Càng đi sâu vào rừng cây, mặt đất càng thêm ẩm thấp. Mặt trời trên đỉnh đầu bị cành lá thật dày bao trùm, giữa ngày hè nóng bức lợi ích duy nhất là tạo ra bóng mát.
Bóng dáng bay vút của Phượng Tây Trác đột nhiên dừng lại, cúi thấp người, nghiêng tai dán sát mặt đất lắng nghe.
Nàng xuất thân lục lâm, nghe tiếng đoán hướng là bản lĩnh giữ nhà. Nhưng lúc này tiếng người nghe được không chỉ ở một chỗ, nếu lấy nàng làm trung tâm, chung quanh rừng ít nhất năm nơi có người.
Hoàng thúc thấy nàng đứng lên, vội hỏi: “Thế nào rồi?”
Phượng Tây Trác nói: “Bắt giặc phải bắt kẻ cầm đầu, chúng ta đến đại bản doanh trước.” Dứt lời, lao về hướng có tiếng bước chân và tiếng vó ngựa nhiều nhất. Luận khinh công, thiên hạ này hiếm người là đối thủ của nàng, nếu dùng toàn lực, Hoàng thúc chắc chắn sẽ rơi lại phía sau, bởi vậy nàng cố ý trì hoãn bước chân, để hai người bảo trì khoảng cách ba bước không xa không gần.
Lại đi về phía trước, cây rừng ngược lại trở nên thưa thớt. Ánh mặt trời đã có thể xuyên qua những tán lá, từng chùm tia sáng chiếu xuống lá non lấp lánh ánh bạc, vô cùng long lanh.
Phía trước đã có thể nhìn thấy bóng người lờ mờ, Phượng Tây nhảy lên trên cành, mượn phản xạ của ánh mặt trời để che dấu thân mình, nhanh nhẹn bay qua bay lại trên đỉnh đầu những người đó.
Khinh công của Hoàng thúc đã là cao nhất trong ba hộ vệ, nhưng vẫn cảm thấy cố hết sức mới theo kịp. Phượng Tây Trác thấy hô hấp của Hoàng thúc trở nên dồn dập, nhanh chóng dừng lại, ghé vào lỗ tai hắn nhẹ giọng nói: “Hoàng thúc, thúc ở đây trông chừng phía dưới giúp ta, ta đi sâu vào bên trong xem thử.”
Hoàng thúc tuy rằng lo lắng nàng còn trẻ lỗ mãng nhỡ đâu gặp chuyện không mau, nhưng cũng không dám phân tâm mở miệng, đành phải gật gật đầu, làm khẩu hình cẩn thận.
Phượng Tây Trác nở nụ cười tràn đầy tự tin, thân như chim hồng, biến mất nơi ánh mặt trời quấn quýt với lá cây.
Chớ trách đám người Phượng Tây Trác không biết chi tiết về cánh rừng này, ngoại trừ những người ở thành Hưng Hòe, những người hiểu biết về nó rất ít.
Năm đó Hoàng đế trở mặt với Lam quận vương, quan hệ hai bên vô cùng căng thẳng. Rừng Bình An lại nằm ở vị trí giao nhau của hai châu Miễn – Quyên, Hoàng đế muốn đề phòng có chuyện xảy ra, phái Tể Thiệu vương trấn thủ Hưng Hòe, âm thầm bài bố binh lực trong khu rừng. Chuyện quân sự cơ mật như thế, tự nhiên là cấm nói ra.
Tể Thiệu vương vốn nổi danh ăn chơi trác táng trong kinh thành, mặc dù có vài phần bản lĩnh, nhưng thói xấu đã ăn sâu khó trừ. Vài năm đầu tiên còn ngại Hoàng đế nhìn chằm chằm, vẫn tuân thủ bổn phận. Nhưng qua năm sáu năm, Hoàng đế dần dần quên đi, bản tính của hắn đã bại lộ. Hiếp đáp dân chúng, hoành hành thôn làng chưa tính, còn muốn biến rừng Bình An thành chốn ăn chơi, ngày ngày chìm trong dâm loạn.
Hắn tự biết địa vị của mình trong cảm nhận của Hoàng đế tuyệt đối không thể so sánh với đám trọng thần ở kinh thành, nếu tin đồn hung ác truyền đến kinh đô, tất sẽ trở thành công cụ cho kẻ khác lợi dụng, bởi vậy tích cực mượn sức các đảng phái, trong đó đặc biệt để ý đến hai vị Cố, Thầm. Đám triều thần thu được lợi từ hắn, tự nhiên sẽ nhắm mắt làm ngơ. Hiện tại, hắn như vua của chốn này, bắt tất cả dân chúng phản kháng thành nô lệ, dùng khổ hình tra tấn làm vui.
Mấy ngày này, hắn mời đám bạn tốt trong kinh, ngay tại trong rừng cử hành giải đấu thi bắn người. Giải đấu này tên như ý nghĩa, chính là coi nô lệ bắt được như dã thú mà săn bắn. Nô lệ tay không tấc sắt, bình thường chưa chạy được mấy bước đã bị ngựa đuổi theo, bọn họ không bắn chết ngay, mà chậm rãi tra tấn, khiến cho nô lệ không chịu nổi, mất máu quá nhiều hoặc cắn lưỡi tự sát mà chết.
Đến ngày thứ ba, hơn một trăm nô lệ được thả ra đã chết hơn nửa, còn lại vài người cũng cận kề tử vong.
Tể Thiệu vương cùng đám quyền quý kinh thành hết hứng trí, đem cung tên giao cho nhóm thủ hạ đi giải quyết những người còn sót lại, còn hắn chiêu đãi chúng bạn trong Khoái Hoạt lâu vừa mới xây uống rượu mua vui. Tiếng cười của bọn họ không hề cố kỵ, tiếng nói vang dội, thủ hạ lại lười biếng thành thói, khiến cho Phượng Tây Trác tìm được đến đây không tốn bao nhiêu công sức.
Nàng bay người lên trên mái hiên, nhẹ nhàng nhấc bỏ viên ngói trên đỉnh đầu bọn họ, tình cảnh trong phòng vừa nhìn đã hiểu ngay.
Phía dưới nam ôm nữ ấp, tay trên tay dưới, phóng túng vô cùng. Không bao lâu, vài gã trẻ tuổi từng người ôm mỹ nhân lần lượt rời đi. Chỉ lưu lại một nam tử trung niên tuổi chừng bốn mươi, trán rộng mũi cao cùng một nam tử khoác áo bào tro vóc người thấp bé, da mặt trắng nõn.
Hai người ngồi im, hiển nhiên có việc muốn nói.
Phượng Tây Trác nghĩ nghĩ, cúi thấp người lẳng lặng nhìn xuống.
Nam tử trung niên mặc long bào đỏ, ngồi ở vị trí chính giữa, hiển nhiên là Tể Thiệu vương. Hắn lấy từ trong người ra một hộp gỗ đàn hương trạm khắc mây núi, đưa cho nam tử áo bào tro nói: “Làm phiền Sở công công thay ta chuyển đến Nhạc tổng quản.”
Sở công công tiếp nhận bằng hai tay, nói: “Vương gia có tâm.”
Tể Thiệu vương thấy hắn bưng hộp bất động không nói một lời, trong lòng chửi thầm tên hoạn quan lòng tham không đáy, trên mặt lại vẫn tươi cười lấy từ trong tay áo ra một tập ngân phiếu, “Sở công công cũng vất vả rồi.”
Sở công công liếc mắt một cái, mới vui vẻ đem hai thứ thu vào trong tay áo, “Vương gia thật sự là quá khách khí. Nhạc tổng quản lần này muốn nhắn với Vương gia một câu: Thế nước của Vãn Hà cung đang lên.”
Tể Thiệu vương biến sắc, “Vãn Hà cung? Làm sao có thể là Vãn Hà cung? Còn Trường Khánh cung thì sao?”
Sở công công nói: “Thánh ý khó dò. Mấy ngày nay thánh thượng đều lựa chọn Vãn Hà cung, có hai đêm còn giữ lại Thừa Đức cung.”
Thừa Đức cung là tẩm cung của Hoàng đế, Đại tuyên có luật lệ rõ ràng, chỉ hoàng hậu mới có thể ở lại thị tẩm. Thậm chí có hoàng hậu không được sủng ái, cả đời đều không được hưởng vinh dự này. Quyên phi của Vãn Hà cung tuy rằng chỉ là Tam phẩm, lại giống như Hiền phi của Trường Khánh cung, là người chấp chưởng hậu cung. Tể Thiệu vương trời sinh tính tình bạo ngược nhưng không phải kẻ ngu dốt, trong lòng chấn động không thôi, thử suy đoán: “Có thể là Hoàng Thượng hứng khởi nhất thời hay không?”
Sở công công nhìn hắn, cười khà khà không ngừng. Vẻ mặt này khiến Phượng Tây Trác liên tưởng đến tiên sinh thuyết thư ở quán rượu đối diện Bất Đình Khẩu.
“Công công, có chuyện cứ nói đừng ngại.” Tể Thiệu vương thúc giục.
“Vương gia có biết Lương ngự y?”
Tể Thiệu vương nhíu nhíu mày, “Lương Nhung Trang?” Hắn là ngự y mà Hoàng đế tín nhiệm nhất, nghe nói có lần Hoàng đế nhiễm phong hàn, Lương Nhung Trang lại về quê thăm người thân. Hoàng đế cự tuyệt tất cả các ngự y khác, sai người tốc hành tám trăm dặm đưa hắn trở về. Bởi vậy có thể thấy được địa vị của hắn ở trong lòng Hoàng đế. Tể Thiệu vương từng có ý đồ kết giao với hắn, lại bị từ chối gặp mặt hết lần này tới lần khác, thậm chí ở trước mặt Hoàng đế còn nói hắn tâm bất chính, làm hại hắn bị Hoàng đế nghiêm lệnh đóng cửa sám hối. Hai người kết thù từ đó: “Hắn làm sao?”
“Từ sau khi Chung hoàng hậu qua đời, thân thể của Hoàng Thượng bất an, đều do một tay hắn điều trị. Sau khi Hoàng Thượng lành bệnh, tinh lực càng hơn dĩ vãng, ngươi có biết vì sao?”
“Hừ, chẳng lẽ là Lương Nhung Trang tìm ra linh đan diệu dược gì?”
“Đúng là như thế. Lương Nhung Trang kê đơn một loại thuốc, chẳng những bổ khí dưỡng thần, còn khiến nam nhân hùng phong phấn chấn.”
Ánh mắt Tể Thiệu vương sáng lên, vội hỏi: “Là thuốc gì?”
Sở công công thấy vẻ mặt của hắn, biết hắn đang suy nghĩ gì, cười nói: “Vương gia hãy nghe ta nói xong đã. Thành cũng vì nó, bại cũng vì nó. Lương Nhung Trang bởi vì thuốc này mà nhận hết ân sủng của Hoàng đế, danh tiếng nhất thời có một không hai, nhưng cũng bởi vậy thân bại danh liệt, gần như chết ở trong ngục.”
Tể Thiệu vương nghi hoặc: “Lời này giải thích thế nào?”
“Dạo gần đây đột nhiên long thể của Hoàng Thượng ôm bệnh, bệnh tới hung hăng. Nghe nói sau khi Lương Nhung Trang vào cung chẩn đoán, tùy tiện kê một đơn thuốc, sau đó lẩn trốn ra khỏi cung. Ai ngờ lưới trời tuy thưa mà khó lọt, đúng lúc gặp phải Kiêu Dương vương đang trên đường về kinh, bị tóm trở lại.”
Tể Thiệu vương đối với Kiêu Dương vương nổi tiếng vốn không có hảo cảm, nghe vậy chỉ ợm ờ một tiếng hỏi tiếp: “Vừa rồi công công nói thành cũng tại nó, bại cũng vì nó, chẳng lẽ thuốc kia có vấn đề?”
“Có lẽ phải, có lẽ không phải. Đến tột cùng chân tướng như thế nào, Hoàng Thượng chưa nói. Chỉ bắt giam Lương Nhung Trang vào trong đại lao, không cho thẩm vấn, cũng không cho nhắc đến.”
Tể Thiệu vương nói: “Chuyện này thật là kỳ quái. Có điều đến tột cùng long thể của Hoàng Thượng…”
“Chuyện này…” Sở công công hàm hồ nói, “Ai cũng không rõ ràng.”
Tể Thiệu vương ngầm hiểu, “Đúng rồi, phía Trường Khánh cung có động tĩnh gì hay không?”
Sở công công không đáp mà hỏi ngược lại: “Vương gia có biết vì sao Hiền phi lại vào Trường Khánh cung?”
“Bởi vì Tam hoàng tử?”
“Con nối dõi của Hoàng Thượng ít ỏi, cho tới bây giờ chỉ có hai nam một nữ. Mà Trưởng tử lại…” Hắn giật giật lông mi, không tiếp tục nói.
Năm đó Lam hoàng hậu sinh được một kẻ ngốc toàn bộ kinh thành đều biết, thậm chí có lời đồn Hoàng đế là ngại nàng làm bẩn huyết mạch Thượng thị, mới dứt khoát phế đi. Bởi vậy mặc dù hắn không nói rõ, Tể Thiệu vương cũng hiểu được ngụ ý của hắn, “Như thế vì sao hiện tại Hoàng Thượng liên tiếp lâm hạnh Vãn Hà cung?”
Sở công công nói: “Hiền phi nương nương sinh hạ hoàng tử là chuyện sau khi Lương Nhung Trang hiến thuốc.”
Tể Thiệu vương lắp bắp kinh hãi, “Chẳng lẽ Hoàng Thượng hoài nghi Lương Nhung Trang…” Lời nói sau đó hắn không dám nói ra, nếu đúng như thế, kia tuyệt đối là bí mật kinh động toàn đô thành!
Hoàng đế có ba người con, trong đó một kẻ ngốc, một nữ nhi. Nếu Hoàng Thượng băng hà, đăng cơ chỉ còn lại… Nếu Trường Khánh cung thực sự vì thế mà làm ra chuyện gì, cũng không kỳ quái: “Không có gì chắc chắn rằng Hoàng Thượng sẽ không cho hoàng nữ đăng cơ, dù sao đã có tiền lệ.” Năm đó Thuấn đế cũng là chịu di chiếu của Tiên hoàng, được trọng thần trong triều phụ trợ đăng cơ.
Sở công công giận dữ nói: “Long tâm khó dò, Vương gia vẫn nên an tĩnh chờ đợi trước.”
Tể Thiệu vương làm sao chịu nghe. Nếu Hoàng đế thật sự băng hà, hắn vinh hay nhục đều đang là ẩn số. Muốn tranh thủ cơ hội, phải thừa dịp hiện tại. Ba vị Hoàng tử Hoàng nữ đều còn nhỏ tuổi, tranh đấu tất nhiên sẽ do mẫu phi bọn họ. Có điều Đại hoàng tử do Lam hoàng hậu sinh ra, nay Hoàng đế và Lam quận vương đang như nước với lửa, hắn lại là đứa trẻ ngốc, truyền ngôi cho hắn khả năng thật sự không cao. Còn mẫu phi của Nhị hoàng nữ và Tam hoàng tử một người xuất thân Thẩm gia, một người đến từ Cố gia, đều là dòng họ có quyền thế nhất trong triều hiện nay. Vốn khả năng Hoàng tử được chọn lớn hơn một chút, nhưng lại xảy ra chuyện của Lương Nhung Trang, ai thắng ai thua, thực chưa biết.
Phượng Tây Trác ghé vào trên mái hiên, nghe bọn hắn nói bí mật chốn cung đình, chỉ cảm thấy nhàm chán lại không thú vị, đang tính toán làm thế nào bắt giữ hai hai người trong phòng, ép hỏi thi thể chết ở trong rừng, chợt nghe thấy bên ngoài truyền đến tiếng bước chân hỗn độn.
Một tên tiểu tốt vọt vào trong, kinh hoảng nói: “Bẩm báo Vương gia, bên ngoài có một nhóm lưu dân tấn công vào được.”
Bóng dáng bay vút của Phượng Tây Trác đột nhiên dừng lại, cúi thấp người, nghiêng tai dán sát mặt đất lắng nghe.
Nàng xuất thân lục lâm, nghe tiếng đoán hướng là bản lĩnh giữ nhà. Nhưng lúc này tiếng người nghe được không chỉ ở một chỗ, nếu lấy nàng làm trung tâm, chung quanh rừng ít nhất năm nơi có người.
Hoàng thúc thấy nàng đứng lên, vội hỏi: “Thế nào rồi?”
Phượng Tây Trác nói: “Bắt giặc phải bắt kẻ cầm đầu, chúng ta đến đại bản doanh trước.” Dứt lời, lao về hướng có tiếng bước chân và tiếng vó ngựa nhiều nhất. Luận khinh công, thiên hạ này hiếm người là đối thủ của nàng, nếu dùng toàn lực, Hoàng thúc chắc chắn sẽ rơi lại phía sau, bởi vậy nàng cố ý trì hoãn bước chân, để hai người bảo trì khoảng cách ba bước không xa không gần.
Lại đi về phía trước, cây rừng ngược lại trở nên thưa thớt. Ánh mặt trời đã có thể xuyên qua những tán lá, từng chùm tia sáng chiếu xuống lá non lấp lánh ánh bạc, vô cùng long lanh.
Phía trước đã có thể nhìn thấy bóng người lờ mờ, Phượng Tây nhảy lên trên cành, mượn phản xạ của ánh mặt trời để che dấu thân mình, nhanh nhẹn bay qua bay lại trên đỉnh đầu những người đó.
Khinh công của Hoàng thúc đã là cao nhất trong ba hộ vệ, nhưng vẫn cảm thấy cố hết sức mới theo kịp. Phượng Tây Trác thấy hô hấp của Hoàng thúc trở nên dồn dập, nhanh chóng dừng lại, ghé vào lỗ tai hắn nhẹ giọng nói: “Hoàng thúc, thúc ở đây trông chừng phía dưới giúp ta, ta đi sâu vào bên trong xem thử.”
Hoàng thúc tuy rằng lo lắng nàng còn trẻ lỗ mãng nhỡ đâu gặp chuyện không mau, nhưng cũng không dám phân tâm mở miệng, đành phải gật gật đầu, làm khẩu hình cẩn thận.
Phượng Tây Trác nở nụ cười tràn đầy tự tin, thân như chim hồng, biến mất nơi ánh mặt trời quấn quýt với lá cây.
Chớ trách đám người Phượng Tây Trác không biết chi tiết về cánh rừng này, ngoại trừ những người ở thành Hưng Hòe, những người hiểu biết về nó rất ít.
Năm đó Hoàng đế trở mặt với Lam quận vương, quan hệ hai bên vô cùng căng thẳng. Rừng Bình An lại nằm ở vị trí giao nhau của hai châu Miễn – Quyên, Hoàng đế muốn đề phòng có chuyện xảy ra, phái Tể Thiệu vương trấn thủ Hưng Hòe, âm thầm bài bố binh lực trong khu rừng. Chuyện quân sự cơ mật như thế, tự nhiên là cấm nói ra.
Tể Thiệu vương vốn nổi danh ăn chơi trác táng trong kinh thành, mặc dù có vài phần bản lĩnh, nhưng thói xấu đã ăn sâu khó trừ. Vài năm đầu tiên còn ngại Hoàng đế nhìn chằm chằm, vẫn tuân thủ bổn phận. Nhưng qua năm sáu năm, Hoàng đế dần dần quên đi, bản tính của hắn đã bại lộ. Hiếp đáp dân chúng, hoành hành thôn làng chưa tính, còn muốn biến rừng Bình An thành chốn ăn chơi, ngày ngày chìm trong dâm loạn.
Hắn tự biết địa vị của mình trong cảm nhận của Hoàng đế tuyệt đối không thể so sánh với đám trọng thần ở kinh thành, nếu tin đồn hung ác truyền đến kinh đô, tất sẽ trở thành công cụ cho kẻ khác lợi dụng, bởi vậy tích cực mượn sức các đảng phái, trong đó đặc biệt để ý đến hai vị Cố, Thầm. Đám triều thần thu được lợi từ hắn, tự nhiên sẽ nhắm mắt làm ngơ. Hiện tại, hắn như vua của chốn này, bắt tất cả dân chúng phản kháng thành nô lệ, dùng khổ hình tra tấn làm vui.
Mấy ngày này, hắn mời đám bạn tốt trong kinh, ngay tại trong rừng cử hành giải đấu thi bắn người. Giải đấu này tên như ý nghĩa, chính là coi nô lệ bắt được như dã thú mà săn bắn. Nô lệ tay không tấc sắt, bình thường chưa chạy được mấy bước đã bị ngựa đuổi theo, bọn họ không bắn chết ngay, mà chậm rãi tra tấn, khiến cho nô lệ không chịu nổi, mất máu quá nhiều hoặc cắn lưỡi tự sát mà chết.
Đến ngày thứ ba, hơn một trăm nô lệ được thả ra đã chết hơn nửa, còn lại vài người cũng cận kề tử vong.
Tể Thiệu vương cùng đám quyền quý kinh thành hết hứng trí, đem cung tên giao cho nhóm thủ hạ đi giải quyết những người còn sót lại, còn hắn chiêu đãi chúng bạn trong Khoái Hoạt lâu vừa mới xây uống rượu mua vui. Tiếng cười của bọn họ không hề cố kỵ, tiếng nói vang dội, thủ hạ lại lười biếng thành thói, khiến cho Phượng Tây Trác tìm được đến đây không tốn bao nhiêu công sức.
Nàng bay người lên trên mái hiên, nhẹ nhàng nhấc bỏ viên ngói trên đỉnh đầu bọn họ, tình cảnh trong phòng vừa nhìn đã hiểu ngay.
Phía dưới nam ôm nữ ấp, tay trên tay dưới, phóng túng vô cùng. Không bao lâu, vài gã trẻ tuổi từng người ôm mỹ nhân lần lượt rời đi. Chỉ lưu lại một nam tử trung niên tuổi chừng bốn mươi, trán rộng mũi cao cùng một nam tử khoác áo bào tro vóc người thấp bé, da mặt trắng nõn.
Hai người ngồi im, hiển nhiên có việc muốn nói.
Phượng Tây Trác nghĩ nghĩ, cúi thấp người lẳng lặng nhìn xuống.
Nam tử trung niên mặc long bào đỏ, ngồi ở vị trí chính giữa, hiển nhiên là Tể Thiệu vương. Hắn lấy từ trong người ra một hộp gỗ đàn hương trạm khắc mây núi, đưa cho nam tử áo bào tro nói: “Làm phiền Sở công công thay ta chuyển đến Nhạc tổng quản.”
Sở công công tiếp nhận bằng hai tay, nói: “Vương gia có tâm.”
Tể Thiệu vương thấy hắn bưng hộp bất động không nói một lời, trong lòng chửi thầm tên hoạn quan lòng tham không đáy, trên mặt lại vẫn tươi cười lấy từ trong tay áo ra một tập ngân phiếu, “Sở công công cũng vất vả rồi.”
Sở công công liếc mắt một cái, mới vui vẻ đem hai thứ thu vào trong tay áo, “Vương gia thật sự là quá khách khí. Nhạc tổng quản lần này muốn nhắn với Vương gia một câu: Thế nước của Vãn Hà cung đang lên.”
Tể Thiệu vương biến sắc, “Vãn Hà cung? Làm sao có thể là Vãn Hà cung? Còn Trường Khánh cung thì sao?”
Sở công công nói: “Thánh ý khó dò. Mấy ngày nay thánh thượng đều lựa chọn Vãn Hà cung, có hai đêm còn giữ lại Thừa Đức cung.”
Thừa Đức cung là tẩm cung của Hoàng đế, Đại tuyên có luật lệ rõ ràng, chỉ hoàng hậu mới có thể ở lại thị tẩm. Thậm chí có hoàng hậu không được sủng ái, cả đời đều không được hưởng vinh dự này. Quyên phi của Vãn Hà cung tuy rằng chỉ là Tam phẩm, lại giống như Hiền phi của Trường Khánh cung, là người chấp chưởng hậu cung. Tể Thiệu vương trời sinh tính tình bạo ngược nhưng không phải kẻ ngu dốt, trong lòng chấn động không thôi, thử suy đoán: “Có thể là Hoàng Thượng hứng khởi nhất thời hay không?”
Sở công công nhìn hắn, cười khà khà không ngừng. Vẻ mặt này khiến Phượng Tây Trác liên tưởng đến tiên sinh thuyết thư ở quán rượu đối diện Bất Đình Khẩu.
“Công công, có chuyện cứ nói đừng ngại.” Tể Thiệu vương thúc giục.
“Vương gia có biết Lương ngự y?”
Tể Thiệu vương nhíu nhíu mày, “Lương Nhung Trang?” Hắn là ngự y mà Hoàng đế tín nhiệm nhất, nghe nói có lần Hoàng đế nhiễm phong hàn, Lương Nhung Trang lại về quê thăm người thân. Hoàng đế cự tuyệt tất cả các ngự y khác, sai người tốc hành tám trăm dặm đưa hắn trở về. Bởi vậy có thể thấy được địa vị của hắn ở trong lòng Hoàng đế. Tể Thiệu vương từng có ý đồ kết giao với hắn, lại bị từ chối gặp mặt hết lần này tới lần khác, thậm chí ở trước mặt Hoàng đế còn nói hắn tâm bất chính, làm hại hắn bị Hoàng đế nghiêm lệnh đóng cửa sám hối. Hai người kết thù từ đó: “Hắn làm sao?”
“Từ sau khi Chung hoàng hậu qua đời, thân thể của Hoàng Thượng bất an, đều do một tay hắn điều trị. Sau khi Hoàng Thượng lành bệnh, tinh lực càng hơn dĩ vãng, ngươi có biết vì sao?”
“Hừ, chẳng lẽ là Lương Nhung Trang tìm ra linh đan diệu dược gì?”
“Đúng là như thế. Lương Nhung Trang kê đơn một loại thuốc, chẳng những bổ khí dưỡng thần, còn khiến nam nhân hùng phong phấn chấn.”
Ánh mắt Tể Thiệu vương sáng lên, vội hỏi: “Là thuốc gì?”
Sở công công thấy vẻ mặt của hắn, biết hắn đang suy nghĩ gì, cười nói: “Vương gia hãy nghe ta nói xong đã. Thành cũng vì nó, bại cũng vì nó. Lương Nhung Trang bởi vì thuốc này mà nhận hết ân sủng của Hoàng đế, danh tiếng nhất thời có một không hai, nhưng cũng bởi vậy thân bại danh liệt, gần như chết ở trong ngục.”
Tể Thiệu vương nghi hoặc: “Lời này giải thích thế nào?”
“Dạo gần đây đột nhiên long thể của Hoàng Thượng ôm bệnh, bệnh tới hung hăng. Nghe nói sau khi Lương Nhung Trang vào cung chẩn đoán, tùy tiện kê một đơn thuốc, sau đó lẩn trốn ra khỏi cung. Ai ngờ lưới trời tuy thưa mà khó lọt, đúng lúc gặp phải Kiêu Dương vương đang trên đường về kinh, bị tóm trở lại.”
Tể Thiệu vương đối với Kiêu Dương vương nổi tiếng vốn không có hảo cảm, nghe vậy chỉ ợm ờ một tiếng hỏi tiếp: “Vừa rồi công công nói thành cũng tại nó, bại cũng vì nó, chẳng lẽ thuốc kia có vấn đề?”
“Có lẽ phải, có lẽ không phải. Đến tột cùng chân tướng như thế nào, Hoàng Thượng chưa nói. Chỉ bắt giam Lương Nhung Trang vào trong đại lao, không cho thẩm vấn, cũng không cho nhắc đến.”
Tể Thiệu vương nói: “Chuyện này thật là kỳ quái. Có điều đến tột cùng long thể của Hoàng Thượng…”
“Chuyện này…” Sở công công hàm hồ nói, “Ai cũng không rõ ràng.”
Tể Thiệu vương ngầm hiểu, “Đúng rồi, phía Trường Khánh cung có động tĩnh gì hay không?”
Sở công công không đáp mà hỏi ngược lại: “Vương gia có biết vì sao Hiền phi lại vào Trường Khánh cung?”
“Bởi vì Tam hoàng tử?”
“Con nối dõi của Hoàng Thượng ít ỏi, cho tới bây giờ chỉ có hai nam một nữ. Mà Trưởng tử lại…” Hắn giật giật lông mi, không tiếp tục nói.
Năm đó Lam hoàng hậu sinh được một kẻ ngốc toàn bộ kinh thành đều biết, thậm chí có lời đồn Hoàng đế là ngại nàng làm bẩn huyết mạch Thượng thị, mới dứt khoát phế đi. Bởi vậy mặc dù hắn không nói rõ, Tể Thiệu vương cũng hiểu được ngụ ý của hắn, “Như thế vì sao hiện tại Hoàng Thượng liên tiếp lâm hạnh Vãn Hà cung?”
Sở công công nói: “Hiền phi nương nương sinh hạ hoàng tử là chuyện sau khi Lương Nhung Trang hiến thuốc.”
Tể Thiệu vương lắp bắp kinh hãi, “Chẳng lẽ Hoàng Thượng hoài nghi Lương Nhung Trang…” Lời nói sau đó hắn không dám nói ra, nếu đúng như thế, kia tuyệt đối là bí mật kinh động toàn đô thành!
Hoàng đế có ba người con, trong đó một kẻ ngốc, một nữ nhi. Nếu Hoàng Thượng băng hà, đăng cơ chỉ còn lại… Nếu Trường Khánh cung thực sự vì thế mà làm ra chuyện gì, cũng không kỳ quái: “Không có gì chắc chắn rằng Hoàng Thượng sẽ không cho hoàng nữ đăng cơ, dù sao đã có tiền lệ.” Năm đó Thuấn đế cũng là chịu di chiếu của Tiên hoàng, được trọng thần trong triều phụ trợ đăng cơ.
Sở công công giận dữ nói: “Long tâm khó dò, Vương gia vẫn nên an tĩnh chờ đợi trước.”
Tể Thiệu vương làm sao chịu nghe. Nếu Hoàng đế thật sự băng hà, hắn vinh hay nhục đều đang là ẩn số. Muốn tranh thủ cơ hội, phải thừa dịp hiện tại. Ba vị Hoàng tử Hoàng nữ đều còn nhỏ tuổi, tranh đấu tất nhiên sẽ do mẫu phi bọn họ. Có điều Đại hoàng tử do Lam hoàng hậu sinh ra, nay Hoàng đế và Lam quận vương đang như nước với lửa, hắn lại là đứa trẻ ngốc, truyền ngôi cho hắn khả năng thật sự không cao. Còn mẫu phi của Nhị hoàng nữ và Tam hoàng tử một người xuất thân Thẩm gia, một người đến từ Cố gia, đều là dòng họ có quyền thế nhất trong triều hiện nay. Vốn khả năng Hoàng tử được chọn lớn hơn một chút, nhưng lại xảy ra chuyện của Lương Nhung Trang, ai thắng ai thua, thực chưa biết.
Phượng Tây Trác ghé vào trên mái hiên, nghe bọn hắn nói bí mật chốn cung đình, chỉ cảm thấy nhàm chán lại không thú vị, đang tính toán làm thế nào bắt giữ hai hai người trong phòng, ép hỏi thi thể chết ở trong rừng, chợt nghe thấy bên ngoài truyền đến tiếng bước chân hỗn độn.
Một tên tiểu tốt vọt vào trong, kinh hoảng nói: “Bẩm báo Vương gia, bên ngoài có một nhóm lưu dân tấn công vào được.”
/84
|