Vô Linh là một nhân vật thần bí, cũng giống như tất cả mọi người đều cảm thấy tôi là một nhân vật thần bí vậy. Nhân vật thần bí luôn hiểu rõ nhất nội tâm mình. Câu chuyện của hắn đã chấm dứt từ mấy năm trước, chấm dứt đến nỗi hoàn toàn không còn một chút dây dưa vết tích gì. Hắn nhận tiền và giết bang chủ của một phái nhỏ lúc bấy giờ, sau đó đem theo người đàn bà của bang chủ kia đi, để lại một thanh kiếm ở hiện trường. Thanh kiếm ấy chính là Linh, mà về sau tôi đã nhặt về. Người bỏ đi, nhưng kiếm lại càng giống sát thủ, bởi nó đã khiến không biết bao nhiêu nhân sĩ giang hồ tàn sát lẫn nhau.
Một đoạn sắt thép của một sát thủ để lại có quan trọng vậy không? Tôi cho rằng không. Có điều giang hồ là xã hội đen, mà xã hội đen là một quần thể đặc biệt, sẵn sàng đánh nhau chỉ vì một bát vằn thắn, huống chi lại là một thanh kiếm có bề dày lịch sử. Bất kỳ lúc nào, kiếm cũng chỉ là cái cớ, việc ai đó có thể giết được bao nhiêu người để đoạt được thanh kiếm mới là thật.
Vả lại, Vô Linh không chỉ là một tên sát thủ. Hai mươi năm hắn hành tẩu giang hồ là hai mươi năm đầy truyền kỳ. Trong hai mươi năm, cuộc thế yên ổn, Trung nguyên không có quân phản loạn, Tây Vực không có giặc Hung Nô, tất cả các phần tử ưa gây sự đều không bị phân tâm bởi chính trị, một lòng một dạ luyện tập các loại võ công, ngẩng đầu ngóng ngày loạn thế, đối tượng mọi người đề phòng nhiều nhất chính là các loài động vật hoang dã bất thình lình tấn công từ trên núi xuống như hổ, gấu, và cả sát thủ Vô Linh nữa. Tương truyền Vô Linh ra tay rất nhanh, nhanh đến nỗi bạn còn chưa kịp thấy hắn động thủ thì đối phương đã ngã nhào rồi, về sau lời đồn đại ngày càng được thổi phồng hơn nữa, người giang hồ đều lo nơm nớp, ngày càng có nhiều người ngã ngất khi trông thấy Vô Linh, mặc dù hắn còn chưa ra tay. Bởi mọi người đều tin lời đồn thổi là thật, cho nên thoạt trông thấy Vô Linh, họ đã chết khiếp; Vô Linh cũng không cần thiết phải chứng tỏ tốc độ tuyệt đỉnh của mình, chỉ cần bước tới đâm thêm hai nhát là được.
Sát thủ liệu có phải thấy ai cũng giết không? Vả lại, có công lực mạnh mẽ như thế sao phải đi làm sát thủ, làm bang chủ chẳng hơn ư? Có điều nguyện vọng lớn nhất của Vô Linh là mong cho thiên hạ yên bình, yên bình thật tốt biết bao, một mình mình với một mình mình lúc nào mà chẳng yên bình, cứ có một đám người là y rằng náo loạn. Vô Linh chỉ muốn làm một hiệp khách, nhưng hiệp khách hành tẩu trong giang hồ cần phải có kinh phí, không thể ăn trộm được, nếu ăn trộm thì là tặc khách, tuy nói rằng có thể trộm tiền của bọn tham quan ô lại, sau đó vờ là cướp của nhà giàu chia cho người nghèo, phần lớn thì mình giữ lại, còn phần nhỏ chia cho quần chúng nhân dân, nhưng tiền của bọn tham quan đương thời đều bỏ cả vào tiền trang, mà tiền trang đa phần được triều đình ủng hộ, ra vào lấy tiền đều có mật mã, nói sai ba lần lập tức bị bắt ngay, cho nên rất khó. Nhưng đột nhiên có một lần nọ, có người nhờ Vô Linh giết người, khéo nỗi kẻ cần giết lại chính là một viên quan bản địa, mà đã là quan tức là kẻ xấu, giết xong thì có một trăm lạng. Sau lần thành công đó, trong giới đều biết là có một người như thế, một người tiêu diêu tự tại, không sợ giết người rồi bị kẻ khác tiệu diệt bang phái, giá cả cũng phải chăng, không giết vua, còn các quan nhất phẩm khác, thì nhất loạt thu một trăm lạng. Dần dần về sau, còn giết cả những kẻ không làm quan, song kẻ không làm quan là người tốt hay kẻ xấu thì cũng còn khó nói, chỉ xem trả giá có cao không mà thôi, đối với dân thường, tương truyền kẻ nào có phẩm hạnh không tốt, giết một tên thì thu một nghìn lạng, kẻ không rõ tốt xấu thế nào, giết một tên thu hai nghìn lạng. Giết dân thường không giống như giết quan, bởi giết dân thường, lòng sẽ thấy áy náy. Song thời thái bình thịnh thế thì về cơ bản là toàn quan tham, thời loạn thế may ra có quan thanh liêm chăng?
Thanh kiếm của Vô Linh chắc chắn là một thanh kiếm truyền kỳ, bởi ai cũng bảo thanh kiếm này rất xịn, vả lại Vô Linh giàu như thế, kiếm của người giàu lẽ nào lại không xịn? Nguồn gốc của thanh kiếm là thế này: có người nhờ Vô Linh đi giết một vị lão nhân đã làm ám khí suốt sáu mươi năm trong giang hồ, nhưng chưa đợi Vô Linh kịp động thủ, vị lão nhân đã nói: “Ta biết có kẻ muốn giết ta, ta sẽ cho ngươi một thanh kiếm, rồi coi như mọi việc êm đẹp. Kiếm này không phải loại kiếm thường, cả đời ta chỉ đúc có mỗi hai thanh như vậy thôi. Một thanh cho ngươi, không phải để tạ ơn ngươi tha mạng, mà thanh kiếm này tạm thời do ngươi sử dụng, sau cùng nó sẽ về tay người xứng đáng, ngươi giết ta cũng được, nhưng chỉ cần ta ngã xuống, ngươi sẽ không thể ra khỏi sân này đâu!”
Vô Linh đã nhận thanh kiếm đó. Thanh kiếm rất bén, duy không thể làm sây sát được vỏ kiếm. Hai mươi năm sau, Vô Linh phủi tay bỏ nghề, bởi một mình cũng khó có cách nào sống yên ổn lâu dài được, tự đối diện với bản thân mình thực ra đã là hại người rồi. Giết chóc hai chục năm trời, cuối cùng lại mai danh ẩn tích cùng một cô gái. Điều này rốt cuộc coi như chứng minh được rằng: hắn cũng là một kẻ giang hồ mà thôi.
Nhưng ai ngờ một thanh kiếm tuyệt thế lại bị bỏ trên nền nhà của người bị hại, không mảy may thương tiếc. Có thể thấy, thanh kiếm tuyệt thế rốt cuộc vẫn là thanh kiếm tuyệt thế, bởi riêng việc bị vứt xuống nền nhà cũng đã làm dấy lên một cuộc tranh luận lớn trong giang hồ. Giang hồ đồn rằng sau khi trông thấy cô gái, sát thủ bất chợt nhận ra mục tiêu của đời mình, còn cô gái thực chất đã bị tên tham quan chiếm đoạt, sau khi thấy sát thủ cô bất chợt nhận ra cuối cùng cũng gặp được một người đàn ông chân chính, đôi bên chớm gặp xiêu lòng, thành ra kiếm nhẹ như không, thế là Linh bị bỏ rơi. Giang hồ lại đồn đại, thực ra cô gái bấy giờ đã ngất lịm, để cõng cô gái cho nên Vô Linh nhất thời hồ đồ đã làm rớt thanh kiếm ở hiện trường. Nhưng giang hồ còn đồn rằng, việc này rất khó có thể xảy ra, bởi người ta dẫu hồ đồ thế nào đi nữa thì cũng không thể để rớt hung khí tại hiện trường được, huống hồ Linh lại được liệt vào hàng quốc bảo. Bạn đã bao giờ thấy ai cưỡi con Xích Huyết mã đi làm, sau đó quên rằng mình đã cưỡi một con ngựa tốt và rồi trở về trên một chiếc xe kéo chưa? Giang hồ còn đồn rằng, sát thủ cõng cô gái đang hôn mê, lại xách cả chiếc đầu lâu của kẻ bị hại, đâm ra không còn tay nào cầm kiếm nữa, đành bỏ kiếm đi. Nhưng giang hồ lại phản bác, điều đó cũng khó có thể xảy ra, bởi nếu bạn từng mang vác rất nhiều hành lý, bạn sẽ biết rằng, để đỡ phải chạy đi chạy lại nhiều lần, con người ta thực ra vẫn có thể cố mang vác dù rằng đồ đạc có nhiều hơn nữa, huống hồ là một sát thủ lõi đời.
Tóm lại tức là, Vô Linh đã ra đi từ đó. Chuỗi tháng năm truyền kỳ mà người sống trong giang hồ đều mơ tưởng tới cũng đã trôi qua. Còn chúng tôi thì sao, quãng thời gian đó, chỉ có việc tranh đoạt một thanh kiếm, rồi thì khiến cho Vô Linh ngày một huyền hồ hơn sau mỗi lời đồn thổi. Người ta đều nói rằng thanh kiếm này có thể ra hiệu lệnh cho thiên hạ, nhưng tôi thường nghĩ, nếu tôi nhặt được một tấm long bào do hoàng đế bỏ rơi, vậy phải chăng tôi cũng có thể ra lệnh cho thiên hạ? Từ đầu chí cuối ra hiệu lệnh cho thiên hạ đều là người. Mà thiên hạ đã có người ra hiệu lệnh, vì sao một số người trên thực tế chỉ có thể nhận lệnh nhưng không cam lòng, lại cứ muốn tạo ra một thiên hạ thứ hai cơ chứ? Phải chăng sẽ còn có một thiên hạ khác nữa? Lắm thiên hạ như vậy, thì thiên hạ bảo sao mà chẳng loạn.
Phương Nam lá rụng, phương Bắc tuyết rơi, cứ vậy hết năm này qua năm khác. Năm tôi mười tám tuổi, sư phụ nói: ngày kia con có thể đi được rồi.
Tôi đáp: Con đi đâu ạ?
Sư phụ nói: Con thích đi đâu thì đi. Nhưng điều này không do con quyết định.
Tôi đáp: Có rất nhiều việc con còn chưa hiểu.
Sư phụ nói: Cho nên con mới cần đi để hiểu.
Tôi nói: Vậy Hỷ Lạc thì sao ạ?
Sư phụ nói: Đi cùng con.
Tôi đáp: Thật ạ? Vậy sư huynh thì sao ạ?
Sư phụ nói: Đi đường nó.
Tôi hỏi sư phụ: Con có thể hỏi thầy một số câu hỏi không?
Sư phụ trả lời: Hỏi đi!
Tôi hỏi: Vì sao con từ nhỏ đã ở đây?
Sư phụ đáp: Để khiến Thiếu Lâm lớn mạnh.
Tôi hỏi tiếp: Vì sao bây giờ lại bắt con ra đi?
Sư phụ đáp: Để Thiếu Lâm khỏi vướng phải tai họa tày trời.
Tôi hỏi: Vì sao ạ?
Sư phụ nói: Con sẽ tự biết!
Tôi hỏi tiếp: Vậy sư huynh của con là ai?
Sư phụ đáp: Không nói được.
Tôi lại hỏi: Vì sao sư phụ không truyền cho con võ công chính quy?
Sư phụ đáp: Con đã không cần đến võ công nữa. Võ đều là các bài quyền cả thôi, bài quyền này khắc chế bài quyền kia, nếu con không biết đòn của đối phương, con có thể dùng bài quyền của chúng ta để phòng bị, dùng đòn này chống trả đòn kia, thực ra không cần để ý đến câu hỏi liệu có hàng phục được đối phương hay không, mà chỉ cần biết công lực của mình cao hay thấp, tất cả quyền thuật đều không phải không có chỗ sơ hở để có thể tấn công, hay nói cách khác, tất cả quyền thuật đều có rất nhiều lỗ hổng, cái chính là phải xem tốc độ và sức mạnh của mình. Con đã có tốc độ và sức mạnh thuộc hàng đệ nhất, trong khi con lại có thể thấy hết thảy động tác đối phương, thế thì ta còn dạy con đi quyền làm gì.
Tôi đáp: Dẫu có như vậy, nhưng con đi quyền trông vẫn hơi khó coi.
Sư phụ nói: Xưa nay chỉ có kẻ bại trận mới hơi khó coi thôi.
Tôi nói: Vậy nhỡ con gặp phải cao thủ thì làm thế nào?
Sư phụ trả lời: Thì chạy. Dù gì người ta cũng chẳng đánh được con.
Tôi hỏi: Vậy con phải đi đâu?
Sư phụ nói: Câu này con hỏi rồi.
Tôi hỏi tiếp: Vậy con phải đi để làm việc gì?
Sư phụ nói: Đến con còn chẳng biết con phải làm gì, thì ta làm sao biết được con phải làm gì?
Tôi đáp: Các thầy sắp đặt cho con suốt mười tám năm.
Sư phụ nói: Suốt mười tám năm nay, thực ra con chưa từng đón nhận sự sắp đặt của ai cả. Con chỉ cảm thấy các bài luyện tập ở đây có ích chứ không có hại, vả lại trong lòng con hiểu rõ rằng nếu ra khỏi ngôi chùa này, con cũng không sống được đến lúc trưởng thành.
Tôi nói: Con cũng từng nghĩ như vậy, nhưng mà tại sao cơ chứ?
Sư phụ đáp: Chính sự lớn mạnh hiện giờ của Thiếu Lâm đã bảo vệ con, bản thân con có thể không biết, song bên ngoài đều biết con. Sau khi con xuống núi, lúc bình thường không được dùng pháp danh vốn có nữa.
Tôi nói: Vậy con được gọi là gì?
Sư phụ nói: Con tự nghĩ đi! Bao năm nay, ta đã phải chịu đủ cái nỗi khổ đặt tên này rồi.
Tôi nói: Vậy con ngủ ở đâu?
Sư phụ nói: Thì có Hỷ Lạc đấy, con bé chắc chắn sẽ giúp được con!
Tôi nói: Vậy con có còn được coi là người của Thiếu Lâm không?
Sư phụ nói: Con nói xem?
Tôi nói: Vậy tại sao ngày kia con lại phải ra đi? Ngay bây giờ không được ạ?
Sư phụ trả lời: Không được. Ngày mai trong giang hồ sẽ có cuộc đại tỉ thí võ công. Sư phụ Huệ Cánh ở chùa Thông Quảng của chúng ta sẽ có một trận quyết chiến với Võ Đang.
Tôi hỏi: Ai sẽ thắng ạ?
Sư phụ nói: Thiếu Lâm ngứa mắt với Võ Đang, đúng không?
Tôi đáp: Dạ vâng!
Sư phụ nói: Vậy Võ Đang muốn người của Thiếu Lâm chết hết, đúng không?
Tôi đáp: Vâng!
Sư phụ nói: Trận tỉ thí đó sẽ chẳng có ai thắng cả. Ai thắng cũng như nhau thôi, thắng thế trận mà không thắng lòng người thì vẫn là thua. Ai thắng cũng là thua.
Tôi nói: Vậy tại sao còn phải tỉ thí ạ?
Sư phụ trả lời: Ngày ấy rốt cuộc cũng phải đến, Thiếu Lâm làm ăn lớn trong võ lâm, song bản chất không mưu lợi cho nên mọi người đều bất mãn, bôn tẩu giang hồ thì phải uống rượu, nhưng mọi người đều không thể không có tiền rượu được.
Tôi đáp: Vậy chúng ta không tham gia tỉ thí nữa là được.
Sư phụ nói: Trận tỉ thí đó ai cũng biết, kẻ thắng sẽ hùng bá thiên hạ. Bá tánh trong thiên hạ đều biết, Thiếu Lâm bị ép phải tham gia. Có trách thì chỉ có thể trách công tác tuyên truyền được làm qua tốt thôi.
Tôi nói: Vì sao chúng ta đều không thể thoát tục được? Sư phụ vẫn thường nói phải thoát tục, nhưng cả Thiếu Lâm đều chưa thể thoát tục kia mà.
Sư phụ nói: Chúng ta mà thoát tục được cả thì còn nói làm gì? Cứ nói thoát tục ra rả là vì chưa có ai thoát tục được cả. Thiếu Lâm suy cho cùng cũng chỉ là một bang phái, mà đã là bang phái thì khó tránh khỏi sự chém giết lẫn nhau.
Tôi hỏi: Vì sao mọi người đều phải tỉ thí ạ?
Sư phụ trả lời: Bời vì thiên hạ quá yên bình.
Tôi nói: Yên bình ổn định không tốt sao?
Sư phụ đáp: Chắc trong giang hồ có kẻ muốn làm anh hùng, ai bảo người xưa nói “loạn thế xuất anh hùng”? Mọi người đều nghĩ rằng thời loạn mới xuất hiện anh hùng, chứ nếu người xưa bảo “thịnh thế xuất anh hùng” thì thiên hạ chắc đã yên ổn dài dài.
Tôi nói: Vì sao lại tin vào câu nói của một người không cùng một thời đại?
Sư phụ nói: Bởi vì ngoài vua ra, thì tất cả đều là con dân trăm họ, con dân trăm họ thì đều là thằng ngốc.
Tôi hỏi: Vậy vua thì sao?
Sư phụ tôi đáp: Là thằng đại ngốc.
Tôi “ồ” lên một tiếng.
Ngày hôm sau. Hỷ Lạc ở trong chùa đợi tôi, tôi và sư phụ đi theo dõi trận quyết đấu. Trên Di Xuân các ở thành Trường An, Lưu Vân bị vây khốn. Huệ Cánh đã được cáng vào trong chùa để cứu chữa. Tôi hỏi sư phụ: Kết cục sẽ thế nào?
Sư phụ trả lời: Như nhau.
Tôi hỏi: Vậy sau khi con đi, con có thể thường xuyên về thăm chùa không?
Sư phụ trả lời: Không được.
Tôi hỏi: Vì sao ạ?
Sư phụ đáp: Nếu con tơ tưởng đến việc thường xuyên về thăm nhà, con sẽ không đi xa được.
Tôi nói: Vậy ngay cả sư phụ, con cũng không được gặp ạ?
Sư phụ nói: Chớ có nuối tiếc, ta chỉ vừa khéo là sư phụ con thôi. Con hãy nhớ, khi con cảm thấy chẳng có cách nào làm phai nhạt đi hình bóng của ai đó, con hãy nghĩ, người đó chỉ vừa khéo là người đó, thế là được. Ví dụ sau này Hỷ Lạc có chết, con hãy nghĩ, Hỷ Lạc chẳng qua vừa khéo là bạn gái của mình mà thôi, thế là được.
Tôi nói: Lẽ nào tất cả mọi việc đều diễn ra vừa khéo?
Sư phụ nói: Không, tất cả mọi việc trước khi xảy ra thì gọi là “chưa hay”, sau khi xảy ra và ngẫm nghĩ lại thì gọi là “vừa khéo”.
Tôi nói: Vậy những sự “vừa khéo” kia không phải được sắp sẵn đúng không ạ?
Sư phụ nói: Số phận đã sắp sẵn, mệnh không thay đổi, vừa khéo chỉ là một phó từ.
Tôi nói: Vậy sư phụ tặng con chút qua lưu niệm gì đi!
Bấy giờ, nước mắt tôi chỉ chực trào ra.
Sư phụ nói: Vậy tặng con Linh kiếm nhé!
Tôi chợt thu lại nước mắt: À! Linh…
Sư phụ nói: Kẻ làm thầy này và cả phương trượng cũng đều có ý này. Để kiếm ở Thiếu Lâm cũng chẳng có ích lợi gì, trong khi con lại có thể khống chế được Linh. Người khác thì không xong.
Tôi nói: Vì sao ạ?
Sư phụ đáp: Bởi con trông thấy nó là có thể hàng phục nó, con không trông thấy nó sẽ không thể hàng phục nó.
Tôi đáp: Linh quá quý báu, con không nhận được, dù chỉ là vỏ kiếm thôi con cũng thấy mãn nguyện rồi.
Sư phụ cười: Ha ha ha, kiếm và vỏ không thể tách rời. Song ta hy vọng con có thể nhớ câu con vừa nói suốt đời.
Sư phụ nói: Con không cần đi gặp Thích Không đâu, ta biết huynh đệ hai con tình sâu nghĩa nặng, song nó chỉ vừa khéo là sưu huynh của con mà thôi.
Sư phụ lại nói: Con có thể hỏi ra một câu hỏi cuối cùng!
Tôi nói: Vậy con sẽ hỏi đây, thực ra con vẫn luôn muốn hỏi, cả sư phụ cũng đã từng hứa là sẽ nói, năm con sắp lên mười sư phụ đã nói vậy, nhưng sư phụ quên rồi. Hồi con và sư huynh còn nhỏ, có lần lén xuống núi tắm, chúng con đã đi vào trong một cái hang, song cả hai đều lập tức hôn mê bất tỉnh. Bao năm nay, con vẫn luôn muốn quay lại hang động đó.
Sư phụ tôi cười lớn, nói, ta không nói cho con đâu, nói rồi e con lại thất vọng. Con đã khôn lớn, chớ có mê muội tin vào mấy câu chuyện truyền thuyết. Thiếu Lâm có vô số mật thất, muốn giấu đồ sao lại phải giấu ở cái hang mà ngay cả thằng Thích Không thô kệch cũng có thể tìm được.
Vượt hai trăm dặm trở về chùa. Hỷ Lạc đã đeo Linh đứng ở cổng đợi tôi. Thấy Hỷ Lạc đeo thanh kiếm mà thiên hạ tranh nhau cướp đoạt giữa ban ngày ban mặt tôi hết sức kinh ngạc, bèn nói: Muội không sợ à?
Hỷ Lạc nói: Không sợ, người tốt kẻ xấu đều đi xem tỉ thí võ công rồi.
Tôi nói: Muội đứng đây đợi huynh lâu chưa?
Hỷ Lạc nói: Lâu lắm rồi.
Tôi nói: Vậy chúng ta đi đâu đây?
Hỷ Lạc kéo tôi nói: Xuống núi chứ còn đi đâu.
Tôi nói: Đợi đã, huynh còn một mộng tưởng muốn thực hiện.
Hỷ Lạc nói: Gì nữa đây, mộng tưởng của huynh chẳng phải luôn muốn tới một nơi tươi đẹp, sống một cuộc sống an nhàn sao?
Tôi đáp: Không, còn một ước nguyện nữa, huynh muốn biết cái hang ở ngọn núi phía sau rốt cuộc thế nào. Hồi còn nhỏ huynh đã bị ngất ở đó, giờ chắc huynh sẽ không bị ngất nữa. Huynh muốn biết trong đó có gì.
Hỷ Lạc không vui, nói: Là cái hang huynh từng kể ấy à? Chúng ta đã đủ khổ sở rồi, mà ngộ nhỡ cả hai đều bị chết ngất thì phải làm sao?
Tôi đáp: Cả hai đều chết ngất thì tốt quá.
Tôi và Hỷ Lạc lén tới ven hang động ở dãy núi sau chùa. Tôi đứng cách cửa hang rất xa, phát hiện thấy xung quanh sơn động đã bị cỏ hoang phủ lấp. Bấy giờ sắc trời sẩm tối, các ngọn núi chung quanh có vẻ đáng sợ. Hỷ Lạc nép mình vào người tôi nói: “Huynh ơi, mình về đi!”
Tôi nói: Đã đến rồi, giờ mà quay về thì tiếc lắm. Nói đoạn liền đi tới gần sơn động, bắt đầu bạt cỏ dại.
Tôi thò đâu vào hang hít một hơi rồi vội nói: Hỷ Lạc! Muội ngửi thử xem! Mùi hương thật lạ, phía trong chắc chắn có bí mật gì đó của Thiếu Lâm. Huynh có luyện được thần công hay không không thành vấn đề, dù sao huynh cũng có thể chạy, nếu như có bí kíp gì thì muội hãy luyện theo nhé.
Hỷ Lạc nói: Đi thôi, muội cảm thấy chóng mặt quá.
Tôi nói: Hồi xưa cũng lạ thật, làm sao bảo ngất là ngất ngay được nhỉ? Huynh chẳng chóng mặt chút nào cả, chắc muội chóng mặt là do tác dụng tâm lý thôi.
Nói đoạn, tôi chẳng biết trăng sao gì nữa.
Khi tỉnh dậy tôi lại thấy khuôn mặt sư phụ. Ngẫm đi ngẫm lại thì điều này quả thật khiến người ta có cảm giác anh hùng lắm nỗi truân chuyên, bởi đã bảo là xuất phát từ lâu rồi, thế mà kết cuộc xuất mãi vẫn chẳng phát được. Tôi hỏi sư phụ: Sao con lại bị ngất? Hỷ Lạc đâu ạ?
Sư phụ nói: Tỉnh rồi. Không sao cả.
Sư phụ nói tiếp: Con hiếu kỳ quá. Tính hiếu kỳ có thể gây chết người đấy!
Tôi đáp: Nhưng sư phụ cũng biết, con từ nhỏ đã rất muốn biết bí mật của hang động đó mà.
Sư phụ nói: Ta không thể nói cho con được.
Tôi đáp: Sư phụ, xin sư phụ nói cho con đi, bằng không con sẽ vẫn khám phá đến cùng.
Sư phụ ngẫm nghĩ hồi lâu, rồi nói: Được rồi, ta đành phá vỡ một mộng tưởng của con vậy.
Nói đoạn, liền hỏi tôi có thể rời khỏi giường đi lại không, tôi trả lời không sao cả. Sư phụ nói, vậy hãy đi theo ta.
Dọc đường tôi bám theo sư phụ, chúng tôi đi đến trước Đại-nhà-xí của Thiếu Lâm. Sư phụ hỏi tôi: Đây là đâu?
Tôi đáp: Là Đại-nhà-xí!
Sư phụ hỏi: Có tổng cộng bao nhiêu hố?
Tôi đáp: Ít nhất cũng phải năm mươi hố!
Sư phụ hỏi: Nhà chùa tồn tại bao nhiêu năm rồi?
Tôi đáp: Không dưới ba trăm năm.
Sư phụ nói: Đúng. Con xem, phía dưới Đại nhà xí thông với cái sơn động kia. Cứt đái của năm mươi cái hố trong suốt ba trăm năm đều tích tụ trong đó, đương nhiên sẽ sản sinh ra thứ khí khiến người ta ngạt thở. Con ngửi một lần không đủ, lại còn ngửi đến lần thứ hai. Hừm, kẻ làm thầy này biết nói thế nào với con đây. Giờ con đã thấy hối hận khi biết được sự việc này chưa?
Tuy có cảm giác choáng váng như thể thần tượng của tôi vừa mới chết, nhưng tôi vẫn nói: Con không hối hận, bằng không đợi đến khi võ công cao cường, con sẽ vẫn vào hang tìm cho bằng được. Đa tạ sư phụ chỉ dạy. Sao sư phụ không sớm nói cho đệ tử biết?
Sư phụ nói: Hồi đó con còn nhỏ, có một cái hang để có thể suy ngẫm về nó là một việc rất tốt.
Tôi không nói gì.
Sư phụ nói: Con có thể xuất phát được rồi!
Tôi quay về chùa, dắt Hỷ Lạc đi theo. Cáo biệt sư phụ. Một lần nữa.
Khi tôi quay người, Hỷ Lạc hỏi tôi: Trong cái hang đó rốt cuộc có thứ gì vậy?
Tôi nói: Hỷ Lạc à! Đừng có để tính hiếu kỳ hại mình, huynh không thể nói cho muội biết được.
Một đoạn sắt thép của một sát thủ để lại có quan trọng vậy không? Tôi cho rằng không. Có điều giang hồ là xã hội đen, mà xã hội đen là một quần thể đặc biệt, sẵn sàng đánh nhau chỉ vì một bát vằn thắn, huống chi lại là một thanh kiếm có bề dày lịch sử. Bất kỳ lúc nào, kiếm cũng chỉ là cái cớ, việc ai đó có thể giết được bao nhiêu người để đoạt được thanh kiếm mới là thật.
Vả lại, Vô Linh không chỉ là một tên sát thủ. Hai mươi năm hắn hành tẩu giang hồ là hai mươi năm đầy truyền kỳ. Trong hai mươi năm, cuộc thế yên ổn, Trung nguyên không có quân phản loạn, Tây Vực không có giặc Hung Nô, tất cả các phần tử ưa gây sự đều không bị phân tâm bởi chính trị, một lòng một dạ luyện tập các loại võ công, ngẩng đầu ngóng ngày loạn thế, đối tượng mọi người đề phòng nhiều nhất chính là các loài động vật hoang dã bất thình lình tấn công từ trên núi xuống như hổ, gấu, và cả sát thủ Vô Linh nữa. Tương truyền Vô Linh ra tay rất nhanh, nhanh đến nỗi bạn còn chưa kịp thấy hắn động thủ thì đối phương đã ngã nhào rồi, về sau lời đồn đại ngày càng được thổi phồng hơn nữa, người giang hồ đều lo nơm nớp, ngày càng có nhiều người ngã ngất khi trông thấy Vô Linh, mặc dù hắn còn chưa ra tay. Bởi mọi người đều tin lời đồn thổi là thật, cho nên thoạt trông thấy Vô Linh, họ đã chết khiếp; Vô Linh cũng không cần thiết phải chứng tỏ tốc độ tuyệt đỉnh của mình, chỉ cần bước tới đâm thêm hai nhát là được.
Sát thủ liệu có phải thấy ai cũng giết không? Vả lại, có công lực mạnh mẽ như thế sao phải đi làm sát thủ, làm bang chủ chẳng hơn ư? Có điều nguyện vọng lớn nhất của Vô Linh là mong cho thiên hạ yên bình, yên bình thật tốt biết bao, một mình mình với một mình mình lúc nào mà chẳng yên bình, cứ có một đám người là y rằng náo loạn. Vô Linh chỉ muốn làm một hiệp khách, nhưng hiệp khách hành tẩu trong giang hồ cần phải có kinh phí, không thể ăn trộm được, nếu ăn trộm thì là tặc khách, tuy nói rằng có thể trộm tiền của bọn tham quan ô lại, sau đó vờ là cướp của nhà giàu chia cho người nghèo, phần lớn thì mình giữ lại, còn phần nhỏ chia cho quần chúng nhân dân, nhưng tiền của bọn tham quan đương thời đều bỏ cả vào tiền trang, mà tiền trang đa phần được triều đình ủng hộ, ra vào lấy tiền đều có mật mã, nói sai ba lần lập tức bị bắt ngay, cho nên rất khó. Nhưng đột nhiên có một lần nọ, có người nhờ Vô Linh giết người, khéo nỗi kẻ cần giết lại chính là một viên quan bản địa, mà đã là quan tức là kẻ xấu, giết xong thì có một trăm lạng. Sau lần thành công đó, trong giới đều biết là có một người như thế, một người tiêu diêu tự tại, không sợ giết người rồi bị kẻ khác tiệu diệt bang phái, giá cả cũng phải chăng, không giết vua, còn các quan nhất phẩm khác, thì nhất loạt thu một trăm lạng. Dần dần về sau, còn giết cả những kẻ không làm quan, song kẻ không làm quan là người tốt hay kẻ xấu thì cũng còn khó nói, chỉ xem trả giá có cao không mà thôi, đối với dân thường, tương truyền kẻ nào có phẩm hạnh không tốt, giết một tên thì thu một nghìn lạng, kẻ không rõ tốt xấu thế nào, giết một tên thu hai nghìn lạng. Giết dân thường không giống như giết quan, bởi giết dân thường, lòng sẽ thấy áy náy. Song thời thái bình thịnh thế thì về cơ bản là toàn quan tham, thời loạn thế may ra có quan thanh liêm chăng?
Thanh kiếm của Vô Linh chắc chắn là một thanh kiếm truyền kỳ, bởi ai cũng bảo thanh kiếm này rất xịn, vả lại Vô Linh giàu như thế, kiếm của người giàu lẽ nào lại không xịn? Nguồn gốc của thanh kiếm là thế này: có người nhờ Vô Linh đi giết một vị lão nhân đã làm ám khí suốt sáu mươi năm trong giang hồ, nhưng chưa đợi Vô Linh kịp động thủ, vị lão nhân đã nói: “Ta biết có kẻ muốn giết ta, ta sẽ cho ngươi một thanh kiếm, rồi coi như mọi việc êm đẹp. Kiếm này không phải loại kiếm thường, cả đời ta chỉ đúc có mỗi hai thanh như vậy thôi. Một thanh cho ngươi, không phải để tạ ơn ngươi tha mạng, mà thanh kiếm này tạm thời do ngươi sử dụng, sau cùng nó sẽ về tay người xứng đáng, ngươi giết ta cũng được, nhưng chỉ cần ta ngã xuống, ngươi sẽ không thể ra khỏi sân này đâu!”
Vô Linh đã nhận thanh kiếm đó. Thanh kiếm rất bén, duy không thể làm sây sát được vỏ kiếm. Hai mươi năm sau, Vô Linh phủi tay bỏ nghề, bởi một mình cũng khó có cách nào sống yên ổn lâu dài được, tự đối diện với bản thân mình thực ra đã là hại người rồi. Giết chóc hai chục năm trời, cuối cùng lại mai danh ẩn tích cùng một cô gái. Điều này rốt cuộc coi như chứng minh được rằng: hắn cũng là một kẻ giang hồ mà thôi.
Nhưng ai ngờ một thanh kiếm tuyệt thế lại bị bỏ trên nền nhà của người bị hại, không mảy may thương tiếc. Có thể thấy, thanh kiếm tuyệt thế rốt cuộc vẫn là thanh kiếm tuyệt thế, bởi riêng việc bị vứt xuống nền nhà cũng đã làm dấy lên một cuộc tranh luận lớn trong giang hồ. Giang hồ đồn rằng sau khi trông thấy cô gái, sát thủ bất chợt nhận ra mục tiêu của đời mình, còn cô gái thực chất đã bị tên tham quan chiếm đoạt, sau khi thấy sát thủ cô bất chợt nhận ra cuối cùng cũng gặp được một người đàn ông chân chính, đôi bên chớm gặp xiêu lòng, thành ra kiếm nhẹ như không, thế là Linh bị bỏ rơi. Giang hồ lại đồn đại, thực ra cô gái bấy giờ đã ngất lịm, để cõng cô gái cho nên Vô Linh nhất thời hồ đồ đã làm rớt thanh kiếm ở hiện trường. Nhưng giang hồ còn đồn rằng, việc này rất khó có thể xảy ra, bởi người ta dẫu hồ đồ thế nào đi nữa thì cũng không thể để rớt hung khí tại hiện trường được, huống hồ Linh lại được liệt vào hàng quốc bảo. Bạn đã bao giờ thấy ai cưỡi con Xích Huyết mã đi làm, sau đó quên rằng mình đã cưỡi một con ngựa tốt và rồi trở về trên một chiếc xe kéo chưa? Giang hồ còn đồn rằng, sát thủ cõng cô gái đang hôn mê, lại xách cả chiếc đầu lâu của kẻ bị hại, đâm ra không còn tay nào cầm kiếm nữa, đành bỏ kiếm đi. Nhưng giang hồ lại phản bác, điều đó cũng khó có thể xảy ra, bởi nếu bạn từng mang vác rất nhiều hành lý, bạn sẽ biết rằng, để đỡ phải chạy đi chạy lại nhiều lần, con người ta thực ra vẫn có thể cố mang vác dù rằng đồ đạc có nhiều hơn nữa, huống hồ là một sát thủ lõi đời.
Tóm lại tức là, Vô Linh đã ra đi từ đó. Chuỗi tháng năm truyền kỳ mà người sống trong giang hồ đều mơ tưởng tới cũng đã trôi qua. Còn chúng tôi thì sao, quãng thời gian đó, chỉ có việc tranh đoạt một thanh kiếm, rồi thì khiến cho Vô Linh ngày một huyền hồ hơn sau mỗi lời đồn thổi. Người ta đều nói rằng thanh kiếm này có thể ra hiệu lệnh cho thiên hạ, nhưng tôi thường nghĩ, nếu tôi nhặt được một tấm long bào do hoàng đế bỏ rơi, vậy phải chăng tôi cũng có thể ra lệnh cho thiên hạ? Từ đầu chí cuối ra hiệu lệnh cho thiên hạ đều là người. Mà thiên hạ đã có người ra hiệu lệnh, vì sao một số người trên thực tế chỉ có thể nhận lệnh nhưng không cam lòng, lại cứ muốn tạo ra một thiên hạ thứ hai cơ chứ? Phải chăng sẽ còn có một thiên hạ khác nữa? Lắm thiên hạ như vậy, thì thiên hạ bảo sao mà chẳng loạn.
Phương Nam lá rụng, phương Bắc tuyết rơi, cứ vậy hết năm này qua năm khác. Năm tôi mười tám tuổi, sư phụ nói: ngày kia con có thể đi được rồi.
Tôi đáp: Con đi đâu ạ?
Sư phụ nói: Con thích đi đâu thì đi. Nhưng điều này không do con quyết định.
Tôi đáp: Có rất nhiều việc con còn chưa hiểu.
Sư phụ nói: Cho nên con mới cần đi để hiểu.
Tôi nói: Vậy Hỷ Lạc thì sao ạ?
Sư phụ nói: Đi cùng con.
Tôi đáp: Thật ạ? Vậy sư huynh thì sao ạ?
Sư phụ nói: Đi đường nó.
Tôi hỏi sư phụ: Con có thể hỏi thầy một số câu hỏi không?
Sư phụ trả lời: Hỏi đi!
Tôi hỏi: Vì sao con từ nhỏ đã ở đây?
Sư phụ đáp: Để khiến Thiếu Lâm lớn mạnh.
Tôi hỏi tiếp: Vì sao bây giờ lại bắt con ra đi?
Sư phụ đáp: Để Thiếu Lâm khỏi vướng phải tai họa tày trời.
Tôi hỏi: Vì sao ạ?
Sư phụ nói: Con sẽ tự biết!
Tôi hỏi tiếp: Vậy sư huynh của con là ai?
Sư phụ đáp: Không nói được.
Tôi lại hỏi: Vì sao sư phụ không truyền cho con võ công chính quy?
Sư phụ đáp: Con đã không cần đến võ công nữa. Võ đều là các bài quyền cả thôi, bài quyền này khắc chế bài quyền kia, nếu con không biết đòn của đối phương, con có thể dùng bài quyền của chúng ta để phòng bị, dùng đòn này chống trả đòn kia, thực ra không cần để ý đến câu hỏi liệu có hàng phục được đối phương hay không, mà chỉ cần biết công lực của mình cao hay thấp, tất cả quyền thuật đều không phải không có chỗ sơ hở để có thể tấn công, hay nói cách khác, tất cả quyền thuật đều có rất nhiều lỗ hổng, cái chính là phải xem tốc độ và sức mạnh của mình. Con đã có tốc độ và sức mạnh thuộc hàng đệ nhất, trong khi con lại có thể thấy hết thảy động tác đối phương, thế thì ta còn dạy con đi quyền làm gì.
Tôi đáp: Dẫu có như vậy, nhưng con đi quyền trông vẫn hơi khó coi.
Sư phụ nói: Xưa nay chỉ có kẻ bại trận mới hơi khó coi thôi.
Tôi nói: Vậy nhỡ con gặp phải cao thủ thì làm thế nào?
Sư phụ trả lời: Thì chạy. Dù gì người ta cũng chẳng đánh được con.
Tôi hỏi: Vậy con phải đi đâu?
Sư phụ nói: Câu này con hỏi rồi.
Tôi hỏi tiếp: Vậy con phải đi để làm việc gì?
Sư phụ nói: Đến con còn chẳng biết con phải làm gì, thì ta làm sao biết được con phải làm gì?
Tôi đáp: Các thầy sắp đặt cho con suốt mười tám năm.
Sư phụ nói: Suốt mười tám năm nay, thực ra con chưa từng đón nhận sự sắp đặt của ai cả. Con chỉ cảm thấy các bài luyện tập ở đây có ích chứ không có hại, vả lại trong lòng con hiểu rõ rằng nếu ra khỏi ngôi chùa này, con cũng không sống được đến lúc trưởng thành.
Tôi nói: Con cũng từng nghĩ như vậy, nhưng mà tại sao cơ chứ?
Sư phụ đáp: Chính sự lớn mạnh hiện giờ của Thiếu Lâm đã bảo vệ con, bản thân con có thể không biết, song bên ngoài đều biết con. Sau khi con xuống núi, lúc bình thường không được dùng pháp danh vốn có nữa.
Tôi nói: Vậy con được gọi là gì?
Sư phụ nói: Con tự nghĩ đi! Bao năm nay, ta đã phải chịu đủ cái nỗi khổ đặt tên này rồi.
Tôi nói: Vậy con ngủ ở đâu?
Sư phụ nói: Thì có Hỷ Lạc đấy, con bé chắc chắn sẽ giúp được con!
Tôi nói: Vậy con có còn được coi là người của Thiếu Lâm không?
Sư phụ nói: Con nói xem?
Tôi nói: Vậy tại sao ngày kia con lại phải ra đi? Ngay bây giờ không được ạ?
Sư phụ trả lời: Không được. Ngày mai trong giang hồ sẽ có cuộc đại tỉ thí võ công. Sư phụ Huệ Cánh ở chùa Thông Quảng của chúng ta sẽ có một trận quyết chiến với Võ Đang.
Tôi hỏi: Ai sẽ thắng ạ?
Sư phụ nói: Thiếu Lâm ngứa mắt với Võ Đang, đúng không?
Tôi đáp: Dạ vâng!
Sư phụ nói: Vậy Võ Đang muốn người của Thiếu Lâm chết hết, đúng không?
Tôi đáp: Vâng!
Sư phụ nói: Trận tỉ thí đó sẽ chẳng có ai thắng cả. Ai thắng cũng như nhau thôi, thắng thế trận mà không thắng lòng người thì vẫn là thua. Ai thắng cũng là thua.
Tôi nói: Vậy tại sao còn phải tỉ thí ạ?
Sư phụ trả lời: Ngày ấy rốt cuộc cũng phải đến, Thiếu Lâm làm ăn lớn trong võ lâm, song bản chất không mưu lợi cho nên mọi người đều bất mãn, bôn tẩu giang hồ thì phải uống rượu, nhưng mọi người đều không thể không có tiền rượu được.
Tôi đáp: Vậy chúng ta không tham gia tỉ thí nữa là được.
Sư phụ nói: Trận tỉ thí đó ai cũng biết, kẻ thắng sẽ hùng bá thiên hạ. Bá tánh trong thiên hạ đều biết, Thiếu Lâm bị ép phải tham gia. Có trách thì chỉ có thể trách công tác tuyên truyền được làm qua tốt thôi.
Tôi nói: Vì sao chúng ta đều không thể thoát tục được? Sư phụ vẫn thường nói phải thoát tục, nhưng cả Thiếu Lâm đều chưa thể thoát tục kia mà.
Sư phụ nói: Chúng ta mà thoát tục được cả thì còn nói làm gì? Cứ nói thoát tục ra rả là vì chưa có ai thoát tục được cả. Thiếu Lâm suy cho cùng cũng chỉ là một bang phái, mà đã là bang phái thì khó tránh khỏi sự chém giết lẫn nhau.
Tôi hỏi: Vì sao mọi người đều phải tỉ thí ạ?
Sư phụ trả lời: Bời vì thiên hạ quá yên bình.
Tôi nói: Yên bình ổn định không tốt sao?
Sư phụ đáp: Chắc trong giang hồ có kẻ muốn làm anh hùng, ai bảo người xưa nói “loạn thế xuất anh hùng”? Mọi người đều nghĩ rằng thời loạn mới xuất hiện anh hùng, chứ nếu người xưa bảo “thịnh thế xuất anh hùng” thì thiên hạ chắc đã yên ổn dài dài.
Tôi nói: Vì sao lại tin vào câu nói của một người không cùng một thời đại?
Sư phụ nói: Bởi vì ngoài vua ra, thì tất cả đều là con dân trăm họ, con dân trăm họ thì đều là thằng ngốc.
Tôi hỏi: Vậy vua thì sao?
Sư phụ tôi đáp: Là thằng đại ngốc.
Tôi “ồ” lên một tiếng.
Ngày hôm sau. Hỷ Lạc ở trong chùa đợi tôi, tôi và sư phụ đi theo dõi trận quyết đấu. Trên Di Xuân các ở thành Trường An, Lưu Vân bị vây khốn. Huệ Cánh đã được cáng vào trong chùa để cứu chữa. Tôi hỏi sư phụ: Kết cục sẽ thế nào?
Sư phụ trả lời: Như nhau.
Tôi hỏi: Vậy sau khi con đi, con có thể thường xuyên về thăm chùa không?
Sư phụ trả lời: Không được.
Tôi hỏi: Vì sao ạ?
Sư phụ đáp: Nếu con tơ tưởng đến việc thường xuyên về thăm nhà, con sẽ không đi xa được.
Tôi nói: Vậy ngay cả sư phụ, con cũng không được gặp ạ?
Sư phụ nói: Chớ có nuối tiếc, ta chỉ vừa khéo là sư phụ con thôi. Con hãy nhớ, khi con cảm thấy chẳng có cách nào làm phai nhạt đi hình bóng của ai đó, con hãy nghĩ, người đó chỉ vừa khéo là người đó, thế là được. Ví dụ sau này Hỷ Lạc có chết, con hãy nghĩ, Hỷ Lạc chẳng qua vừa khéo là bạn gái của mình mà thôi, thế là được.
Tôi nói: Lẽ nào tất cả mọi việc đều diễn ra vừa khéo?
Sư phụ nói: Không, tất cả mọi việc trước khi xảy ra thì gọi là “chưa hay”, sau khi xảy ra và ngẫm nghĩ lại thì gọi là “vừa khéo”.
Tôi nói: Vậy những sự “vừa khéo” kia không phải được sắp sẵn đúng không ạ?
Sư phụ nói: Số phận đã sắp sẵn, mệnh không thay đổi, vừa khéo chỉ là một phó từ.
Tôi nói: Vậy sư phụ tặng con chút qua lưu niệm gì đi!
Bấy giờ, nước mắt tôi chỉ chực trào ra.
Sư phụ nói: Vậy tặng con Linh kiếm nhé!
Tôi chợt thu lại nước mắt: À! Linh…
Sư phụ nói: Kẻ làm thầy này và cả phương trượng cũng đều có ý này. Để kiếm ở Thiếu Lâm cũng chẳng có ích lợi gì, trong khi con lại có thể khống chế được Linh. Người khác thì không xong.
Tôi nói: Vì sao ạ?
Sư phụ đáp: Bởi con trông thấy nó là có thể hàng phục nó, con không trông thấy nó sẽ không thể hàng phục nó.
Tôi đáp: Linh quá quý báu, con không nhận được, dù chỉ là vỏ kiếm thôi con cũng thấy mãn nguyện rồi.
Sư phụ cười: Ha ha ha, kiếm và vỏ không thể tách rời. Song ta hy vọng con có thể nhớ câu con vừa nói suốt đời.
Sư phụ nói: Con không cần đi gặp Thích Không đâu, ta biết huynh đệ hai con tình sâu nghĩa nặng, song nó chỉ vừa khéo là sưu huynh của con mà thôi.
Sư phụ lại nói: Con có thể hỏi ra một câu hỏi cuối cùng!
Tôi nói: Vậy con sẽ hỏi đây, thực ra con vẫn luôn muốn hỏi, cả sư phụ cũng đã từng hứa là sẽ nói, năm con sắp lên mười sư phụ đã nói vậy, nhưng sư phụ quên rồi. Hồi con và sư huynh còn nhỏ, có lần lén xuống núi tắm, chúng con đã đi vào trong một cái hang, song cả hai đều lập tức hôn mê bất tỉnh. Bao năm nay, con vẫn luôn muốn quay lại hang động đó.
Sư phụ tôi cười lớn, nói, ta không nói cho con đâu, nói rồi e con lại thất vọng. Con đã khôn lớn, chớ có mê muội tin vào mấy câu chuyện truyền thuyết. Thiếu Lâm có vô số mật thất, muốn giấu đồ sao lại phải giấu ở cái hang mà ngay cả thằng Thích Không thô kệch cũng có thể tìm được.
Vượt hai trăm dặm trở về chùa. Hỷ Lạc đã đeo Linh đứng ở cổng đợi tôi. Thấy Hỷ Lạc đeo thanh kiếm mà thiên hạ tranh nhau cướp đoạt giữa ban ngày ban mặt tôi hết sức kinh ngạc, bèn nói: Muội không sợ à?
Hỷ Lạc nói: Không sợ, người tốt kẻ xấu đều đi xem tỉ thí võ công rồi.
Tôi nói: Muội đứng đây đợi huynh lâu chưa?
Hỷ Lạc nói: Lâu lắm rồi.
Tôi nói: Vậy chúng ta đi đâu đây?
Hỷ Lạc kéo tôi nói: Xuống núi chứ còn đi đâu.
Tôi nói: Đợi đã, huynh còn một mộng tưởng muốn thực hiện.
Hỷ Lạc nói: Gì nữa đây, mộng tưởng của huynh chẳng phải luôn muốn tới một nơi tươi đẹp, sống một cuộc sống an nhàn sao?
Tôi đáp: Không, còn một ước nguyện nữa, huynh muốn biết cái hang ở ngọn núi phía sau rốt cuộc thế nào. Hồi còn nhỏ huynh đã bị ngất ở đó, giờ chắc huynh sẽ không bị ngất nữa. Huynh muốn biết trong đó có gì.
Hỷ Lạc không vui, nói: Là cái hang huynh từng kể ấy à? Chúng ta đã đủ khổ sở rồi, mà ngộ nhỡ cả hai đều bị chết ngất thì phải làm sao?
Tôi đáp: Cả hai đều chết ngất thì tốt quá.
Tôi và Hỷ Lạc lén tới ven hang động ở dãy núi sau chùa. Tôi đứng cách cửa hang rất xa, phát hiện thấy xung quanh sơn động đã bị cỏ hoang phủ lấp. Bấy giờ sắc trời sẩm tối, các ngọn núi chung quanh có vẻ đáng sợ. Hỷ Lạc nép mình vào người tôi nói: “Huynh ơi, mình về đi!”
Tôi nói: Đã đến rồi, giờ mà quay về thì tiếc lắm. Nói đoạn liền đi tới gần sơn động, bắt đầu bạt cỏ dại.
Tôi thò đâu vào hang hít một hơi rồi vội nói: Hỷ Lạc! Muội ngửi thử xem! Mùi hương thật lạ, phía trong chắc chắn có bí mật gì đó của Thiếu Lâm. Huynh có luyện được thần công hay không không thành vấn đề, dù sao huynh cũng có thể chạy, nếu như có bí kíp gì thì muội hãy luyện theo nhé.
Hỷ Lạc nói: Đi thôi, muội cảm thấy chóng mặt quá.
Tôi nói: Hồi xưa cũng lạ thật, làm sao bảo ngất là ngất ngay được nhỉ? Huynh chẳng chóng mặt chút nào cả, chắc muội chóng mặt là do tác dụng tâm lý thôi.
Nói đoạn, tôi chẳng biết trăng sao gì nữa.
Khi tỉnh dậy tôi lại thấy khuôn mặt sư phụ. Ngẫm đi ngẫm lại thì điều này quả thật khiến người ta có cảm giác anh hùng lắm nỗi truân chuyên, bởi đã bảo là xuất phát từ lâu rồi, thế mà kết cuộc xuất mãi vẫn chẳng phát được. Tôi hỏi sư phụ: Sao con lại bị ngất? Hỷ Lạc đâu ạ?
Sư phụ nói: Tỉnh rồi. Không sao cả.
Sư phụ nói tiếp: Con hiếu kỳ quá. Tính hiếu kỳ có thể gây chết người đấy!
Tôi đáp: Nhưng sư phụ cũng biết, con từ nhỏ đã rất muốn biết bí mật của hang động đó mà.
Sư phụ nói: Ta không thể nói cho con được.
Tôi đáp: Sư phụ, xin sư phụ nói cho con đi, bằng không con sẽ vẫn khám phá đến cùng.
Sư phụ ngẫm nghĩ hồi lâu, rồi nói: Được rồi, ta đành phá vỡ một mộng tưởng của con vậy.
Nói đoạn, liền hỏi tôi có thể rời khỏi giường đi lại không, tôi trả lời không sao cả. Sư phụ nói, vậy hãy đi theo ta.
Dọc đường tôi bám theo sư phụ, chúng tôi đi đến trước Đại-nhà-xí của Thiếu Lâm. Sư phụ hỏi tôi: Đây là đâu?
Tôi đáp: Là Đại-nhà-xí!
Sư phụ hỏi: Có tổng cộng bao nhiêu hố?
Tôi đáp: Ít nhất cũng phải năm mươi hố!
Sư phụ hỏi: Nhà chùa tồn tại bao nhiêu năm rồi?
Tôi đáp: Không dưới ba trăm năm.
Sư phụ nói: Đúng. Con xem, phía dưới Đại nhà xí thông với cái sơn động kia. Cứt đái của năm mươi cái hố trong suốt ba trăm năm đều tích tụ trong đó, đương nhiên sẽ sản sinh ra thứ khí khiến người ta ngạt thở. Con ngửi một lần không đủ, lại còn ngửi đến lần thứ hai. Hừm, kẻ làm thầy này biết nói thế nào với con đây. Giờ con đã thấy hối hận khi biết được sự việc này chưa?
Tuy có cảm giác choáng váng như thể thần tượng của tôi vừa mới chết, nhưng tôi vẫn nói: Con không hối hận, bằng không đợi đến khi võ công cao cường, con sẽ vẫn vào hang tìm cho bằng được. Đa tạ sư phụ chỉ dạy. Sao sư phụ không sớm nói cho đệ tử biết?
Sư phụ nói: Hồi đó con còn nhỏ, có một cái hang để có thể suy ngẫm về nó là một việc rất tốt.
Tôi không nói gì.
Sư phụ nói: Con có thể xuất phát được rồi!
Tôi quay về chùa, dắt Hỷ Lạc đi theo. Cáo biệt sư phụ. Một lần nữa.
Khi tôi quay người, Hỷ Lạc hỏi tôi: Trong cái hang đó rốt cuộc có thứ gì vậy?
Tôi nói: Hỷ Lạc à! Đừng có để tính hiếu kỳ hại mình, huynh không thể nói cho muội biết được.
/8
|