theo, không ai có thể cận kề, đưa mắt nhìn bốn phía, chỉ mênh mông một mảng, không biết đi bao lâu, đột nhiên, có người chào đón, vui vui vẻ vẻ nhìn chàng, mi dài chớp chớp.
Hai vùng xa nhau vạn dặm, chữ viết, phong tục khác nhau, nàng cũng không phải là người trong sa môn, lại có thể nói ra suy nghĩ của chàng, nhìn thấy đăm chiêu của chàng.
Có lẽ, đây chính là an bài của Phật.
/208
|