Mười ngày sau, đoàn Lý Trọng Kiền, Lý Huyền Trinh đến Sa Châu.
Bắc Nhung ban bố lệnh cấm biên, bảo vệ cực kỳ nghiêm ngặt, đội buôn hay người đi đường qua lại phải qua kiểm tra cẩn thận.
Lý Huyền Trinh đã chuẩn bị từ trước, lúc xuất phát ở Lương Châu đã bố trí, lợi dụng mật thám của Trưởng công chúa Nghĩa Khánh bị bắt lúc trước, giả giấy tờ, ngụy trang thành thám tử Bắc Nhung, lấy danh nghĩa “dâng quà chúc thọ cho Trưởng công chúa Nghĩa Khánh” để thông qua kiểm tra của quân canh giữ Bắc Nhung, thuận lợi qua quan ải, còn nghênh ngang vào ở dịch trạm của Bắc Nhung, đi nhanh nói nhanh, yêu cầu ngựa tốt nhất nhanh nhất.
Trong lúc đó tình cờ có vị tướng thủ biên hoài nghi thân phận họ, mật thám kia liền nổi giận, quát lớn, vênh mặt hất hàm sai khiến, lên cơn ngang ngược, uy hiếp rằng đến nha đình Y Châu sẽ mời Trưởng công chúa Nghĩa Khánh làm chủ cho gã, đuổi đám tướng thủ này đến Tát Mạt Kiện cuối ngọn gió Tây Bắc đi.
Sarmakand so với Toái Diệp, Khanh Quốc*, Sử Quốc, các vùng xa hơn nữa, sản vật phong phú, thương nhân tụ hợp, vừa vặn nằm trong con đường tơ lụa thông với Ba Tư, vô số đội buôn đi dọc đường, vận chuyển tơ lụa, đồ sứ, trà Trung Nguyên về phía Tây, vị trí địa lý hiểm yếu. Mấy năm gần đây Bắc Nhung rất nhanh mở rộng, Ngỏa Hãn Khả Hãn đối với những vùng đất phía Bắc Lĩnh Nam màu mỡ thèm nhỏ dãi đã lâu, trước đó từng phái một đội viễn chinh tiến xa nhất đến Sarmakand, sau đó không còn tin tức. Nội bộ của giai cấp Bắc Nhung rất nghiêm, đại bộ phận quân sĩ xuất thân bình dân đều sợ bị đày đi Sarmakand chịu chết. Tướng thủ biên đang nửa tin nửa ngờ, gặp thái độ thân binh phách lối, không dám đắc tội, lập tức cho đi.
*Trung Á Uzbekistan ngày nay.
Mật thám nói cho nhóm Lý Huyền Trinh, sau khi Trưởng công chúa Nghĩa Khánh hòa thân ở Đột Quyết, lần lượt gả cho ba cha con Lão Khả Hãn, sau này họ thần phục Bắc Nhung, Trưởng công chúa Nghĩa Khánh rơi vào tay của quý tộc Bắc Nhung, là lão sư của Hải Đô A Lăng.
Tiếng Hán của Hải Đô A Lăng chính là do Trưởng công chúa Nghĩa Khánh dạy, sở dĩ y nắm rõ phong thổ, triều đình các nước Trung Nguyên như lòng bàn tay đều nhờ vào Trưởng công chúa Nghĩa Khánh hết mình truyền đạt.
Cả nhóm bôn ba cả ngày lẫn đêm, thời tiết ngày càng lạnh, khắp nơi mênh mông, đi suốt mấy ngày không gặp bóng dáng một ốc đảo, khắp nơi chỉ thấy cát và lẫn trong cát là xương ngựa, xương lạc đà, thậm chí là xương người.
Thỉnh thoảng gặp được thành nhỏ xây cạnh ốc đảo, bọn hắn chui vào thăm dò tin tức từ dân thường, không thu hoạch được gì, đa số người dân vẻ mặt xanh xao chết lặng, không dám trò chuyện với người lạ. Sợ hỏi nhiều gây nghi ngờ, đành thôi.
Lý Huyền Trinh sầm mặt. Càng đi về Tây Bắc, hắn càng phát hiện con dân còn muốn khổ hơn hắn từng tưởng tượng.
Sa Châu, Qua Châu giờ đã thất thủ trước Bắc Nhung. Càng đi, bọn họ càng thấy người dân bất kể là người Hồ hay người Hán, tất cả đều phải thắt bím mặc áo chéo vạt trái giống như người Bắc Nhung, nói tiếng Hồ, dự lễ người Hồ. Bắc Nhung phân biệt cao quý bần tiện, dân chúng ở tầng lớp dưới cùng được xem như súc vật, cảnh ngộ bi thảm. Mỗi khi có binh sĩ Bắc Nhung đi ngang, dân thường phải né vào ven đường, cung kính hành lễ, không được nhìn thẳng. Ai dám cao giọng nói chuyện hay giương mắt nhìn binh sĩ, đều bị coi là bất kính, nhẹ bị quất roi trước chúng, nặng bị bẻ tay móc mắt, kết quả rất thê thảm.
Lý Huyền Trinh sợ bại lộ thân phận, trên đường gặp được lính Bắc Nhung ức hiếp dân lành không thể tiến lên ngăn cản, đành yên lặng cắn răng.
Có lần, họ nhìn thấy lính Bắc Nhung xua đuổi một nhóm người già quần áo lam lũ, tóc trắng xoá, gầy trơ xương ra khỏi thành, rất nhiều trai gái khóc đuổi theo sau, nước mắt như mưa, gào khóc chia tay, bị lính Bắc Nhung đuổi về. Nhóm người già nước mắt tuôn đầy, quay nhìn thân nhân trong thành một chút rồi chùi nước mắt ra đi.
Trước cửa thành tiếng khóc động trời.
Lý Huyền Trinh nắm chặt hai đấm, hỏi mật thám: “Họ phạm tội gì thế? Bị đẩy đi đâu?”
Mật thám nhỏ giọng trả lời: “Người Bắc Nhung chuộng vũ lực, khỏe quý yếu khinh, cứ đến mỗi mùa đông, ra lệnh cưỡng chế các lão giã các bộ tộc từ sáu mươi trở lên, không còn khả năng trồng trọt săn bắt dời ra khỏi thành… khỏi lãng phí lương thực. Ai dám không theo, bắt buộc nộp thuế theo quy định, mỗi miệng ăn năm lượng vàng, mười đầu dê, hoặc một con ngựa, ba thạch lương*, hai mươi tấm lông cừu…”
*1 thạch = 100litre
Với dân chúng bình thường, trời mùa đông giá lạnh, mỗi nhà còn chưa đủ ăn, lấy đâu nộp thuế nặng để lấy lòng người Bắc Nhung, đào ở đâu mà để giành đủ năm lượng vàng đổi người nhà? Mấy người già phần lớn không muốn liên lụy người nhà, đành chịu xua đuổi đến vùng đất đói lạnh nghèo nàn chờ chết.
Từ biệt ở cửa thành chính là vĩnh biệt sinh tử.
Đám người Trung Nguyên nghe đến đó, lòng đầy căm phẫn. Thiên hạ còn có chuyện táng tận lương tâm thế sao!
Lý Trọng Kiền đưa mắt ra hiệu thân binh tạm thời ở yên đừng nóng nảy, họ đến tìm người, tốt nhất đừng gây thêm phức tạp. Hắn chỉ muốn cứu Minh Nguyệt nô về, sống chết kẻ khác không liên quan.
Rời Sa Châu, qua Ngũ Phong, xuyên qua sa mạc tám trăm dặm hoang tàn mênh mông, cách Y Châu ngày càng gần.
Hôm đó, mọi người dừng lại nghỉ ngơi ở một gò đất bị gió bấc ăn mòn mấp mô, Lý Huyền Trinh phái mấy thân binh chia ra đi Cao Xương, Quy Tư.
Lý Trọng Kiền cảnh giác hỏi: “Sao lại phái chúng đi Cao Xương?”
Lý Huyền Trinh dùng tay vẽ lên các mấy tuyến đường chính: “Đây là Y Châu, đây là Cao Xương, Yên Kỳ, Quy Tư, khu này là phía Bắc con đường tơ lụa, ngày xưa Vương triều ổn định, ở các nơi đều có Châu huyện, có binh đóng giữ, đường mua bán được yên ổn, người ở đông đúc, sau này Trung Nguyên đại loạn, Tây Vực thất thủ, con đường buôn bán bị cắt đứt, bây giờ những địa phương này phần lớn đã thần phục Bắc Nhung.”
“Bắc Nhung còn man di, lấy thủ đoạn sắt để trấn áp từng bộ tộc, dung túng binh sĩ vơ vét cướp đội buôn, có lẽ vì tình thế bắt buộc, những nước nhỏ này đành trung thành với Bắc Nhung nhưng luôn vẫn có lòng người còn hướng về Vương triều Trung Nguyên, dù sao đại bộ phận vương công quý tộc vốn đều là danh môn vọng tộc một vùng Hà Tây sau này.”
“Chúng ta muốn đi nha đình Bắc Nhung cứu người, không bằng phái người đi các nơi này thám thính tình hình thực tế, xem có thể thuyết phục họ nội ứng ngoại hợp với ta, sau này chung sức chống lại Bắc Nhung.”
Lý Trọng Kiền gật gù, đã rõ dự định của Lý Huyền Trinh.
Bọn hắn xâm nhập Tây Vực, tứ cố vô thân, trước tiên phải thử tìm mấy người trợ giúp. Thứ nhất, nếu sau này bị người Bắc Nhung phát hiện, có thể bỏ chạy trước đến mấy chỗ này. Thứ hai, có họ tương trợ, khả năng bình an về Trung Nguyên sẽ lớn hơn. Thứ ba, dĩ nhiên là kế vì thiên hạ, vì triều đình thu phục đất cũ.
Lý Trọng Kiền không quan tâm đến điểm thứ ba, cứu Lý Dao Anh được rồi hắn sẽ lập tức mang nàng về Trung Nguyên.
“Còn một chỗ, ta cần tự mình đi một chuyến.” Ngón tay Lý Huyền Trinh chỉ vào một điểm tận cùng phía Bắc. “Ở đây có một Phật Quốc khiến thế lực Bắc Nhung không cách nào tiến sâu vào, Khả Hãn Bắc Nhung từng bại dưới tay Quân chủ Phật Quốc, các nước Tây Vực hẳn đều ôm tâm tư.”
Mày rậm Lý Trọng Kiền nhẹ vặn: “Phật Quốc à?”
Lý Huyền Trinh mấp máy đôi môi đã bong da: “Vương Đình sùng Phật, Quân chủ của họ cũng là cao tăng, khoảng mười một năm trước, hắn dẫn binh đánh lui Khả Hãn Bắc Nhung, tên tuổi vang dội toàn Tây Vực.”
Hai năm trước, Lý Huyền Trinh, Lý Đức và nhóm phụ tá từng bàn về khả năng thu phục Tây Vực. Lúc ấy họ đều nhận định, Trung Nguyên muốn thu phục Tây Vực, cũng giống như đoạt mồi trong miệng mãnh hổ là Bắc Nhung ngày càng lớn mạnh.
Ngoài ra, phía Bắc Tây Vực còn có một quốc gia giàu có cũng không thể khinh thường, Quân chủ của họ tiếng tốt lan xa, được dân rất kính yêu, lệnh một tiếng trên dưới cả nước đều có thể theo hắn lao ra chiến trận.
Lý Huyền Trinh cảm thán: “Mười một năm trước, Khả Hãn Bắc Nhung đang tuổi sung mãn không kẻ bì kịp, đánh đâu thắng đó, lại đại bại dưới tay Phật Tử, vị Quân chủ này anh tài ngút trời, nếu có lòng muốn lớn mạnh chắc chắn là một kình địch rất lớn… Cũng may hắn ta là cao tăng đắc đạo, một lòng bảo vệ Phật quốc, không có dấu hiệu mở rộng ra ngoài.”
“Hải Đô A Lăng quỷ kế đa đoan, không biết chúng ta có thể thuận lợi cứu Minh Nguyệt nô ra không. Ta phái người dọc theo con đường Cao Xương nghe ngóng tin tức trước, nếu cần, ta tự mình đi sứ Phật Quốc, thể hiện thân phận ra chỗ Phật Tử, xin hắn viện thủ, mâu thuẫn Phật quốc và Bắc Nhung trùng điệp, ta dùng minh ước thuyết phục thì có thể hắn sẽ kết minh với chúng ta.”
“Sau khi đến Y Châu, nếu có biến, chúng ta theo các đường đã vạch, nếu bình an chạy đến Bắc Nhung, gặp nhau ở Phật quốc.”
Mấy năm liền Lý Trọng Kiền lãnh binh đánh trận, trong người tự có tính toán trước, dù không am hiểu nhiều về Tây Vực, nhưng bỏ công suy tư có thể nhìn rõ cục diện, tính toán thật nhanh, cân nhắc lợi hại, gật gù.
Dọc đường Lý Huyền Trinh rất an phận, trước khi cứu Minh Nguyệt Nô ra an toàn, hắn có thể nhẫn nại tạm thời không giết Lý Huyền Trinh. Chờ cứu em rồi, hắn lại ra tay vậy.
…
Trong lúc mấy người Lý Trọng Kiền xuyên qua sa mạc tám trăm dặm thẳng tới Y Châu, Dao Anh đang đi về phía Nam.
Để né đoàn người của Tiểu Vương tử Bắc Nhung, họ chạy liên tục mấy ngày đường.
Trời đông giá rét, đóng băng ngàn dặm, trong phạm vi mắt nhìn được khắp nơi óng ánh trắng muốt, núi tuyết liên miên chân trời, mây che đỉnh núi mù sương, thi thoảng lộ ra vài góc đá lởm chởm, tươi đẹp tráng lệ.
Con ưng của Đàm Ma La Già luôn đi theo họ trở thành trinh sát, tuần tra canh chừng. Dù trời trong hay trời tuyết, Dao Anh thường xuyên trông thấy bóng nó bay lượn trên không.
Hôm ấy, nàng thấy con ưng đáp xuống, đậu trên vai Tô Đan Cổ, nhớ tới những chuyện bữa giờ, gọi Tề Niên tới hỏi ông có thấy chỗ mấy Hồ thương bán ưng đưa thư không.
Tề Niên cố nhớ lại, lắc đầu: “Người bán ưng không ít, nhưng bán ưng để đưa thư thì chưa từng nghe. Công chúa muốn nuôi ưng ạ? Bộc có thể hỏi thăm một chút cho người.”
Dao Anh lắc đầu, bỏ ý định.
Thuần dưỡng ưng trung thành để đưa thư chỉ có thể gặp mà không thể cầu, ưng của Đàm Ma La Già và Hải Đô A Lăng đều thuần dưỡng bắt đầu từ ưng con, hơn nữa, ưng đưa thư phải quen thuộc hoàn cảnh mới phát huy tác dụng, cho rằng nàng mua được ưng đưa thư thì ngay lập tức cũng không thể dùng được.
Nàng giương mắt chằm chằm nhìn con ưng đến ngây người, con ưng đứng trên đầu vai của Tô Đan Cổ, con mắt sắc bén liếc nàng.
Dao Anh cười khẽ, móc ra thịt khô. Ưng vẫn liếc.
Dao Anh xoay đi không nhìn nó, lòng bàn tay vẫn hướng lên trên. Chỉ sau chốc lát, trong lòng bàn tay hơi nhói, ưng đã mổ thịt khô trong tay.
Một người một ưng đang chơi đùa, đội ngũ chợt ngừng lại, Duyên Giác đi đầu lao vụt về, “Là cướp đường!”
Đám người thất kinh, lật đật cảnh giác, hộ vệ rút trường đao, bày ra chiến trận, bảo vệ Lý Dao Anh vào chính giữa, đám Tề Niên nhanh chóng trèo vào xe ngựa.
Tô Đan Cổ quay lại, đôi mắt xanh dưới mặt nạ bình tĩnh không lay động, ra hiệu cho Duyên Giác.
Duyên Giác vâng lời, dẫn người lùi về cạnh Dao Anh, ra hiệu họ tránh sang một bên gò núi.
Tất cả rút lui đến gò núi, Dao Anh nhìn ra xa, đúng là có một đám người ngựa tay cầm gậy gộc đao kiếm chạy nhanh về phía bọn họ, khí thế hùng hổ, ánh đao lấp lóe.
Nhóm cướp đường này rất giảo hoạt, biết mượn nhờ địa hình che dấu vết, che tiếng vó ngựa, lại mặc áo khoác ngắn tay mỏng màu trắng, giữa vùng đất tuyết, ưng rất khó phát hiện chúng.
Tiếng hò hét của đám cướp đến gần, trong chớp mắt đã nhào vào trước mặt họ.
Tạ Thanh rút đao, đá bụng ngựa định tiến lên, thân binh Vương Đình đưa tay ngăn lại, nhìn Tô Đan Cổ, nín thở tập trung.
Dao Anh nhìn theo.
Tô Đan Cổ để tất cả lui lại, một mình tiến lên, đánh ngựa leo lên một chỗ địa thế tương đối cao, ung dung không vội, khí thế ngưng tụ.
Lòng Dao Anh rất gấp, thầm nghĩ: Không phải ngài muốn một mình giết sạch hết cướp chứ?
Duyên Giác đánh ngựa đi theo sau lưng Tô Đan Cổ, dâng lên một cây cung sừng trâu và mấy mũi tên sắt. Tô Đan Cổ cởi áo khoác đen bên ngoài, cầm lấy trường cung, gài tên, giương cung căng đầy, tay vượn giãn ra.
Trong nháy mắt, tất cả khí thế lạnh thấu xương của con đường tuyết gập ghềnh này đều tụ về người hắn.
Tên cướp đầu sỏ nhìn thấy Tô Đan Cổ, cười gằn tiếp tục chạy đến, người bình thường bắn hơn một trăm mười bước đã gọi là cao thủ, cách xa thế này, giữa gió tuyết tràn ngập, bắn tên được cái thá gì? Chỉ là thủ đoạn dọa người thôi!
Tô Đan Cổ tập trung lên cung tên, đầu mũi tên chĩa về xa xa, không nhúc nhích. Thấy đạo phỉ càng lúc càng gần, hắn vẫn không bắn.
Mấy người Tạ Xung, Tạ Bằng muốn kìm không nổi, không bày ra trận phòng thủ sẵn, đợi chúng công tới, họ sẽ không có đường lui!
Dao Anh quay sang lắc đầu, ra hiệu chờ một chút.
Tiếng cướp cười to phách lối theo gió truyền đến, đúng lúc này, chỉ nghe dây cung mấy tiếng nhẹ vang, tiếng mũi tên đáp lại vụt ra, như cầu vồng xuyên mặt trời, xé gió tuyết lao thẳng về phía đám cướp.
Khoảng cách quá xa, tên cầm đầu cũng không rối, đưa đao ngang lên chặn, vừa nâng, đã nghe tiếng rít bên tai, mũi tên sắt nhanh như sét đánh, thẳng về phía trước ngực gã!
Tên cầm đầu ngây người, vẻ mặt đầy dữ tợn, mắt trợn muốn rớt ra ngoài, chửi một tiếng, đưa tay định gạt tên, lại phát hiện tên này nhìn như rất bình thường nhưng vô cùng có lực, xa hơn hai trăm bước, trực tiếp xuyên thủng áo giáp gã!
Mấy tên người Hồ nhìn rõ gã bị thương, rất ngạc nhiên lo sợ. Gã cầm đầu cắn răng: “Tiếp tục xông đến!” Gã thúc ngựa tiếp tục tiến lên.
Ngựa Tô Đan Cổ trụ trên gò tuyết, nhìn xuống đám cướp đằng xa, như quan sát đàn kiến hôi, lại giương cung, vèo vèo vèo, mũi thứ hai, thứ ba, thứ tư liên tiếp bắn ra, thế như gió đuổi.
Mấy tiếng rơi bịch bịch, gã cầm đầu người Hồ rơi xuống lưng ngựa, miệng há lớn, chết không nhắm mắt, trước ngực cắm đầy tên sắt.
Mỗi một tên đều không sai không lệch bắn lên một mình người gã, khí thế vạn quân, vẫn mang ung dung như ngắt hoa trong nháy mắt.
Thấy tên cầm đầu đã chết, đám còn lại hoảng hốt, không dám thúc ngựa tiến lên tiếp, cả xác của tên cầm đầu cũng bất chấp, lập tức quay đầu ngựa, chạy tứ tán.
Tô Đan Cổ không tiếp tục bắn.
Mấy người Tạ Xung thấy mà than thở, nhỏ giọng: “Tài bắn tên của Nhiếp Chính Vương thật điêu luyện.”
Đám cướp đã chạy trốn, hẳn không còn dám tới, cả đám xuống gò núi, tiếp tục đi. Mấy người Tạ Xung không dám lơ là, hễ nghe tiếng vó ngựa tới gần liền tranh thủ rút đao canh chừng.
Duyên Giác cười trấn an: “Mọi người yên tâm, mấy đám cướp Cao Xương lúc này hoặc là dân trôi dạt khắp nơi, hoặc là lưu dân làm thuê cho quý tộc, phần lớn không phải người cùng hung cực ác, một đám ô hợp thôi, Nhiếp Chính Vương đã giết tên cầm đầu, đám còn lại tự nhiên tan thôi. Từ đây đến Cao Xương sẽ không còn ai cản đường.”
Tạ Xung không tin, vẫn giữ cảnh giác, nhưng thật sự như lời Duyên Giác nói, hành trình sau đó quả nhiên bình an vô sự, không còn giặc cỏ dám cản đường cướp bóc.
Hai ngày sau, họ bình an đến Cao Xương.
Bắc Nhung ban bố lệnh cấm biên, bảo vệ cực kỳ nghiêm ngặt, đội buôn hay người đi đường qua lại phải qua kiểm tra cẩn thận.
Lý Huyền Trinh đã chuẩn bị từ trước, lúc xuất phát ở Lương Châu đã bố trí, lợi dụng mật thám của Trưởng công chúa Nghĩa Khánh bị bắt lúc trước, giả giấy tờ, ngụy trang thành thám tử Bắc Nhung, lấy danh nghĩa “dâng quà chúc thọ cho Trưởng công chúa Nghĩa Khánh” để thông qua kiểm tra của quân canh giữ Bắc Nhung, thuận lợi qua quan ải, còn nghênh ngang vào ở dịch trạm của Bắc Nhung, đi nhanh nói nhanh, yêu cầu ngựa tốt nhất nhanh nhất.
Trong lúc đó tình cờ có vị tướng thủ biên hoài nghi thân phận họ, mật thám kia liền nổi giận, quát lớn, vênh mặt hất hàm sai khiến, lên cơn ngang ngược, uy hiếp rằng đến nha đình Y Châu sẽ mời Trưởng công chúa Nghĩa Khánh làm chủ cho gã, đuổi đám tướng thủ này đến Tát Mạt Kiện cuối ngọn gió Tây Bắc đi.
Sarmakand so với Toái Diệp, Khanh Quốc*, Sử Quốc, các vùng xa hơn nữa, sản vật phong phú, thương nhân tụ hợp, vừa vặn nằm trong con đường tơ lụa thông với Ba Tư, vô số đội buôn đi dọc đường, vận chuyển tơ lụa, đồ sứ, trà Trung Nguyên về phía Tây, vị trí địa lý hiểm yếu. Mấy năm gần đây Bắc Nhung rất nhanh mở rộng, Ngỏa Hãn Khả Hãn đối với những vùng đất phía Bắc Lĩnh Nam màu mỡ thèm nhỏ dãi đã lâu, trước đó từng phái một đội viễn chinh tiến xa nhất đến Sarmakand, sau đó không còn tin tức. Nội bộ của giai cấp Bắc Nhung rất nghiêm, đại bộ phận quân sĩ xuất thân bình dân đều sợ bị đày đi Sarmakand chịu chết. Tướng thủ biên đang nửa tin nửa ngờ, gặp thái độ thân binh phách lối, không dám đắc tội, lập tức cho đi.
*Trung Á Uzbekistan ngày nay.
Mật thám nói cho nhóm Lý Huyền Trinh, sau khi Trưởng công chúa Nghĩa Khánh hòa thân ở Đột Quyết, lần lượt gả cho ba cha con Lão Khả Hãn, sau này họ thần phục Bắc Nhung, Trưởng công chúa Nghĩa Khánh rơi vào tay của quý tộc Bắc Nhung, là lão sư của Hải Đô A Lăng.
Tiếng Hán của Hải Đô A Lăng chính là do Trưởng công chúa Nghĩa Khánh dạy, sở dĩ y nắm rõ phong thổ, triều đình các nước Trung Nguyên như lòng bàn tay đều nhờ vào Trưởng công chúa Nghĩa Khánh hết mình truyền đạt.
Cả nhóm bôn ba cả ngày lẫn đêm, thời tiết ngày càng lạnh, khắp nơi mênh mông, đi suốt mấy ngày không gặp bóng dáng một ốc đảo, khắp nơi chỉ thấy cát và lẫn trong cát là xương ngựa, xương lạc đà, thậm chí là xương người.
Thỉnh thoảng gặp được thành nhỏ xây cạnh ốc đảo, bọn hắn chui vào thăm dò tin tức từ dân thường, không thu hoạch được gì, đa số người dân vẻ mặt xanh xao chết lặng, không dám trò chuyện với người lạ. Sợ hỏi nhiều gây nghi ngờ, đành thôi.
Lý Huyền Trinh sầm mặt. Càng đi về Tây Bắc, hắn càng phát hiện con dân còn muốn khổ hơn hắn từng tưởng tượng.
Sa Châu, Qua Châu giờ đã thất thủ trước Bắc Nhung. Càng đi, bọn họ càng thấy người dân bất kể là người Hồ hay người Hán, tất cả đều phải thắt bím mặc áo chéo vạt trái giống như người Bắc Nhung, nói tiếng Hồ, dự lễ người Hồ. Bắc Nhung phân biệt cao quý bần tiện, dân chúng ở tầng lớp dưới cùng được xem như súc vật, cảnh ngộ bi thảm. Mỗi khi có binh sĩ Bắc Nhung đi ngang, dân thường phải né vào ven đường, cung kính hành lễ, không được nhìn thẳng. Ai dám cao giọng nói chuyện hay giương mắt nhìn binh sĩ, đều bị coi là bất kính, nhẹ bị quất roi trước chúng, nặng bị bẻ tay móc mắt, kết quả rất thê thảm.
Lý Huyền Trinh sợ bại lộ thân phận, trên đường gặp được lính Bắc Nhung ức hiếp dân lành không thể tiến lên ngăn cản, đành yên lặng cắn răng.
Có lần, họ nhìn thấy lính Bắc Nhung xua đuổi một nhóm người già quần áo lam lũ, tóc trắng xoá, gầy trơ xương ra khỏi thành, rất nhiều trai gái khóc đuổi theo sau, nước mắt như mưa, gào khóc chia tay, bị lính Bắc Nhung đuổi về. Nhóm người già nước mắt tuôn đầy, quay nhìn thân nhân trong thành một chút rồi chùi nước mắt ra đi.
Trước cửa thành tiếng khóc động trời.
Lý Huyền Trinh nắm chặt hai đấm, hỏi mật thám: “Họ phạm tội gì thế? Bị đẩy đi đâu?”
Mật thám nhỏ giọng trả lời: “Người Bắc Nhung chuộng vũ lực, khỏe quý yếu khinh, cứ đến mỗi mùa đông, ra lệnh cưỡng chế các lão giã các bộ tộc từ sáu mươi trở lên, không còn khả năng trồng trọt săn bắt dời ra khỏi thành… khỏi lãng phí lương thực. Ai dám không theo, bắt buộc nộp thuế theo quy định, mỗi miệng ăn năm lượng vàng, mười đầu dê, hoặc một con ngựa, ba thạch lương*, hai mươi tấm lông cừu…”
*1 thạch = 100litre
Với dân chúng bình thường, trời mùa đông giá lạnh, mỗi nhà còn chưa đủ ăn, lấy đâu nộp thuế nặng để lấy lòng người Bắc Nhung, đào ở đâu mà để giành đủ năm lượng vàng đổi người nhà? Mấy người già phần lớn không muốn liên lụy người nhà, đành chịu xua đuổi đến vùng đất đói lạnh nghèo nàn chờ chết.
Từ biệt ở cửa thành chính là vĩnh biệt sinh tử.
Đám người Trung Nguyên nghe đến đó, lòng đầy căm phẫn. Thiên hạ còn có chuyện táng tận lương tâm thế sao!
Lý Trọng Kiền đưa mắt ra hiệu thân binh tạm thời ở yên đừng nóng nảy, họ đến tìm người, tốt nhất đừng gây thêm phức tạp. Hắn chỉ muốn cứu Minh Nguyệt nô về, sống chết kẻ khác không liên quan.
Rời Sa Châu, qua Ngũ Phong, xuyên qua sa mạc tám trăm dặm hoang tàn mênh mông, cách Y Châu ngày càng gần.
Hôm đó, mọi người dừng lại nghỉ ngơi ở một gò đất bị gió bấc ăn mòn mấp mô, Lý Huyền Trinh phái mấy thân binh chia ra đi Cao Xương, Quy Tư.
Lý Trọng Kiền cảnh giác hỏi: “Sao lại phái chúng đi Cao Xương?”
Lý Huyền Trinh dùng tay vẽ lên các mấy tuyến đường chính: “Đây là Y Châu, đây là Cao Xương, Yên Kỳ, Quy Tư, khu này là phía Bắc con đường tơ lụa, ngày xưa Vương triều ổn định, ở các nơi đều có Châu huyện, có binh đóng giữ, đường mua bán được yên ổn, người ở đông đúc, sau này Trung Nguyên đại loạn, Tây Vực thất thủ, con đường buôn bán bị cắt đứt, bây giờ những địa phương này phần lớn đã thần phục Bắc Nhung.”
“Bắc Nhung còn man di, lấy thủ đoạn sắt để trấn áp từng bộ tộc, dung túng binh sĩ vơ vét cướp đội buôn, có lẽ vì tình thế bắt buộc, những nước nhỏ này đành trung thành với Bắc Nhung nhưng luôn vẫn có lòng người còn hướng về Vương triều Trung Nguyên, dù sao đại bộ phận vương công quý tộc vốn đều là danh môn vọng tộc một vùng Hà Tây sau này.”
“Chúng ta muốn đi nha đình Bắc Nhung cứu người, không bằng phái người đi các nơi này thám thính tình hình thực tế, xem có thể thuyết phục họ nội ứng ngoại hợp với ta, sau này chung sức chống lại Bắc Nhung.”
Lý Trọng Kiền gật gù, đã rõ dự định của Lý Huyền Trinh.
Bọn hắn xâm nhập Tây Vực, tứ cố vô thân, trước tiên phải thử tìm mấy người trợ giúp. Thứ nhất, nếu sau này bị người Bắc Nhung phát hiện, có thể bỏ chạy trước đến mấy chỗ này. Thứ hai, có họ tương trợ, khả năng bình an về Trung Nguyên sẽ lớn hơn. Thứ ba, dĩ nhiên là kế vì thiên hạ, vì triều đình thu phục đất cũ.
Lý Trọng Kiền không quan tâm đến điểm thứ ba, cứu Lý Dao Anh được rồi hắn sẽ lập tức mang nàng về Trung Nguyên.
“Còn một chỗ, ta cần tự mình đi một chuyến.” Ngón tay Lý Huyền Trinh chỉ vào một điểm tận cùng phía Bắc. “Ở đây có một Phật Quốc khiến thế lực Bắc Nhung không cách nào tiến sâu vào, Khả Hãn Bắc Nhung từng bại dưới tay Quân chủ Phật Quốc, các nước Tây Vực hẳn đều ôm tâm tư.”
Mày rậm Lý Trọng Kiền nhẹ vặn: “Phật Quốc à?”
Lý Huyền Trinh mấp máy đôi môi đã bong da: “Vương Đình sùng Phật, Quân chủ của họ cũng là cao tăng, khoảng mười một năm trước, hắn dẫn binh đánh lui Khả Hãn Bắc Nhung, tên tuổi vang dội toàn Tây Vực.”
Hai năm trước, Lý Huyền Trinh, Lý Đức và nhóm phụ tá từng bàn về khả năng thu phục Tây Vực. Lúc ấy họ đều nhận định, Trung Nguyên muốn thu phục Tây Vực, cũng giống như đoạt mồi trong miệng mãnh hổ là Bắc Nhung ngày càng lớn mạnh.
Ngoài ra, phía Bắc Tây Vực còn có một quốc gia giàu có cũng không thể khinh thường, Quân chủ của họ tiếng tốt lan xa, được dân rất kính yêu, lệnh một tiếng trên dưới cả nước đều có thể theo hắn lao ra chiến trận.
Lý Huyền Trinh cảm thán: “Mười một năm trước, Khả Hãn Bắc Nhung đang tuổi sung mãn không kẻ bì kịp, đánh đâu thắng đó, lại đại bại dưới tay Phật Tử, vị Quân chủ này anh tài ngút trời, nếu có lòng muốn lớn mạnh chắc chắn là một kình địch rất lớn… Cũng may hắn ta là cao tăng đắc đạo, một lòng bảo vệ Phật quốc, không có dấu hiệu mở rộng ra ngoài.”
“Hải Đô A Lăng quỷ kế đa đoan, không biết chúng ta có thể thuận lợi cứu Minh Nguyệt nô ra không. Ta phái người dọc theo con đường Cao Xương nghe ngóng tin tức trước, nếu cần, ta tự mình đi sứ Phật Quốc, thể hiện thân phận ra chỗ Phật Tử, xin hắn viện thủ, mâu thuẫn Phật quốc và Bắc Nhung trùng điệp, ta dùng minh ước thuyết phục thì có thể hắn sẽ kết minh với chúng ta.”
“Sau khi đến Y Châu, nếu có biến, chúng ta theo các đường đã vạch, nếu bình an chạy đến Bắc Nhung, gặp nhau ở Phật quốc.”
Mấy năm liền Lý Trọng Kiền lãnh binh đánh trận, trong người tự có tính toán trước, dù không am hiểu nhiều về Tây Vực, nhưng bỏ công suy tư có thể nhìn rõ cục diện, tính toán thật nhanh, cân nhắc lợi hại, gật gù.
Dọc đường Lý Huyền Trinh rất an phận, trước khi cứu Minh Nguyệt Nô ra an toàn, hắn có thể nhẫn nại tạm thời không giết Lý Huyền Trinh. Chờ cứu em rồi, hắn lại ra tay vậy.
…
Trong lúc mấy người Lý Trọng Kiền xuyên qua sa mạc tám trăm dặm thẳng tới Y Châu, Dao Anh đang đi về phía Nam.
Để né đoàn người của Tiểu Vương tử Bắc Nhung, họ chạy liên tục mấy ngày đường.
Trời đông giá rét, đóng băng ngàn dặm, trong phạm vi mắt nhìn được khắp nơi óng ánh trắng muốt, núi tuyết liên miên chân trời, mây che đỉnh núi mù sương, thi thoảng lộ ra vài góc đá lởm chởm, tươi đẹp tráng lệ.
Con ưng của Đàm Ma La Già luôn đi theo họ trở thành trinh sát, tuần tra canh chừng. Dù trời trong hay trời tuyết, Dao Anh thường xuyên trông thấy bóng nó bay lượn trên không.
Hôm ấy, nàng thấy con ưng đáp xuống, đậu trên vai Tô Đan Cổ, nhớ tới những chuyện bữa giờ, gọi Tề Niên tới hỏi ông có thấy chỗ mấy Hồ thương bán ưng đưa thư không.
Tề Niên cố nhớ lại, lắc đầu: “Người bán ưng không ít, nhưng bán ưng để đưa thư thì chưa từng nghe. Công chúa muốn nuôi ưng ạ? Bộc có thể hỏi thăm một chút cho người.”
Dao Anh lắc đầu, bỏ ý định.
Thuần dưỡng ưng trung thành để đưa thư chỉ có thể gặp mà không thể cầu, ưng của Đàm Ma La Già và Hải Đô A Lăng đều thuần dưỡng bắt đầu từ ưng con, hơn nữa, ưng đưa thư phải quen thuộc hoàn cảnh mới phát huy tác dụng, cho rằng nàng mua được ưng đưa thư thì ngay lập tức cũng không thể dùng được.
Nàng giương mắt chằm chằm nhìn con ưng đến ngây người, con ưng đứng trên đầu vai của Tô Đan Cổ, con mắt sắc bén liếc nàng.
Dao Anh cười khẽ, móc ra thịt khô. Ưng vẫn liếc.
Dao Anh xoay đi không nhìn nó, lòng bàn tay vẫn hướng lên trên. Chỉ sau chốc lát, trong lòng bàn tay hơi nhói, ưng đã mổ thịt khô trong tay.
Một người một ưng đang chơi đùa, đội ngũ chợt ngừng lại, Duyên Giác đi đầu lao vụt về, “Là cướp đường!”
Đám người thất kinh, lật đật cảnh giác, hộ vệ rút trường đao, bày ra chiến trận, bảo vệ Lý Dao Anh vào chính giữa, đám Tề Niên nhanh chóng trèo vào xe ngựa.
Tô Đan Cổ quay lại, đôi mắt xanh dưới mặt nạ bình tĩnh không lay động, ra hiệu cho Duyên Giác.
Duyên Giác vâng lời, dẫn người lùi về cạnh Dao Anh, ra hiệu họ tránh sang một bên gò núi.
Tất cả rút lui đến gò núi, Dao Anh nhìn ra xa, đúng là có một đám người ngựa tay cầm gậy gộc đao kiếm chạy nhanh về phía bọn họ, khí thế hùng hổ, ánh đao lấp lóe.
Nhóm cướp đường này rất giảo hoạt, biết mượn nhờ địa hình che dấu vết, che tiếng vó ngựa, lại mặc áo khoác ngắn tay mỏng màu trắng, giữa vùng đất tuyết, ưng rất khó phát hiện chúng.
Tiếng hò hét của đám cướp đến gần, trong chớp mắt đã nhào vào trước mặt họ.
Tạ Thanh rút đao, đá bụng ngựa định tiến lên, thân binh Vương Đình đưa tay ngăn lại, nhìn Tô Đan Cổ, nín thở tập trung.
Dao Anh nhìn theo.
Tô Đan Cổ để tất cả lui lại, một mình tiến lên, đánh ngựa leo lên một chỗ địa thế tương đối cao, ung dung không vội, khí thế ngưng tụ.
Lòng Dao Anh rất gấp, thầm nghĩ: Không phải ngài muốn một mình giết sạch hết cướp chứ?
Duyên Giác đánh ngựa đi theo sau lưng Tô Đan Cổ, dâng lên một cây cung sừng trâu và mấy mũi tên sắt. Tô Đan Cổ cởi áo khoác đen bên ngoài, cầm lấy trường cung, gài tên, giương cung căng đầy, tay vượn giãn ra.
Trong nháy mắt, tất cả khí thế lạnh thấu xương của con đường tuyết gập ghềnh này đều tụ về người hắn.
Tên cướp đầu sỏ nhìn thấy Tô Đan Cổ, cười gằn tiếp tục chạy đến, người bình thường bắn hơn một trăm mười bước đã gọi là cao thủ, cách xa thế này, giữa gió tuyết tràn ngập, bắn tên được cái thá gì? Chỉ là thủ đoạn dọa người thôi!
Tô Đan Cổ tập trung lên cung tên, đầu mũi tên chĩa về xa xa, không nhúc nhích. Thấy đạo phỉ càng lúc càng gần, hắn vẫn không bắn.
Mấy người Tạ Xung, Tạ Bằng muốn kìm không nổi, không bày ra trận phòng thủ sẵn, đợi chúng công tới, họ sẽ không có đường lui!
Dao Anh quay sang lắc đầu, ra hiệu chờ một chút.
Tiếng cướp cười to phách lối theo gió truyền đến, đúng lúc này, chỉ nghe dây cung mấy tiếng nhẹ vang, tiếng mũi tên đáp lại vụt ra, như cầu vồng xuyên mặt trời, xé gió tuyết lao thẳng về phía đám cướp.
Khoảng cách quá xa, tên cầm đầu cũng không rối, đưa đao ngang lên chặn, vừa nâng, đã nghe tiếng rít bên tai, mũi tên sắt nhanh như sét đánh, thẳng về phía trước ngực gã!
Tên cầm đầu ngây người, vẻ mặt đầy dữ tợn, mắt trợn muốn rớt ra ngoài, chửi một tiếng, đưa tay định gạt tên, lại phát hiện tên này nhìn như rất bình thường nhưng vô cùng có lực, xa hơn hai trăm bước, trực tiếp xuyên thủng áo giáp gã!
Mấy tên người Hồ nhìn rõ gã bị thương, rất ngạc nhiên lo sợ. Gã cầm đầu cắn răng: “Tiếp tục xông đến!” Gã thúc ngựa tiếp tục tiến lên.
Ngựa Tô Đan Cổ trụ trên gò tuyết, nhìn xuống đám cướp đằng xa, như quan sát đàn kiến hôi, lại giương cung, vèo vèo vèo, mũi thứ hai, thứ ba, thứ tư liên tiếp bắn ra, thế như gió đuổi.
Mấy tiếng rơi bịch bịch, gã cầm đầu người Hồ rơi xuống lưng ngựa, miệng há lớn, chết không nhắm mắt, trước ngực cắm đầy tên sắt.
Mỗi một tên đều không sai không lệch bắn lên một mình người gã, khí thế vạn quân, vẫn mang ung dung như ngắt hoa trong nháy mắt.
Thấy tên cầm đầu đã chết, đám còn lại hoảng hốt, không dám thúc ngựa tiến lên tiếp, cả xác của tên cầm đầu cũng bất chấp, lập tức quay đầu ngựa, chạy tứ tán.
Tô Đan Cổ không tiếp tục bắn.
Mấy người Tạ Xung thấy mà than thở, nhỏ giọng: “Tài bắn tên của Nhiếp Chính Vương thật điêu luyện.”
Đám cướp đã chạy trốn, hẳn không còn dám tới, cả đám xuống gò núi, tiếp tục đi. Mấy người Tạ Xung không dám lơ là, hễ nghe tiếng vó ngựa tới gần liền tranh thủ rút đao canh chừng.
Duyên Giác cười trấn an: “Mọi người yên tâm, mấy đám cướp Cao Xương lúc này hoặc là dân trôi dạt khắp nơi, hoặc là lưu dân làm thuê cho quý tộc, phần lớn không phải người cùng hung cực ác, một đám ô hợp thôi, Nhiếp Chính Vương đã giết tên cầm đầu, đám còn lại tự nhiên tan thôi. Từ đây đến Cao Xương sẽ không còn ai cản đường.”
Tạ Xung không tin, vẫn giữ cảnh giác, nhưng thật sự như lời Duyên Giác nói, hành trình sau đó quả nhiên bình an vô sự, không còn giặc cỏ dám cản đường cướp bóc.
Hai ngày sau, họ bình an đến Cao Xương.
/208
|