Hồi Thứ 3
Giấc mộng - Điệp Triệt - Diệp Phá
Tôi tên là Điệp Triệt, sinh ra trong bộ tộc Vu Lạc. Mẫu hậu nói khi tôi sinh ra vừa đúng lúc sao Trọc Việt lên đỉnh cao nhất, trong ánh sáng xanh trong của nó trải đầy trời đêm mênh mông, cuối cùng rơi vào trong mắt tôi, trở thành linh hồn trong trắng của tôi.
Từ nhỏ, tôi đã là đứa trẻ có linh lực cao cường, tóc dài hơn tất cả các anh chị, họ rất yêu quý tôi, luôn bế tôi đặt lên vai họ và luôn trìu mến gọi tên tôi.
Người mà tôi thích nhất là Trì Mặc, anh cũng là đứa bé trai ít tuổi nhất trong bộ tộc, nhưng có một mái tóc mềm óng như tơ. Chúng tôi cùng nhau lớn lên.
Cũng giống như tôi, anh có linh lực rất cao cường, dạy cho tôi mọi thứ ảo thuật, dạy tôi cách khống chế biến hóa ảo giác thành dây đàn ánh sáng, ánh mắt dịu dàng và nụ cười luôn trên môi.
Khi chúng tôi còn là trẻ con, anh luôn dắt tôi vào sâu trong rừng tuyết, ngắm những con chim to lớn bay qua bay lại dưới tán lá rừng, tiếng kêu thê thảm của chúng như vạch những vết thương trong suốt trên bầu trời xanh. Anh thường nhìn chúng và nói với tôi, Điệp Triệt, muội có muốn bay lên trời như lũ chim không? Quả thực tôi rất muốn biết, trên những đám mây kia là hoa anh đào nở rộ hay đầy những vong linh?
Mỗi lần Trì Mặc nói với tôi như vậy, tôi luôn nhìn thấy những bóng rợp của cây rừng loang lổ dưới ánh mặt trời như đang rơi vào trong mắt trắng long lanh của tiểu đệ. Rất nhiều lần tôi lầm tưởng mắt của anh màu đen, một mu đen huyền diệu khác thường thuần túy như của một loại mực, bao dung và trùm lên tất cả. Tôi luôn cảm thấy nỗi sợ hãi sâu xa, nhưng mỗi lần như vậy Trì Mặc lại cười với tôi, nụ cười đẹp và trong sáng làm sao! Giống hệt như ánh sáng mặt trời tan ra từng mảnh biến thành những bông hoa lóng lánh, nở rộ trên khuôn mặt của anh vậy.
Tôi luôn tin rằng trên người anh của tôi luôn tỏa ra mùi thơm của hương hoa, cũng như tin rằng trên quần áo của anh luôn luôn có linh hồn của hoa.
Hương thơm thoang thoảng nhưng có thể truyền mãi muôn đời.
Trì Mặc hơn tôi mười tuổi, khi tôi một trăm hai mươi tuổi thì anh đã một trăm ba mươi tuổi rồi. Một buổi sáng, sau khi ngủ dậy tôi định đi tìm anh để cùng tôi đi chơi thì nhìn thấy anh đang đứng giữa tuyết, ra dáng là một người đã trưởng thành. Trong lúc anh quay đầu lại, tôi nghe thấy tiếng những bông anh đào đang bừng nở.
Trì Mặc đứng trước mặt tôi, người cao to và mạnh mẽ, mái tóc dài thướt tha như quấn lấy tấm thân cao lớn. Trì Mặc khôi ngô tuấn tú hơn cả phụ hoàng và tất cả các anh lớn của tôi, đôi lông mày như hai lưỡi mác mọc chếch lên tới tận chân tóc hai bên thái dương, đôi mắt sáng như vì sao buổi sớm rất rực rỡ, bộ mặt với những đường nét đậm như được gió rét khắc họa. Anh quay về phía tôi, cười để lộ hàm răng trắng tinh, ôi, nụ cười mới rạng rỡ làm sao!
Phía sau lưng, hoa anh đào bừng nở.
Trì Mặc bước tới trước mặt tôi, khom người, ghé sát mặt tôi rồi nói, Điệp Triệt, anh chào muội.
Mười năm sau, tôi đã là người trưởng thành, đứng trước mặt Trì Mặc, cười với anh, giống hệt nụ cười của anh với tôi ngày nào. Trì Mặc nheo mắt lại nhìn tôi và nói, Điệp Triệt, muội chính là cô gái đẹp nhất mà anh nhìn thấy, còn đẹp hơn mẫu hậu của anh nhiều!
Mẫu hậu của Trì Mặc là một ái thiếp của Phụ hoàng, bà đã mất từ lâu, nhưng không rõ lý do gì mà cái chết đó bị giấu kín chỉ có hai người biết được, đó là phụ hoàng và mẫu hậu của tôi.
Trì Mặc từ nhỏ đã mất mẹ nhưng rất hiền lành, ôn hòa và không hề tranh giành với ai, khi trưởng thành rồi vẫn như vậy, có khi chỉ nhìn thấy một bông hoa đang nở mà miệng cũng nở một nụ cười rất mãn nguyện rồi. Mỗi buổi chiều, Trì Mặc thường ngồi một mình trên bức tường thành cao nhất của cung điện gảy đàn, có vô số chim bay lượn trên đầu, lông chim rơi xuống phủ kín đôi tròng mắt làm cho con mắt biến thành màu xám, những đám mây trên trời biến thành những bông hoa đỏ thắm rực rỡ.
Trì Mặc cứ sống như vậy hàng trăm năm liền, mỗi lần tôi hỏi anh có thấy cô đơn không thì anh lại nhìn tôi và trả lời:
- Có Điệp Triệt ta mãi mãi không cảm thấy cô đơn.
Tôi và Trì Mặc là người có linh lực mạnh nhất trong gia tộc, tôi là niềm tự hào của phụ vương tôi, còn Trì Mặc lại không được như vậy, phụ hoàng không thích anh. Khi tôi còn nhỏ, mỗi lần thấy tôi chơi cùng anh, phụ vương đều bước tới rồi bế tôi đặt lên vai người và bỏ đi, để anh tôi lại một mình. Nhưng Trì Mặc không bao giờ tỏ ra khó chịu, luôn đứng nhìn theo tôi, và mỗi lần tôi quay đầu lại, luôn nhìn thấy nụ cười rạng rỡ trên khuôn mặt anh bừng lên như bông hoa anh đào, anh đứng yên nhìn tôi đang đi xa, xa dần.
Tôi đã từng hỏi phụ hoàng vì sao không thích anh, nhưng lần hỏi đó cũng là lần duy nhất, bởi lúc ấy khuôn mặt phụ hoàng đang rất vui bỗng sầm xuống lạnh như băng. Sau đó, phụ hoàng vuốt tóc tôi rồi nói:
- Hỡi con gái của ta, một ngày nào đó khi cha đã già, con sẽ trở thành vua của bộ tộc này, con sẽ đứng giữa đại điện gảy đàn, tiếng đàn của con sẽ bao trùm cả Vương Quốc Ảo Tuyết, con là niềm kiêu hãnh của phụ vương.
Tôi ngước nhìn, luôn thấy khuôn mặt trang nghiêm như thiên thần của phụ hoàng. Người vuốt mái tóc dài của tôi rồi cười, nụ cười đầy bí ẩn.
Tôi chưa bao giờ trách Người, nhưng mỗi lần nhìn anh, lòng tôi lại thấy buồn. Bởi tôi rất tôn sùng phụ hoàng, Người chơi đàn vĩ đại nhất trong lịch sử của bộ tộc tôi. Trì Mặc cũng tôn sùng Người, mỗi lần nhắc tới Người, hai mắt anh lại sáng lên tỏ ra vô cùng tôn kính. Nhưng phụ hoàng lại không thích anh và tôi luôn cảm thấy buồn thay cho anh.
Phụ vương tôi là người gảy đàn cho Quốc vương Ảo Tuyết và cũng là người đàn ông tinh thông âm nhạc nhất trong lịch sử của bộ tộc tôi, trước kia rất nhiều vua của bộ tộc là phụ nữ, âm nhạc của họ vừa dịu dàng lại rất tài hoa, còn tiếng đàn của phụ vương tôi lại gay gắt như ánh mặt trời, như tiếng gào thét của bão tuyết vậy. Tôi không được nghe lần đầu tiên Người biểu diễn khi trở thành nhạc công của nhà vua, mà chỉ nghe người trong bộ tộc nói lại rằng, vào hôm đó, trên bầu trời của đế quốc Ảo Tuyết còn ngân vang mãi cái hồn của bản nhạc mà phụ vương tôi chơi, tất cả chim chóc từ bốn phương đều bay
tít lên tầng cao, tiếng kêu kinh thiên động địa của chúng không dứt trên bầu trời vương quốc.
Tôi là niềm tự hào của phụ vương tôi, người luôn mang tôi đi theo trong tất cả các buổi tế lễ trong thành Nhẫn Tuyết, người bế bổng tôi lên cao và nói với mọi người rằng tôi là con gái của người, một nhạc công giỏi nhất của gia tộc chúng tôi. Trong đại điện bỗng có tiếng gió thổi, tóc và áo dài của tôi tung bay trong gió. Tôi nhìn thấy những khuôn mặt của những người xung quanh, họmỉm cười với tôi, nhưng tôi chỉ nghĩ tới nụ cười của Trì Mặc, muốn được biết những cánh hoa bé nhỏ đang bay kia liệu có rơi trên đôi lông mày của anh không?
Mỗi khi tôi rời cung điện của bộ tộc để vào thành Nhẫn Tuyết, anh luôn đứng ở cổng thành đưa tiễn tôi, luôn cúi xuống nói với tôi, Điệp Triệt, ta chờ muội trở về.
Mỗi khi rời cung điện, tôi luôn quay đầu lại nhìn anh của tôi, nhìn tà áo bay bay trong gió, nhìn nụ cười và bóng dáng mờ dần trong ánh sao của anh.
Những bông tuyết nhỏ cứ rơi rơi trên bức tường thành màu đen mà lòng tôi ấm áp.
Còn mỗi khi tôi trở về lại luôn nhìn thấy anh đang ngồi ở nơi cao nhất của tường thành chờ đợi tôi, cây đàn cổ đặt trên hai đầu gối, ngón tay thon dài đang lướt trên dây đàn phát ra những tiếng du dương trầm bổng, những con chim như mê mẩn vẫn bay lượn trên đầu, lông chim rơi xuống, nhìn thấy anh ngồi bình lặng, dáng vẻ rất hiên ngang đó, tôi bất giác trào nước mắt.
Sau khi tôi và Trì Mặc lớn lên rồi rời xa khu rừng tuyết, chúng tôi không quay lại nơi đó nữa, Trì Mặc cũng không dẫn tôi đi vào nơi rừng sâu ngắm nhìn những con chim lớn bay vút qua dưới bóng cây và kêu lên những tiếng kêu thảm thiết. Thỉnh thoảng chúng tôi mới cùng nhau ngồi nơi cao nhất của bức tường cung điện, nhìn về phương xa nơi có bờ của biển băng nọ.
Anh của tôi luôn bị những cơn gió mạnh từ bờ biển thổi về làm nhức mắt. Tôi hỏi vì sao anh không nhắm mắt lại thì anh quay đầu lại nói với tôi rằng, vì sao những con chim kia có thể tự do bay lượn trên bầu trời mà mình lại yếu đuối trước những cơn gió như vậy?
Tôi nhìn anh mà không biết trả lời ra sao, nhưng rồi anh lại cười và nói, thôi không cần phải nghĩ gì cả vì có nhiều việc vốn chẳng hề có câu trả lời.
Nói đoạn, anh lại nhìn tôi mỉm cười, tiếng cười như tỏa hương thơm.
Trì Mặc luôn hỏi tôi: Điệp Triệt, muội có biết bờ đối diện của biển băng là gì không?
Tôi nói cho anh biết, phụ vương đã từng nói uội hay, bên đó là nơi ở của người bộ tộc Lửa, một bộ tộc rất ác hiểm.
Trì Mặc luôn nhìn về nơi ấy mà chẳng nói gì, lưng luôn quay về phía tôi nên tôi không nhìn được mắt anh, nhưng tôi có thể tưởng tượng ra rằng, trong con mắt đó luôn chứa đầy hình ảnh những con chim đang bay trên không trung.
Gió biển lúc nào cũng rất to, lần nào anh cũng hỏi tôi có lạnh không? Rồi sau đó cởi áo ngoài khoác lên người tôi và ôm chặt tôi vào lòng, tôi ngửi thấy mùi của hương hoa đang nở. Tôi biết linh hồn của những đóa hoa đó đang bắt đầu nhảy múa quanh tôi.
Trì Mặc trở thành pháp sư nam duy nhất đồng lứa với tôi trong bộ tộc, các người anh khác của tôi chẳng ai có tư cách này, vì bộ tộc Vu Lạc chúng tôi từ lịch sử xa xưa rất ít đàn ông trở thành pháp sư. Cho nên, khi tôi nhìn thấy anh của tôi mặc bộ quần áo ảo thuật màu đen có viền vàng rất đẹp đó thì cảm thấy vô cùng hạnh phúc, một thứ hạnh phúc vừa chậm rãi lại vừa mơ hồ nhưng rất thân thiết.
Nhưng tôi còn nghe thấy tiếng thở dài của phụ vương sau lưng tôi, khi tôi quay đầu lại, nhìn thấy một giọt nước mắt ứa ra nơi khóe mắt của Người, đó là lần đầu tiên tôi thấy phụ vương khóc.
Ngay từ nhỏ, anh của tôi đã không thích nói chuyện với người khác, chỉ đứng một mình ở một nơi, rất bình thản và yên lặng.
Một câu mà anh nói nhiều nhất với tôi là, Điệp Triệt, muội có muốn cùng ta rời bỏ đây không?
Lúc đó, tôi không hiểu ý của câu nói đó nên đã hỏi lại rằng: Rời bỏ ư? Rời bỏ cung điện của bộ tộc này ư?
Trì Mặc nhìn tôi, ánh mắt buồn như mặt trời vừa lặn, anh bước tới nắm chặt lấy vai tôi, cúi xuống nhìn và nói, Điệp Triệt, anh rất muốn đưa muội đi, có thể sang bờ bên kia của biển băng, chúng ta có thể rời bỏ nơi này.
Tôi nhìn vào khuôn mặt của anh, sự đau khổ hằn sâu trên khuôn mặt.
Tôi nói, thực ra huynh đưa muội đi đâu, muội cũng có thể cùng đi tới đó.
Sau đó, anh gục đầu vào vai tôi khóc không thành tiếng, nhưng những giọt nước mắt rơi xuống cổ tôi, tôi chưa bao giờ biết được nước mắt lại nóng đến vậy, sức nóng như đốt cháy cổ tôi.
Trì Mặc nói nhỏ, hỡi Điệp Triệt, ta chẳng muốn muội đi đâu cả, muội hãy sống vui vẻ trong cung điện của bộ tộc mình, trở thành vua mới của bộ tộc, chớ quên rằng, muội là con gái thân yêu nhất của phụ vương.
Con chim tuyết trên trời hốt hoảng bay vụt qua cất tiếng kêu đau đớn.
Khi tôi tròn một trăm chín mươi tuổi, phụ vương chính thức tuyên bố tôi trở thành vị vua kế nhiệm. Hôm đó, trong cung điện thênh thang, tiếng phụ vương sang sảng, giọng nói của Người còn âm vang mãi. Tôi đứng giữa đại điện, một ngọn gió không biết từ đâu thổi tới làm tóc tôi xõa ra che kín khuôn mặt. Tôi muốn nhìn thấy nụ cười của anh, nhưng chẳng biết làm thế nào, cuối cùng cũng nhìn thấy lờ mờ nụ cười ấy qua những sợi tóc, tôi còn nhìn thấy hàm răng trắng và đôi lông mày qua một màn hơi nước mờ ảo trong tiếng cười của mọi người. Nhưng rồi tôi đột nhiên im lặng bởi ngửi thấy mùi hương của
những đóa hoa đang nở quanh đâu đó Trong phút cuối cùng của buổi lễ, tôi nhìn thấy Quốc vương của Vương Quốc Ảo Tuyết đứng mãi trên cao, ông ta tới tham dự lễ kế nhiệm. Cũng như phụ vương của tôi, ông rất uy vũ, nhưng có được một vẻ rạng rỡ rất thần thánh mà không ai xâm phạm tới được. Ông đi tới trước mặt tôi và nói, Điệp Triệt, ta biết nhà ngươi là người con gái yêu quý nhất của phụ vương ngươi, ta sẽ tặng nhà ngươi một cây đàn, ngươi hãy đưa tay ra.
Khi tôi đưa tay ra bỗng thấy mười đầu ngón tay đau đau, nhưng rồi cảm giác đó nhanh chóng biến mất. Tôi ngẩng đầu lên nhìn nhà vua, ông mỉm cười với tôi và nói, Điệp Triệt, ngươi hãy thử linh lực của nhà người đi.
Khi tôi đưa tay ra, bỗng mười đầu ngón tay tôi nhói đau, nhưng rồi chỉ trong giây lát không còn đau nữa. Tôi ngước lên nhìn Đại vương. Người mỉm cười với tôi và nói, Điệp Triệt, hãy thử đi nào.
Khi tôi niệm thần chú, đột nhiên thấy mười sợi dây đàn màu xanh lấp lánh phóng ra từ giữa hai tay tôi rồi nhanh như chớp trùm lấy cả cung điện, khi tôi dùng ngón tay nhẹ nhàng gẩy nó, thấy phát ra một bản nhạc mà tôi chưa từng được nghe thấy bao giờ.
Nhà vua ngồi tít trên ngai cao cười nói với tôi, từ nay trở đi, cây đàn này gọi là Ảo Điệp cầm.
Sau đó, tôi cùng mọi người trong gia tộc quỳ xuống, tôi nghe thấy tiếng tung hô và chúc tụng của mọi người đối với nhà vua.
Tôi thấy mặt nhà vua biến sắc, trong mắt ông bão tuyết đột nhiên nổi lên, ông quay lại nhìn tôi và phụ vương tôi, tôi nhìn thấy vẻ mặt hốt hoảng của phụ vương, trên mặt nhà vua tràn ngập một thứ sát khí màu xanh, một áp lực nặng nề trùm lên người tôi. Chính lúc đó, tôi mới biết rằng, ảo thuật của nhà vua cao siêu biết bao.
Tôi nghe tiếng phụ vương thảng thốt, mặt cúi xuống Thưa Đại vương, thần biết phải làm thế nào rồi .
Tôi nhìn thấy nhà vua rời cung điện, gió thổi tung tà áo bào pháp thuật của ông. Khi ông sắp ra khỏi điện, anh tôi đột nhiên ngã xoài ra đất, hai mắt nhắm nghiền, tóc tung ra, miệng trào ra một dòng máu trắng long lanh.
Phụ vương bước tới ôm lấy anh rồi ra khỏi cung. Khi đến cửa ông còn quay đầu lại nói với tôi, Điệp Triệt, từ nay trở đi, con sẽ là vua của bộ tộc này, gánh vác vận mệnh của cả gia tộc.
Phụ vương đã đi, mọi người cũng đi, chỉ còn mỗi mình tôi đang giữa cung điện mà chẳng biết đi về đâu, tôi ngước nhìn vòm cung điện trên à nước mắt rơi như mưa.
Từ sau hôm ấy trở đi, tôi không bao giờ gặp lại anh tôi nữa.
Cũng bắt đầu từ hôm đó, tôi luôn có những giấc mơ dài bất tận. Trong mộng chỉ toàn là nụ cười trong sáng của anh tôi, người mặc bộ quần áo trắng như tuyết đang đứng trên thành cao, khí thế hiên ngang, anh đang đợi tôi trở về, vô số chim muông cứ chụm lại rồi tản ra bay vòng trên trời như những đám mây luôn thay đổi, lông chim bay bay, hoa anh đào nở rộ, tà áo của anh tôi tung bay trong gió. Anh của tôi đang gảy đàn, ngón tay như múa, tiếng đàn vừa mạnh mẽ lại trong sáng. Tôi luôn thấy anh nói với tôi, nói về nỗi tuyệt vọng và tình yêu tan nát của mình. Cảnh cuối cùng trong giấc mơ là tất cả những đóa hoa anh đào đều biến thành màu đỏ, đỏ như ánh dương tan trong nước trở
thành ảo ảnh. Sau đó, mọi cái đầu dần biến mất trong màn sương, nụ cười của anh tôi vẫn thoắt ẩn thoắt hiện.
Tôi luôn hỏi phụ vương anh của tôi đi đâu, có việc gì không, sao lâu lắm rồi mà tôi không gặp.
Phụ vương tôi chỉ lặng im, đưa tay chỉ bóng con chim tuyết đang vụt qua giữa bầu trời, ông nói với tôi rằng, con hãy xem, con chim kia thật tự do biết bao.
Đột nhiên, tôi nghĩ lại chuyện ngày trước, tôi và anh tôi dẫn nhau đi chơi trong rừng nhìn thấy những con chim bay trong đó, nhìn thấy những bóng râm của cây cối rơi vào mắt anh rồi biến thành một màu đen kỳ lạ. nhưng việc đó đã qua đi hàng trăm năm rồi.
Tiếng sấm vang rền nơi chân trời, giống như rất nhiều tiếng trống khua vang cả đế quốc Ảo Tuyết.
Trì Mặc chết năm hai trăm tuổi, cũng là năm tôi một trăm chín mươi tuổi và trở thành vua của bộ tộc Vu Lạc.
Chính là tôi đã giết chết anh của tôi - anh Trì Mặc, người tôi yêu quý nhất, người mà trên cơ thể luôn tỏa ra mùi hương hoa thơm ngát, người luôn nói: Có Điệp Triệt, anh mãi mãi không thấy lẻ loi .
Một tháng sau khi anh mất tích, tôi mơ thấy Trì Mặc bị giam ở dưới Đàn tế tối tăm và ẩm ướt, anh bị đóng đinh trên một bức tường, đầu gục xuống, mái tóc rủ che lấp hết khuôn mặt tuấn tú, tôi không nhìn thấy khuôn mặt của anh, nhưng tôi biết chắc là anh đang rất đau khổ.
Tôi đi tìm phụ vương, phụ vương cuối cùng cũng kể lại chuyện của Trì Mặc, ông nói chậm rãi và rất mông lung, giống như một giấc mộng vừa huyền ảo lại vừa rõ ràng, tới khi tỉnh dậy, nước mắt tôi đầm đìa khuôn mặt.
Phụ vương nói cho tôi biết, thực ra mẫu hậu của Trì Mặc là người ông yêu quý nhất, mẹ của bà có đôi con ngươi đỏ như lửa và mái tóc dài lay động như ngọn lửa vì bà là người bộ tộc Lửa. Khi phụ vương lấy bà, bà vẫn còn dung mạo của người con gái bộ tộc Băng. Nhưng khi bà hai trăm tuổi, mắt và tóc bà bỗng biến thành đỏ như lửa, giống hệt loại lửa phá thiên.
Mẫu hậu của Trì Mặc sinh cho phụ vương một mình Trì Mặc. Khi sinh, bà đã dùng kiếm băng tự rạch bụng mình, sau đó có rất nhiều đốm lửa trong bụng rơi ra, Trì Mặc xuất hiện trong những đốm lửa đó, thần sắc rất hiền từ, ánh mắt rất sinh động. Sau đó, ngọn lửa dần dần lụi đi, mắt và tóc của Trì Mặc biến thành màu trắng giống hệt như phụ vương, nhưng phụ vương biết rằng, khi tròn hai trăm tuổi, nó sẽ trở lại như những ngọn lửa.
Hôm đó, khi nhà vua đi tới cạnh Trì Mặc đã phát hiện ra anh chính là hậu duệ của bộ tộc Lửa, cho nên người phải làm anh mất tích bằng một cực hình rất tàn khốc, đó là dùng năm thanh kiếm băng đóng chặt anh lên bức tường trong mười bốn ngày để áu chảy hết mà chết.
Khi tôi nghe được tin này, nước mắt chảy giàn giụa, tôi nhớ tới cơ thể mỏng manh của anh.
Cuối cùng tôi cũng gặp được anh của tôi trong một gian phòng tối tăm dưới Đàn tế, dòng máu đỏ từ những vết đâm qua ngực cứ chảy mãi, chảy mãi không ngừng loang ra mặt đất giá lạnh, tôi nhìn thấy mái tóc và con người anh đã đỏ như lửa.
Tôi bước đến chỗ chân anh, anh cúi xuống nhìn tôi, tôi nhìn thấy khuôn mặt anh bị mái tóc che lấp không để lộ chút đau khổ hay oán hận gì, vẫn rất bình tĩnh và đầy suy tư.
Anh hỏi tôi: Điệp Triệt, muội đã biết hết rồi ư? .
Tôi nhìn lên và gật đầu.
Anh nói tôi đừng buồn, chưa bao giờ ta hận phụ vương cả, ta càng thích muội hơn. Chỉ cần muội đến được đây là ta đã hạnh phúc lắm rồi, hãy thay ta chăm sóc phụ vương, chăm sóc thần dân của bộ tộc này.
Khi tôi quay đi thì thanh kiếm thứ ba cũng vừa đâm thủng ngực anh, tôi như nghe thấy tiếng máu thịt đứt ra, dòng máu chảy trào vách đá.
Tôi thấy anh chau mày mà lòng đau như cắt.
Trì Mặc nhìn tôi, nói: Điệp Triệt, muội chớ đau lòng, hãy còn hai thanh kiếm băng nữa, sau đó ta sẽ có thế ngủ một giấc dài rồi .
Tôi hỏi sao nhà vua lại có thể tàn nhẫn như vậy, ta quyết không cho phép.
Sau đó tôi bước đi, làm phép gọi thanh kiếm băng về rồi đâm một nhát xuyên qua cổ anh.
Anh cúi đầu xuống, mái tóc trùm lên mặt tôi, nước mắt của anh chảy vào mắt tôi, tôi như nghe tiếng thì thào của anh: hỡi Điệp Triệt, sao muội khờ dại thế, sao lại phải làm vậy vì ta?
Tôi nói rằng, muội không thể cứ đứng nhìn cảnh này được.
Dòng máu tươi của Trì Mặc chảy theo thanh kiếm băng xuống nhuộm đỏ cả tấm áo dài ảo thuật của tôi.
Vì tôi giết chết Trì Mặc, người mà Đại vương yêu cầu phải dùng hình thật tàn khốc nên Người đã nổi giận, phụ vương nhìn tôi với ánh mắt đầy thương đau và hối tiếc. Tôi bước tới ôm lấy phụ vương, trong chốc lát, những vết nhăn già lão bỗng xuất hiện rất nhanh trên khuôn mặt của Người.
Người hỏi tôi định làm gì vậy, tôi đáp là mình không sẵn sàng để làm vua của bộ tộc Vu Lạc, tôi sẽ rời bỏ nơi đây đi tìm chốn ẩn cư, sống nốt quãng đời còn lại của mình.
Phụ vương không nói gì, tôi chỉ nghe thấy tiếng kêu của chim bay trên trời, tôi ngẩng đầu lên, nghĩ về những chiếc lông chim đang bay bay rơi xuống mắt tôi và anh Trì Mặc đẹp làm sao!
Khi tôi chuẩn bị rời cung điện thì gặp một cô gái ngay dưới chân thành, cô ta nói mình tên là Uyên Tế, nàng hỏi tôi có muốn đi xem xem tình cảm của tôi đối với Trì Mặc liệu có thể làm cảm động được bức tường than thở trong truyền thuyết hay không? Tôi quay lại nhìn cung điện của gia tộc tôi lần nữa, cảm thấy nó quá bé nhỏ như một vườn hoa thủy tinh mà thôi.
Uyên Tế nói, đúng nó là vườn hoa thủy tinh.
Tôi đột ngột hỏi, làm sao nàng biết được ý nghĩ của ta?
Uyên Tế không trả lời câu hỏi của tôi mà nói, bà là một nhạc công có linh lực cao siêu, vậy liệu bà có muốn đi xem bức tường than thở trong thần thoại của bộ tộc tôi không?
Tôi cúi đầu suy nghĩ và phát hiện ra rằng, trong thành Nhẫn Tuyết chẳng có gì đáng để tôi lưu luyến nữa, và thế là tôi gật đầu. Khoảng khắc đó, tôi nhìn thấy vô số những bông hoa nở trong không gian, đó là những linh hồn của các đóa hoa. Đây không phải là ảo giác, bởi chính mắt tôi nhìn thấy ngón tay của Uyên Tế co duỗi và những phép thuật mà cô ta dùng.
Khi tôi rời thành Nhẫn Tuyết, trong đầu tôi bỗng hiện lên vô vàn những bức tranh, tôi nhìn thấy anh Trì Mặc đứng giữa bãi tuyết mỉm cười với tôi, tôi nhìn thấy bóng những con chim rơi vào trong mắt anh lan tỏa ra thành một màu đen mênh mang, nhìn thấy ánh mắt lấp lánh như những vì sao của anh đang đứng ở cổng thành chờ đợi tôi trở về, màu sắc trên tà áo anh lan tỏa mãi, tôi nhìn thấy anh của tôi đang ngồi trên thành cao gẩy đàn chờ tôi quay về, tóc bị gió thổi bay tung về phía phương bắc, tấm áo dài ảo thuật của anh mãi mãi sạch sẽ bay phấp phới, tôi nhìn thấy anh với đôi lông mày lưỡi mác đang bị
đóng đinh trên tường, nước mắt chảy xuống làm ướt mặt tôi và tà áo dài màu lam của chàng, những bông hoa băng dính trên áo chàng nở rộ như những đóa hoa sen...
Tiếng sấm rền vang sau lưng tôi như tiếng đổ vỡ của tòa thành.
Tôi ngước lên, xung quanh ngập một mùi thơm của hoa đang nở, linh hồn của những đóa hoa.
Trì Mặc - người tôi yêu nhất cuối cùng cũng đã biến mất ngay trước mắt tôi.
Xin đại huynh hãy tha thứ uội, muội phải ra đi, phải rời khỏi tòa cung điện này, rời xa Vương Quốc Ảo nơi chôn vùi tuổi xuân của muội. Có thể ở nơi tận cùng của trời đất muội sẽ gặp lại linh hồn của huynh, lúc ấy, xin huynh hãy mỉm cười với muội, nụ cười như phá tan ánh triều dương, hãy để uội được cười, cho chảy hết nước mắt của mình, sau đó hãy để uội thấy huynh đang tự do, đang ca hát.
Vì Tinh Quỹ hôn mê mãi khôn g tỉnh nên chúng tôi không thể lên đường, bởi phía trước là lãnh địa của Bắc phương hộ pháp Tinh Trú, nếu không có Tinh Quỹ thì khó lường được mỗi bước đi của chúng tôi sẽ gặp trở ngại gì.
Cung thần Huyền Vũ ở nơi cao nhất của núi Tuyết, ngay cả khi đứng ở lãnh địa của Nam phương hộ pháp cũng có thể nhìn thấy, tòa cung điện màu trắng nguy nga trông như một thanh kiếm sắc nhọn chĩa thẳng lên trời xanh, thần bí mà cũng rất tráng lệ. Trong những tối Tinh Quỹ ngủ mê, chúng tôi cóthể nhìn thấy những vì sao trên nóc cung điện chọc trời đó luôn thay đổi vị trí theo một quĩ đạo rất kỳ lạ. Thỉnh thoảng, cả cung điện phát ra thứ ánh sáng trắng rực rỡ hắt lên trên bầu trời đen mông lung, hội tụ lại thành một vì sao
khổng lồ, giống như vết sẹo giữa trán của Tinh Cựu và Tinh Quỹ.
Tinh Quỹ tỉnh lại sau ba ngày hôn mê nhưng rồi lại ngất lịm đi, trong giây lát tỉnh lại đó, miệng Tinh Quỹ trào ra dòng máu trắng, nó nắm lấy tà áo của Hoàng Thác nói một cách đau khổ rằng: ... Hãy dẫn tôi... trở về cung thần...
Phá Thiên... . Sau đó lại ngất đi, không tỉnh lại nữa.
Sau khi chúng tôi mang Tinh Quỹ trở về cung thần Phá Thiên đổ nát. Tinh Quỹ bắt đầu tỉnh lại, ốm yếu như chẳng còn sức lực, Hoàng Thác luôn đặt nó trong vòng bảo vệ màu trắng, sau đó Tinh Quỹ khỏe gần lên.
Chúng tôi ở lại đó chừng nửa tháng, cuối cùng Tinh Quỹ đã đứng dậy được.
Tinh Quỹ nói với tôi, giữa các nhà chiêm tinh vốn có một ràng buộc rất đặc biệt, người nào mạnh hơn có thể dễ dàng áp đảo kẻ yếu hơn, thậm chí có thể dễ dàng khống chế và giết chết họ. Điều này được lưu truyền lại từ thời nguyên thủy xa xưa nhất, chẳng ai có thể thoát khỏi vòng kiềm tỏa đó được, vì vậy, nếu nhà chiêm tinh nào linh lực yếu thì quả là nỗi đau khổ nhất. Nói cách khác, nếu ai rơi vào vi phạm khống chế của nó, ví dụ như nếu Bắc phương hộ pháp Tinh Trú muốn thì Tinh Quỹ không thể triển khai được phép lực của mình, thậm chí ông ta còn có thể dễ dàng giết chết Tinh Quỹ ngay. Bản thân
Cung thần Tung Thiên là tối cao của núi Tuyết, do vậy phạm vi khống chế của Bắc phương hộ pháp rộng hơn bất kỳ người nào khác.
Tôi hỏi Tinh Quỹ lẽ nào sức mạnh của Tinh Trú thực sự mạnh đến như vậy ư? Quỹ quay đầu lại nói.
- Thưa Đại vương, đúng là rất mạnh. Ngay như bà già trong khu rừng Tuyết quả là người rất tốt, thì giấc mơ mà bà mang lại cho thần có độ chân thực mà ngay cả đại huynh của thần cũng không thể làm nổi. Nhưng cây gậy mà bà dùng là cây Lạc Tinh trượng, còn Tinh Trú lại dùng cây Tung Tinh trượng. Đại vương có thể nhìn thấy những vì sao trên cung thần của bà, nó luôn thay đổi vị trí, Tinh Trú còn có thể làm thay đổi đường đi của các ngôi sao, điều này thì những nhà chiêm tinh thông thường không sao làm được.
Tôi cúi đầu mà chẳng nói gì cả.
Hoàng Thác bế Tinh Quỹ như bế đứa con gái của mình, mỉm cười nói với nó, nói rằng: vậy thì khi tới lãnh địa của Bắc phương hộ pháp Quỹ phải luôn ở trong vòng bảo vệ của ta, không được ra ngoài, ta đảm bảo ngươi sẽ không bị Tinh Trú giết chết được. Nụ cười của Hoàng Thác trầm lặng mà kiên quyết. Tôichợt nhớ tới trước đây, phụ vương tôi khi bộ tộc Lửa tấn công thành Nhẫn Tuyết, ông cũng mong một thứ tình cảm như vậy, rất kiên định như một tảng băng cứng rắn nhất.
Nguyệt Thần nói, Hoàng Thác, người không hề biết chút ma thuật đen nào, nếu có ai tấn công thì làm sao? Hoàng Thác cười và nói chẳng sao cả.
Phiến Phong nói: không sao cả, tôi sẽ luôn đứng bên để bảo vệ Hoàng Thác, ngoài ra còn có Liêu Tiễn, tôi muốn trừ bỏ Bắc phương hộ pháp, chẳng có ai là đối thủ của tôi và Liêu Tiễn.
Ba ngày sau, đêm nào Tinh Quỹ cũng đứng trên đồi cao để chiêm tinh, tôi nhìn thấy Quỹ luôn giơ cây Lạc Tinh trượng lên trời, ánh sáng của các vì sao tụ lại thành một luồng sáng cực sáng chụp lấy Tinh Quỹ, xung quanh có gió mạnh thổi. Mái tóc và tà áo chiêm tinh của Tinh Quỹ luôn bay tung lên trời, tôi thầm cảm thấy đất dưới chân rung động mạnh.
Đây là lần đầu tiên tôi chứng kiến một nghi thức chiêm tinh trong thời gian dài và cường độ mạnh như vậy, chúng tôi đều đứng cả ở dưới chân đồi im lặng. Sau ba ngày, chiêm tinh của Tinh Quỹ kết thúc, cột ánh sáng chụm lại ở trên trời đột nhiên như những mảnh thủy tinh vỡ vụn ra rơi xuống chân Tinh Quỹ, tôi nhìn thấy bóng dáng vươn cao của Tinh Quỹ ở trên đỉnh núi bỗng đổ xuống phía sau, tà áo bay bay. Nhưng khi Tinh Quỹ chưa chạm tới đất thì Hoàng Thác đã bước tới ôm lấy Quỹ rồi nhanh chóng đưa vào vòng bảo vệ do chính mình tạo ra. Trong vầng sáng đó, tôi nhìn thấy dòng máu trắng không
ngừng tuôn chảy nơi miệng nàng, giống hệt cảnh tượng khi nàng hôn mê trong lãnh địa của Bắc phương hộ pháp.
Trong ba ngày liền, Tinh Quỹ đã tìm ra được con đường tiến vào cung thần Tung Thiên Huyền Vũ, bao gồm cả nơi nào phải dùng lại, nơi nào phải đi đêm. Linh lực của Tinh Quỹ hầu như gần cạn kiệt, Hoàng Thác phải làm phép thuật để phục hồi linh lực cho Quỹ, đặt Quỹ vào trong vòng bảo vệ rồi cùng lên đường. Bởi vì một khi đi vào lãnh địa của Bắc phương hộ pháp, Tinh Quỹ bắt buộc phải ở trong vòng bảo vệ đó, nếu không sẽ dễ dàng bị Tinh Trú giết chết.
Con đường mà Tinh Quỹ lựa chọn vừa phức tạp lại khúc khuỷu, phải đi qua rừng rậm, hồ ao, đầm lầy, rừng đá, nhưng Quỹ đoán rất chính xác, nên chúng tôi thường đi qua những nơi sát với những nhà chiêm tinh của Bắc phương hộ pháp chứ không thể đối mặt trực tiếp với họ được. Trên đường đi, Tinh Quỹ thường phải dùng phép lực của mình áp chế những nhà chiêm tinh của Tinh Trú để tránh phải đối đầu đánh nhau với họ trước khi gặp Tinh Trú.
Đi được mười ngày, chúng tôi lên tới đỉnh Tuyết sơn, cung thần Huyền Vũ sừng sững như chạm tới tận trời xanh, tường thành của nó cao tới vài ngàn trượng thẳng đứng. Tinh Quỹ nói cho chúng tôi biết cung thần này được bố trí theo hình sao sáu cánh, mỗi góc của vì sao có một tháp rất cao, trên đó có những vị trí rất có lợi cho chiêm tinh. Ở giữa vì sao sáu cánh chính là đại điện của Tinh Trú và cũng là trung tâm của đại điện đó, còn trung tâm của đại điện là ngai vàng của Tinh Vương, chiếc ngai này được làm từ đá Huyền Vũ ở đài tế sao trên núi thần Ảo Tuyết, nó đã tạo cho Tinh Trú một sức mạnh vô cùng vô
tận, hòa chung và bổ sung lẫn cùng với linh lực của Tinh Trú.
Chúng tôi đứng ở cửa vào cung Tung Thiên, Tinh Quỹ nói: Thưa Đại vương, bây giờ chúng ta phải đi vào trong, có lẽ Tinh Trú chưa biết chúng ta đã đến, nếu Nguyệt Thần bí mật đi ám sát chắc sẽ thành công.
Nguyệt Thần bước tới vầng sáng bảo vệ Tinh Quỹ và nói, Tinh Quỹ hãy yên tâm, không phải lo lắng gì, ta sẽ dùng thuật ám sát để trừ khử kẻ đã gây đau khổ cho nhà ngươi.
Sau đó, phía trên đầu chúng tôi vọng lại tiếng nói. Hỡi Nguyệt Thần, hãy tới gặp ta, nếu không ngươi sẽ giống như chị ngươi chết mà không biết; còn Ca Sách, ta tôn xưng nhà ngươi là vua, vì không muốn để nhà ngươi lạc đường, ta chỉ đường cho ngươi đến gặp ta, chỗ các người đang đứng chính là Đài tế sao Huyền Lôi, chỉ cần đi thẳng sẽ gặp cửa con đường thứ hai rồi rẽ trái sẽ gặp được ta. Ta đang chờ ngươi, hỡi Đại vương...
Sau đó xung quanh đột nhiên vang lên tiếng cười chói tai, dù cho bịt tai lại vẫn nghe thấy, tiếng cười lộng óc khó chịu vô cùng. Khi tôi quay đầu lại nhìn Tinh Quỹ mới biết vì sao Tinh Trú lại cười, bởi Tinh Quỹ đã ngất lịm đi trong vầng sáng bảo vệ, máu trắng chảy ra từ miệng nàng đã làm ướt hết chiếc áo chiêm tinh. Khóe miệng của Hoàng Thác cũng bắt đầu chảy máu, một chân quỳ dưới đất, hai tay giơ ra phía sau như con chim tuyết đang bay, đang cố hết sức để bảo vệ Tinh Quỹ, nhưng vầng sáng kia đang thu nhỏ dần, lông mày của Hoàng Thác cũng co rúm lại, người bắt đầu lắc lư.
Trận cười đột nhiên biến mất cũng nhanh như khi nó xuất hiện.
Tiếng nói đó lại vang lên, hỡi Ca Sách, hãy tới gặp ta, ta chính là Tinh Trú mà ngươi đang tìm đây và là Bắc phương hộ pháp, nhà chiêm tinh vĩ đại nhất trong núi thần Ảo Tuyết, ta đang ngồi ở ngai vua chờ ngươi...
Xem ra Tinh Trú đã biết trước mọi hành động của chúng tôi, chúng tôi tính xem sức mạnh của ông ta ra sao - Phiến Phong nhìn về Đài tế sao Huyền Lôi cao chọc trời mà nói. Gió từ bốn phương của cung thần Tung Thiên thổi tới, làm tóc và áo chúng tôi bay phấp phới như những lá cờ.
Nguyệt Thần nói, hành động của chúng ta đều nằm trong tầm khống chế của Tinh Trú, xem ra chỉ còn cách phải nghe bà ta chứ không có lựa chọn nào khác. Tinh Quỹ bỗng ngẩng đầu lên nói với tôi, hỡi nhà vua, thần thật không ngờ Tinh Trú có sức mạnh lớn như vậy, chúng ta không thể đối phó nổi, thần xin lỗi...
Liêu Tiễn bước tới quỳ xuống nói với Tinh Quỹ, chẳng ai trách nàng cả, nàng hãy ngủ đi, ta sẽ không làm phiền nàng nữa.
Khi Tinh Trú xuất hiện trước mặt chúng tôi, Tinh Quỹ và Hoàng Thác đã ngất xỉu ra đất, vầng sáng bảo vệ của Hoàng Thác đã vỡ vụn ra, Tinh Quỹ mất hết tri giác. Trên con đường từ Đài tế sao Huyền Lôi đến ngai vua của Tinh Trú, linh lực của Tinh Trú mỗi lúc một lớn, Tinh Quỹ bị ảnh hưởng càng nặng nề hơn, Hoàng Thác càng không bảo vệ được Tinh Quỹ, Tinh Quỹ nén đau, môi mím chặt bật cả máu tươi, còn Liêu Tiễn tay nắm chặt lòi cả xương trắng.
- Ca Sách, ngươi tới rồi.
Khi Tinh Trú nói với tôi, tôi thấy môi bà ta không động đậy, chỉ nghe thấy tiếng nói của bà ta cứ như trong giấc mơ không biết vọng tới từ nơi nào trong cung điện rộng mênh mông này. Tôi chỉ mong bà ta đừng điều khiển giấc mơ để khống chế họ, bởi tôi nhìn thấy vẻ hoang mang trên mặt của Phiến Phong và Liêu Tiễn. Còn Nguyệt Thần thì như chẳng bị ảnh hưởng gì cả, vì đối với nàng, thuật ám sát đó rất dễ dàng bị hóa giải. Nguyệt Thần rất tập trung và mặt đầy sát khí, tôi nhìn thấy ánh trăng trên tay nàng dần dần tụ lại thành hình một thanh kiếm băng.
Tiếng của Tinh Trú lại xuất hiện một lần nữa, bà ta nói, ta biết Nguyệt Thần muốn cho ta nhìn thấy ánh trăng trên tay ngươi và còn biết rằng vũ khí giết người thực sự không phải là thanh kiếm băng đó, bởi sau khi tiến công bằng thanh kiếm băng vào ta, lợi dụng khi ta chống đỡ thanh kiếm đó sẽ dùng độc tố của mật khổng tước và ảo thuật khiến gió tuyết bao vây ta, làm cho ta không thể động đậy được, bởi nếu động vào tuyết chất độc sẽ vào ngay cơ thể, còn nếu không động vào, thanh đao ánh trăng sẽ dài ra đâm thẳng vào người.
Nguyệt Thần, có đúng vậy không?
Tôi thấy Nguyệt Thần im lặng không nói gì, nhưng không che giấu nổi sự sợ hãi hiện ra trong ánh mắt.
Tinh Trú càng tỏ ra quỷ quyệt hơn, bay lượn như trong mơ.
Lần đầu tiên tôi thấy thất vọng. Từ khi bắt đầu đi vào núi thần, từ Phong Thiên, Khuynh Nhẫn đến Điệp Triệt đều không làm tôi thất vọng nhưng sự tinh thông của Tinh Trú thì rõ ràng làm những đòn tiến công của chúng tôi đều vô dụng cả. Tôi không biết phải làm sao mới đánh lại được bà ta.
Tôi nhìn Nguyệt Thần, nàng cũng nhìn tôi, tôi biết nàng muốn cùng ra tay, tôi gật đầu.
Nhưng tôi nhận ra, dù tôi và Nguyệt Thần cùng ra tay cũng không thể đánh bại được bà ta. Mỗi lần chuẩn bị tiến công, bà ta hầu như đều biết trước, từ vị trí, cách dùng phép thuật đến tốc độ tấn công bà ta đều đoán đúng không sai một ly nào.
Tôi và Nguyệt Thần cúi người xuống, tiếng cười của Tinh Trú vẫn lởn vởn quanh chúng tôi như bông hoa man đà la màu đen trong sương mù, tỏa ra mùi thơm làm say lòng người, rất nguy hiểm đến tính mạng. Bà ta nói:
- Ca Sách, ngươi không thể làm em trai ngươi sống lại, ngay cả cung thần Huyền Vũ ngươi cũng không qua nổi huống hồ là lãnh địa Tây phương ở phía sau ta đây! Hãy để các ngươi chết tại đây sẽ làm cho linh lực của cung thần Tung Thiên tăng tên.
Sau đó, tôi nhìn thấy một quả cầu ánh sáng màu sắc biến đổi khôn lường trong tay Tinh Trú, tôi biết đó là giấc mơ riêng của bộ tộc chiêm tinh, Tinh Cựu và Tinh Quỹ đã từng dùng nó. Tôi biết cả hai chúng tôi sẽ phải bước vào giấc mơ đó và không thể tỉnh lại được.
Nhưng tôi đã chẳng còn chút sức phản kháng nào nữa, linh lực của tôi như sương mù tan ra trong ánh mặt trời. Tôi nhìn Nguyệt Thần nàng ngã ra đất nhìn tôi, tôi nhìn thấy nét tuyệt vọng trong mắt nàng.
Khi tôi rơi vào giấc mơ thì đột nhiên một cơn gió mạnh từ phía sau ào tới, sau đó có vô vàn những thỏi băng sắc nhọn bay vút qua vai tôi, rồi nghe thấy tiếng những thỏi băng đâm vào da thịt.
Tôi nhìn lên thấy Tinh Trú đang há hốc miệng, ánh mắt ngạc nhiên đến không ngờ, máu tươi từ những vết do những thỏi băng đâm vào thủng ngực đang không ngửng chảy ra, nhỏ giọt lên ngai vua của bà ta.
Tôi quay đầu lại, thấy Phiến Phong đang đứng đằng sau, mắt nhắm, nước mắt tuôn chảy, còn Hoàng Thác ngồi trên mặt đất, trước mặt anh ta là Tinh Quỹ đang nằm trong vũng máu, tóc xổ tung, hai mắt mở to, nhìn lên bầu trời trên cung điện, mặt chẳng chút biểu hiện, trống rỗng và tê liệt.
Trên mặt Tinh Trú đột nhiên xuất hiện nụ cười nham hiểm, tiếng của bà ta vẫn lẩn quất đâu đó, bà ta nói rằng, tuy các người đi qua được cung thần Tung Thiên, nhưng sẽ chẳng bao giờ qua được vùng đất của Tây phương hộ pháp, bởi Tây phương hộ pháp là...
Bà ta nói chưa dứt lời thì mỗi thanh kiếm băng xuyên qua ngực bà ta đều đột nhiên mọc ra những chiếc ngạnh ngược sắc nhọn, và tôi nghe thấy tiếngda thịt bị xé nát. Thì ra, ảo thuật dùng đánh bại bà ta lại không đơn giản chút nào, không phải chỉ dùng thuật kiếm băng phá thiên mà là Huyền băng chú, sau lần tiến công thành công đầu tiên phải lập tức làm cho trên thanh kiếm đã đâm vào trước mọc thêm những thanh kiếm khác để tấn công lần hai, phép thuật này thường dùng để đối phó với người có sức mạnh hơn mình, bởi vì nó tốn rất nhiều linh lực, phải tập trung sức mạnh để tiêu diệt. Tôi không hề biết
một nhà chiêm tinh như Tinh Quỹ lại có được sự lợi hại ghê gớm đó của bộ tộc Băng.
Tôi rất muốn Tinh Trú nói hết ra, nhưng bà ta không thể nói gì được nữa, người đổ vật xuống đất, nét mặt bà vẫn rất gian xảo, tôi thoáng hiểu bà ta còn biết nhiều bí mật khác nữa nhưng chẳng có cách nào lấy được.
Tôi mai táng Tinh Quỹ ở sau cung thần Tung Thiên trên một ngọn đồi nở đầy hoa anh đào. Liêu Tiễn dùng bảo kiếm đào huyệt, tuy chẳng nói lời nào, nhưng những giọt nước mắt cứ rơi từng giọt từng giọt xuống nấm mồ của Tinh Quỹ. Sau khi huyệt đào xong, thanh bảo kiếm của Liêu Tiễn bị sứt mẻ nhiều chỗ do va phải đá, Liêu Tiễn bế Tinh Quỹ đặt xuống huyệt rồi vốc từng nắm đất phủ lên người nàng. Nhìn cảnh đó mà lòng tôi vô cùng hoang vắng, tôi đau đớn đến ngất đi, ánh nắng như những mũi kim nhỏ li ti đâm vào da thịt tôi nhức buốt.
Nguyệt Thần đứng dưới một cây anh đào, gió thổi tung mái tóc và tà áo dài, Hoàng Thác cùng im lặng đứng cạnh đó, Triều Nhai ngồi trước mộ Tinh Quỹ đàn bản nhạc chiêu hồn của bộ tộc Vu Lạc, tôi biết đó là khúc nhạc vĩ đại nhất của bộ tộc, một bản nhạc từ xưa tới nay chỉ dùng để truy điệu các bậc Đế vương, bởi người chơi bản nhạc này phải tốn rất nhiều sinh lực, mà những người nghe thấy sau khi chết linh hồn sẽ bất diệt.
Tối đó tôi nghe thấy tiếng nói rất đau thương nhưng hùng tráng của Liêu Tiễn vỡ vụn ra bay lên bầu trời của cung thần Tung Thiên, rất nhiều nhà chiêm tinh xuất hiện đang trên các lầu tháp của thành nhìn chúng tôi nhưng chẳng nói gì cả, tôi biết họ phần lớn trước đây đều thuộc gia tộc chiêm tinh, ẩn cư nhiều năm ở núi thần Ảo Tuyết. Họ đứng tít trên không trung, tà áo dài của họ bay lên trông giống những bông sen trắng tuyệt đẹp. Chẳng ai nói gì cả, chỉ có tiếng hát của Liêu Tiễn và tiếng đàn của Triều Nhai là vang xa mãi lên tận tầng mây cao.
Khi chuẩn bị đi ngủ, tôi chợt nhớ tới Tinh Cựu, không biết ở thành Nhẫn Tuyết ông ta có xem bói và biết tin về cái chết của em gái mình không hay vẫn bình thản lên đài tế sao cầu phúc cho Tinh Quỹ, hàng ngày nhìn về núi thần, nhớ tới nụ cười bình thản của Tinh Quỹ. Tôi cảm thấy rất buồn nhưng lại không nói ra, cứ thế đi vào giấc ngủ, chờ đợi một ngày mới sẽ tới.
Trong đêm tối mông lung tôi chẳng muốn dậy chút nào, tôi cũng không biết đêm qua mình có khóc không, chỉ nhớ trong mơ, bao nhiêu nỗi buồn trong lòng đều thổ lộ, còn trước mắt tôi lúc đó chỉ còn lại hình ảnh cuối cùng, Tinh Quỹ đang nằm trong vũng máu trên mặt đất.
Cuối cùng tôi cũng biết nguyên nhân cái chết của Tinh Quỹ và Tinh Trú.
Hóa ra là Tinh Trú không phải do Phiến Phong giết mà chính là người con gái yếu ớt Tinh Quỹ giết. Phiến Phong nói, khi vào tới giữa cung thần, Tinh Quỹ đã nói với ông ta, một lát nữa ông phải giả như mình không có sức chống lại Tinh Trú để giữ cho được linh lực, chờ tới khi nàng dùng pháp thuật gọi những thỏi băng trên trời thì hãy dùng luồng gió mạnh nhất tập trung những thỏi băng này đâm vào ngực Tinh Trú, bởi Tinh Trú cho rằng nàng đã bị ông khống chế, không thể nào có sức chống lại được nên sẽ không cần đề phòng nữa. Tinh Trú chỉ thuộc lòng hành động của nhà vua và Nguyệt Thần thôi, Phiến Phong, ông phải giúp tôi, vì đó là cách duy nhất để qua được Tung Thiên.
Phiến Phong nói với tôi rằng, bản thân ông lúc đó không biết cách duy nhất mà Tinh Quỹ nói tới chính là hy sinh bản thân nàng, bởi thực sự nàng bị Tinh Trú khống chế nên không thể chống lại được. Nàng đã phải dùng toàn bộ linh lực và pháp thuật tấn công mà bộ tộc nàng không mấy khi dùng tới, cách này sẽ làm cho linh lực tiêu hao gần như hết. Bản thân ông ta vì rất mừng là có thể đánh bại Tinh Trú nên quên mất là Tinh Quỹ đang rất yếu. Khi ông thấy những thanh kiếm băng lao vào và mọc ra những ngạnh nhọn trong ngục Tinh Trú, ông cảm thấy vô cùng vui mừng, quay lại cười với Tinh Quỹ thì Quỹ đã
ngã xuống trong vũng máu, mắt mở to nhìn lên trời chẳng nói được gì nữa. Ông đột nhiên thấy gió không còn tuân theo sự điều khiển của mình và đang tỏa ra bốn phương bay đi, ông đưa hai bàn tay không ra mà mắt nhòa lệ.
Tôi khép chặt tà áo bào, hoa tuyết xung quanh vẫn rơi trên đầu, kể từ sau cái chết của em trai, tôi chẳng dùng pháp thuật để tránh tuyết nữa, nhưng quả thật, chưa bao giờ tôi thấy hoa tuyết lạnh như lần này, tôi khép chặt tà áo hơn và cũng chẳng nói gì, cố chấp như một đứa trẻ.
Khi rời lãnh địa Bắc phương, Hoàng Thác đưa tôi tới một giấc mơ, ông ta nói Tinh Quỹ để lại bốn giấc mơ, thứ nhất, khi chúng tôi rời Bắc phương rồi sẽ mở, còn thứ hai là khi tiến vào Tây phương, thứ ba là khi chúng tôi không còn manh mối và mất phương hướng, không thể tiến lên được, và cuối cùng khi tôi gặp Tây phương hộ pháp thì giấc mơ sẽ được mở ra.
Giấc mơ thứ nhất đẹp ngoài sức tưởng tượng của tôi, giống hệt như những ngọn lửa lung linh thắp sáng trời xanh, ánh sáng biến đổi muôn màu.
Trong mơ, Tinh Quỹ đang tự do chạy nhảy, mặc dù cả đời nàng chưa thế bao giờ, nụ cười của nàng tràn ngập trên mặt đất phủ đầy hoa anh đào, Tinh Quỹ chạy, những cánh hoa anh đào cũng chầm chậm, chầm chậm bay lên theo, theo mãi...
Đại vương, xin tha lỗi vì muội không thể cùng đi được nữa, dù cho muội không muốn. Sự ra đời của muội là một sai lầm, từ nhỏ muội là đứa trẻ được cả gia tộc yêu mến nhưng đau lòng, phụ hoàng và mẫu hậu luôn rơi lệ vì muội, muội cũng đau lòng khi thấy nét mặt già nua của họ. Còn đại huynh Tinh Cựu của muội là một nhà chiêm tinh vĩ đại, có tấm lòng rộng mở và nụ cười ấm áp, vô cùng bao dung và chiều muội. Nhưng ngôi sao chiếu mệnh của muội đã rơi, muội sẽ chết trong một buổi sớm đầy hương thơm của hoa anh đào hoặc trong một đêm có ánh trăng chiếu dọi. Vì vậy cái chết của muội chẳng có gì đáng tiếc. Trên đường đi muội luôn cần sự bảo vệ của mọi người, Liêu Tiễn thì bế muội, Hoàng Thác thì phải dùng pháp thuật tạo ra vòng bảo vệ, Phiến Phong phải dùng gió đẩy mây đen đi... Nhiều khi muội muôn mình mạnh lên để mọi người khỏi phải lo lắng nhưng không được, thậm chí muội đi cũng không nổi nữa.
Đại vương, từ khi muội sinh ra đã luôn phải sống ở tầng lớp thấp nhất trong cung Ảo Tinh, bói toán hưng vượng hay suy vong cho gia tộc. Muội chưa bao giờ nhìn thấy vẻ thê lương của đóa anh đào cũng như sự tĩnh lặng khi vầng trăng lặn hay nghe âm thanh yếu ớt khi bông hoa nở. Muội rất muốn ra thế giới bên ngoài một lần cho biết, rất muốn biết tới cảm giác gió thổi tung bay mái tóc và tà áo muội. Muội vô cùng cám ơn huynh đã uội một quãng thời gian rạng rỡ được thoát ra khỏi nơi đàn tế đen tối và được
đứng dưới ánh mặt trời, muội được nhìn thấy bức tượng thành hùng vĩ của cung thần Diệt Thiên, được nghe bản nhạc của Triều Nhai làm cảm động bức tưởng than thở, được nhìn thấy Tinh Trú - vị thần của bộ tộc Chiêm Tinh, cho dù phải chết dưới tay bà ta, những muội cũng không hề oán trách.
Đại vương, muội có thể hiểu được tình cảm của huynh đối với đệ của huynh, với Lê Lạc và Lam Thường, nó sâu nặng và nồng ấm làm sao. Lúc ở trong cung điện của Điệp Triệt, khi huynh cho Triều Nhai giấc mơ, muội đã cảm nhận được tình cảm trào dâng trong lòng huynh, muội chỉ mong huynh sống tự do và vui vẻ như ý nguyện của huynh, muội hy vọng sẽ có một ngày, Thích sống lại sẽ cúi xuống hôn lên đôi lông mày của huynh, gọi huynh là đại huynh, giống như muội đã gọi Tinh Cựu của muội vậy. Chỉ có điều, muội
không thể hôn huynh của muội được nữa, mong huynh hãy chăm sóc anh trai của muội.
Thưa Đại vương, muội không thể xem cho con đường đi phía trước của huynh nữa, mong huynh sẽ dũng cảm tiến bước. Thực ra, khi ở trong cung điện của Điệp Triệt, muội đã biết mình sẽ chết ở đó, chính lúc ấy, muội chẳng dám nói cho ai hay, bởi số mệnh không thể nào đổi được, muội chỉ biết vui vẻ tiếp nhận nó.
Thưa Đại vương, khi tiến vào thần điện Tung Tinh, muội đã từng xem quẻ cho huynh tiến vào Tây phương hộ pháp, nhưng quẻ đó muội chưa từng gặp bao giờ, không biết có phải Tây phương hộ pháp quá mạnh hay lãnh địa đó có gì quá đặc biệt, muội chỉ biết nói cho huynh biết, đó là một nơi độc lập tách khỏi ra khỏi vòng cương tỏa của núi thần Ảo Tuyết, dưới sự bảo hộ của Tây phương hộ pháp, muội không có cách gì đoán được nó ra sao cả, có lẽ nó cũng là một cung điện hoành tráng như của các hộ pháp trước đó, cũng
có thể là một bình nguyên băng phủ, thậm chí có thể là một thế giới của bộ tộc Lửa, khi huynh giết chết Tây phương hộ pháp, linh lực của ông ta sẽ tiêu tan và thế giới đó cũng sẽ biến mất theo, sau đó các huynh sẽ gặp Uyên Tế, kẻ thống trị núi thần Ảo Tuyết.
Thưa Đại vương, muội phải ra đi, mong các huynh hãy tiếp tục sống, muội yêu tất cả mọi người, xin huynh chớ báo tin muội chết cho anh của muội, bởi anh rất yêu muội, muội không muốn để anh phải buồn rầu, hễ nghĩ tới khi anh nghe tin này khiên đôi lông mày lưỡi mác đó nhíu lại là lòng muội đau như dao cắt.
Cũng giống như đệ của huynh, mong huynh hãy tự do bay lên!...
Ngày mà chúng tôi chuẩn bị rời cung thần Tung Thiên, tôi nhận được thư của Tinh Cựu gửi từ thành Nhẫn Tuyết tới do con chim chế phong mang lại.
Thư nói rằng, thưa Đại vương, thần xem quẻ và biết rằng mọi người đã vượt qua được cung thần Tung Thiên của Bắc phương hộ pháp nên lòng cũng được an ủi, mong mọi người sớm trở về. Xin Đại vương thay thần chăm sóc cho Tinh Quỹ, thần xem quẻ thấy hình như một mình Tinh Quỹ đi tới một nơi rất xa xôi, Đại vương đừng để muội của thần đi một mình, từ nhỏ Tinh Quỹ rất sợ đơn côi, Đại vương hãy luôn đi cùng với Tinh Quỹ nhé.
Tay tôi run rẩy không giữ được bức thư, một trận gió thổi tới, bức thư nhẹ nhàng bay đi mất, bay lên tít tận trời xanh vào một thế giới mà chúng tôi không thể biết được, bay mãi về hướng Tây.
Tôi mường tượng ra rất nhiều hình ảnh về miền Tây kia, có thể là một mảnh đất kỳ quái hoặc nơi rừng đao biển lửa, nhưng khi tôi đặt chân lên đó vẫn kinh ngạc không nói nên lời, bởi cái mà tôi nhìn thấy lại chỉ là cảnh của trần gian mà thôi.
Khi chúng tôi tiến vào lãnh địa Tây phương hộ pháp là lúc mặt trời đang mọc, không khí ở đây rất đầm ấm, có những cô gái nhỏ nhắn thanh tú tay xách chiếc làn hoa, trong làn toàn là hoa nhài tươi nguyên được xâu lại thành từng chuỗi lớn, đang vừa đi vừa rao bán trên con đường lát bằng các tấm đá xanh còn đọng đầy sương đêm. Trong các quán trà, quán rượu ven đường tiếng người rất huyên náo. Những người bán bánh rán hai bên đường luôn chào mời mọi người mua bán giá rẻ. Còn có cả những thanh niên trẻ mặc áo dài lưng đeo kiếm rất đẹp, tóc họ búi cao, mắt sáng, dáng vẻ kiêu ngạo, những cô gái
lưng thắt dải lụa xanh, mái tóc đen bay bay trong gió rất nhẹ nhàng.
Nhưng điều thực sự đáng kinh ngạc là, khi những người có mái tóc trắng bạc dài chấm đất xuất hiện nơi trần thế thì họ không hề sợ hãi chút nào, nụ cười của họ vẫn rất tự nhiên, những chú Tiểu đồng trong các quán rượu chạy tới hỏi han chúng tôi xem có cần dừng chân nghỉ ngơi hay không. Tôi quay lại nhìn Nguyệt Thần, giờ đây không còn Tinh Quỹ nữa, chúng tôi phải hoàn toàn dựa vào cảm giác nhạy bén như một con thú của một sát thủ như Nguyệt Thần để tránh khỏi nguy hiểm.
Nguyệt Thần nói, đây không phải là trần thế đơn giản vì thấy rất nhiều sát khí.
Tôi nói, ta đã hiểu, vì nếu là người trần khi nhìn thấy bộ dạng chúng ta không thể không có phản ứng gì.
Chúng tôi thận trọng tiến lên, tinh thần tập trung tới mức có thể nghe được cả tiếng tuyết tan dưới bước chân. Nguyệt Thần đi cạnh tôi nói nhỏ, người trong những quán nhỏ ven đường kia đều là những sát thủ tuyệt đỉnh, còn những bà già kia chính là những nhà pháp thuật cao cường khó tưởng tượng nổi, chỉ có những người ăn mày mới đúng là ăn mày.
Khi chúng tôi đi tới đoạn cuối của một đường phố sầm uất thì nhìn thấy một nhà khách rất xa hoa, đầy lời ca tiếng hát, một cậu con trai xinh đẹp mắt đen lay láy đang đứng ở cửa chơi với một quả bóng tròn màu trắng như quả cầu tuyết vậy. Chúng tôi lại gần và quỳ xuống hỏi nhỏ: Này tiểu đệ, huynh đây có thể cùng chơi bóng với đệ được không? Cậu bé nhìn chúng tôi cười, nụ cười thoải mái và trong trẻo như nước suối ban mai. Cậu đưa quả bóng cho tôi, tôi cầm quả bóng trên tay mà mặt biến sắc. Đó là một quả bóng thật, nói cách khác, những thứ ở trần thế đều là thật cả, từ trước tới nay tôi chưa từng nghĩ tới linh lực của Tây phương hộ pháp lại mạnh đến mức này, biến ảo thành thực
như vậy. Tôi thở dài muốn bảo mọi người hãy ngừng lại để mai hãy hay.
Khi tôi quay đầu lại định nói với mọi người thì nhìn thấy ánh mắt hoang vắng của Liêu Tiễn, ông ta vô cảm nhìn tôi, sắc mặt xanh khác thường và sau đó ngã nhào xuống đất, chết ngay khi bước vào lãnh địa Tây phương.
Khi Liêu Tiễn ngã xuống tôi hoàn toàn không có phản ửng gì, còn Phiến Phong đã bước tới ôm lấy Liêu Tiễn, nhưng đã quá muộn, Hoàng Thác đặt ngón tay lên lỗ mũi Tiễn, lập tức tay cứng ngay lại không động đậy được nữa.
Hoàng Thác gõ vào ngón đeo nhẫn bên tay trái, sau đó đưa qua một lượt ở phía trên người Liêu Tiễn rồi quay lại nhìn tôi nói rất nghiêm túc, Tiễn đã chết vì bị trúng độc.
Hoàng Thác nói cho tôi hay kẻ hạ độc nhất định là một cao thủ, bởi hắn đã tính rất kỹ, cho Liêu Tiễn chết ngay từ khi mới bắt đầu bước vào đất Tây phương.
Nhưng chất độc này ở trong người đã lâu rồi, có thể nói là từ trước khi chúng tôi vào Tây phương, đã có kẻ hạ độc Liêu Tiễn rồi.
Tôi bỗng nhìn thấy trong mắt Hoàng Thác một tia sáng rất mơ hồ nhưng rất kỳ quặc, sau đó trở lại rất lặng lẽ gần như tàn khốc, ông ta nói: Thưa Đại vương, trong quãng đường vừa đi qua kẻ nào có cơ hội hạ độc Liêu Tiễn nhất?
Mặt mọi người đều biến sắc, họ đều hiểu rõ ý của Hoàng Thác, nhưng chẳng ai nói ra.
Một lúc sau, tôi nói, tất cả chúng ta, kể cả ta đều có cơ hội để hạ độc.
Phiến Phong nói, người không thể nghi ngờ bất kỳ ai trong chúng ta được.
Nguyệt Thần lạnh lùng nói, nếu ta muốn giết Tiễn thì ông ta phải chết thật đẹp, người không thể có cách gì để nhận ra nguyên nhân của cái chết đó.
Triều Nhai không nói gì, đầu cúi xuống, gió thổi tung mái tóc của nàng, khuôn mặt bị tóc che lấp càng trở nên điểm yếu hơn. Tôi biết sau trận đấu với Điệp Triệt, linh lực của nàng đã mất đi rất nhiều, nên kẻ đó không thể là Triều Nhai được.
Hoàng Thác nói: ta không nghi ngờ bất cứ ai mà chỉ muốn tìm ra sự thật và thực sự tin rằng trong chúng ta không ai ám sát Liêu Tiễn cả mà chỉ muốn mọi người hiểu rằng, kỹ thuật ám sát của kẻ đó thật là xuất thần mà thôi.
Đêm đó, chúng tôi nghỉ lại nhà khách. Đây là một công trình rất xa hoa và tráng lệ với những lầu son gác tía, những cây cầu nhỏ nước chảy bên dưới.
Chúng tôi ở trong mấy ngôi nhà gỗ rất tinh tế trong khu rừng trúc. Trên những phiến lá trúc xanh còn lưu lại dấu tích của tuyết, khi những cơn gió thổi qua, những bông tuyết trong rừng trúc lại bay bay theo gió và rơi xuống.
Triều Nhai rất thích nơi này, nàng nói rằng trong thành Nhẫn Tuyết chỉ toàn thấy những bức tường cao to hùng vĩ, có cột đá Huyền Vũ cao chọc trời và mái vòm cao vời vợi, chứ chưa bao giờ nhìn thấy những ngôi nhà bé nhỏ như thế này.
Chúng tôi mai táng Liêu Tiễn ở mảnh đất trống sau nhà, Triều Nhai định đàn một bản oan hồn khúc, nhưng linh lực của nàng yếu không thể làm nổi, nàng nhìn tôi cười, tôi nhận ra sự buồn rầu trong ánh mắt nàng.
Tối đó, ăn cơm xong, Triều Nhai là người đi ngủ sớm nhất, tôi nhìn nàng đi vào phòng và nhận ra sự mệt mỏi của nàng.
Tối đó, tôi không sao ngủ được, trong óc luôn hiện ra bức tranh kể từ khi chúng tôi vào núi thần Ảo Tuyết đến nay, nó cứ thấp thoáng trong màn đêm đen kịt. Tôi không thể không thừa nhận Tây phương hộ pháp quả là một đối thủ lợi hại mà tôi chưa từng gặp, chúng tôi thậm chí không đủ sức mạnh để trả đũa đòn tiến công của ông ta. Tôi phát hiện ra rằng, thuật ám sát quả là thứ khó chống lại ảo thuật.
Tôi trở mình nhìn ra ngoài, thấy ánh trăng chiếu qua cửa sổ trải đầy mặt đất. Sau đó, tôi vùng dậy lao ra phía sau cửa sổ.
Bởi tôi thấy Nguyệt Thần xuất hiện phía sau nhà, ánh trăng soi rõ đường nét cơ thể nàng. Nguyệt Thần quay lưng về phía tôi, đang đứng trước nấm mồ của Liêu Tiễn. Tôi không thể tưởng tượng được trong đêm trăng này Nguyệt Thần ra mộ Liêu Tiễn. Bỗng một đám mây bay ngang qua che lấp mặt trăng, chính trong lúc ánh trăng yếu đi đó tôi nhìn thấy ánh trăng trên tay Nguyệt Thần, nhưng quả thật tôi cũng không hiểu nàng dùng pháp thuật làm gì, ở đây có kẻ thù nào xuất hiện đâu, thậm chí là chẳng có người nào.
Đúng lúc đó, Hoàng Thác lặng lẽ xuất hiện phía sau Nguyệt Thần, tuy lúc đó gió rất mạnh nhưng tà áo ảo thuật của Hoàng Thác lại không hề lay động, tôi biết là ông ta đã lập vòng bảo vệ an toàn cho mình.
hưng Nguyệt Thần vẫn nhận ra sự xuất hiện đó bèn khẽ hỏi: Ai đấy , rồi quay ngay người lại và vung lưỡi dao ánh sáng xuyên từ dưới lên trên người Hoàng Thác. Từ khi nàng nói tới khi quay người lại phóng dao chỉ trong tích tắc. Cuối cùng tôi đã biết được sức mạnh thực sự và tốc độ ám sát của nàng, trước đây tôi luôn đánh giá thấp nàng.
Nhưng có vẻ Hoàng Thác biết trước là nàng sẽ ra tay nên rất ung dung đưa tay ra chặn lưỡi dao của Nguyệt Thần.
Nguyệt Thần thu tay lại nói: Hóa ra là ngươi.
Hoàng Thác mặt lạnh lùng nói: Vì sao lại không thể là ta, nhà ngươi ở đây làm gì?
Nguyệt Thần cười lạnh lùng hỏi lại, vậy ngươi làm gì ở đây?
Điều này ngươi không cần biết. Hoàng Thác nói.
Vậy thì việc của ta cũng không cần ngươi phải biết - Nói rồi quay đi.
Khi Nguyệt Thần đi ra khỏi bãi trống sau nhà, Hoàng Thác nói theo phía sau Nguyệt Thần: Nơi đây chỉ có mấy người chúng ta, vậy sao ngươi lại dùng chiêu giết người ghê gớm như vậy?
Nguyệt Thần dừng nhưng không quay lại, rồi chẳng nói câu nào và rời khỏi nơi đó.
Hoàng Thác đứng trong màn đêm, tôi nhìn thấy ông ta đã tự loại bỏ vòng bảo vệ của mình, gió thổi tung tà áo dài phép thuật của ông ta, mái tóc trắng bạc bay phất phơ trong ánh trăng đêm.
Đêm đó, không ngủ được, tôi ra thăm mộ Liêu Tiễn, nhưng không biết Hoàng Thác đã về từ lúc nào, trên bãi đất trống chỉ còn lại ánh trăng.
Sáng hôm sau, khi tôi mở cửa phòng, Nguyệt Thần và Triều Nhai đã dậy, Nguyệt Thần đứng giữa rừng trúc, Triều Nhai ngồi trên ghế đá gảy đàn, hai người in bóng lên tuyết trắng và trúc xanh, mái tóc và tà áo dài bay trong gió, tạo nên một bức tranh tuyệt mỹ. Tôi nhìn thấy rất nhiều người đàn ông đang đứng ở ngôi nhà xa xa nhìn, tôi biết Nguyệt Thần và Triều Nhai làm kinh ngạc người trần gian, chẳng có cô gái dưới trần gian nào có thể đẹp được như họ.
Hoàng Thác và Phiến Phong cũng từ trong nhà đi ra, Nguyệt Thần nhìn thấy Hoàng Thác cũng không có biểu hiện gì khác lạ. Hoàng Thác cũng vậy, có vẻ như chuyện tối qua không hề xảy ra. Tôi cũng chẳng hỏi họ làm gì.
Hoàng Thác đến trước mặt tôi nói: Thưa Đại vương, hình như chúng ta quên một việc rất quan trọng. Tôi hỏi là việc gì thì ông ta nói, đó là giấc mơ thứ hai của Tinh Quỹ.
Khi tôi đi vào giấc mơ thứ hai của Tinh Quỹ mới biết giấc mơ này thật đơn giản. Trong mơ tôi chẳng thấy gì cả, xung quanh chỉ thấy một màn sương rất dày màu xám, tiếng Tinh Quỹ nói liên tục rằng tôi phải đi tìm một người có biệt danh là Thái Tử ở đây, tên là Thương Liệt.
Tôi hỏi người phục vụ quán ở đây có ai tên là Thương Liệt không, cậu ta vò đầu nghĩ ngợi một lúc rồi nói không có. Tôi nói: vậy có Thái tử không? Và tôi đột nhiên nhìn thấy những nét hoảng hốt hiện ra trong mắt họ.
- Người tìm Thái tử làm gì? - Một người đội một chiếc mũ rộng vành rất kỳ lạ che gần hết mặt hỏi lại. Người này có đôi mắt rất sáng, ánh mắt rất sắc, mặc chiếc áo dài màu xám đang cúi đầu xuống ăn bát mì.
Ng.uồ.n .từ. s.it.e .Tr.uy.en.Gi.Cu.ng.Co..c.om. Tôi vội hỏi lại:
- Ngài quen biết Thái tử ư?
- Đúng vậy - Ông ta đáp.
- Ông ta là người thế nào?
- Là người nhưng không phải là người.
- Vậy là một vị thần ư?
- Cũng có thể nói như vậy được, vì trong thành này, ông ấy chính là thần.
- Vì sao vậy?
- Vì địa vị, của cải, phép thuật, tướng mạo và trí tuệ của ông ấy không ai vượt qua được.
- Vậy ngài có thể dẫn tôi đi tìm ông ấy được không?
- Không được.
- Vì sao vậy? - Phiến Phong hỏi.
- Bởi tôi không thích.
Tôi đang định bước tới thì Nguyệt Thần đưa tay ra chạm vào lưng tôi và nói phải luôn cách xa ông ta sáu thước. Tôi nhìn Nguyệt Thần, nàng vẫn nhìn người nọ, tôi biết cảm giác của nàng không bao giờ sai vì tôi cũng cảm thấy hơi thở không bình thường ở con người này.
Nguyệt Thần bước tới ghé vào tai người kia nói nhỏ mấy câu, rồi ngẩng lên mỉm cười. Người kia nhìn tôi nói, thôi được, tôi sẽ dẫn đi!
- Vì sao bây giờ ngài lại đồng ý? - Phiến Phong hỏi lại.
- Vì tôi vui chứ sao! - Người kia đáp.
Nói đoạn, ông ta quay người đi ra khỏi cửa, chúng tôi đi theo ông ta. Tôi hỏi Nguyệt Thần, nàng vừa nói gì với ông ta? Nguyệt Thần cười cười và nói, lúc đó ánh trăng trong tay tôi đã áp sát vào lưng ông ta rồi, tôi chỉ nói nếu ông không đưa chúng tôi đi thì ngọn đao ánh trăng sẽ xuyên thủng ngực ông từ phía sau ra phía trước.
Trên đường phố trần thế, người này dẫn chúng tôi đi rất nhanh khiến tôi nghĩ ông ta không phải là người bình thường, vì ông ta đi vô cùng nhanh, dù chúng tôi đã trổ hết tài ghệ, nhưng ông ta luôn đi phía trước và giữ một khoảng cách nhất định với chúng tôi.
Ông ta đưa chúng tôi qua nhiều phố lớn ngõ nhỏ rất phức tạp, nơi thì sầm uất đông vui, nơi thì lạnh lẽo khác thường, ông ta có vẻ như thông thạo mọi ngõ ngách ở đây.
Sau một khoảng thời gian khá lâu, một trang viên rất lớn hiện ra trước mắt chúng tôi, người kia nói, các vị đi qua cửa lớn rồi đi thẳng, đi tới tận cùng sẽ nhìn thấy Thái tử.
Tôi nhìn vào phía trong, một con đường lát bằng những phiến đá xanh chạy dài tít tắp, tuyết phủ trắng mặt đường, phía cuối con đường là một cánh cửa gỗ rất dày trạm trổ rất tinh xảo, trên cửa có những khuy và vòng bằng đồng rất tinh tế.
- Thái tử ở trong đó ư? - Tôi quay lại hỏi người kia, nhưng ông ta đã biến mất. Phiến Phong nói không biết ông ta biến ảo tàng hình từ lúc nào rồi?
Nguyệt Thần nói, ông ta chẳng có phép thuật tàng hình biến ảo gì cả, vì khi vào lãnh địa Tây phương ta đã từng thử qua rồi, trong thế giới này mọi ma thuật đều bị phong tỏa. Vậy thì sao ông ta lại đột nhiên biến mất? Nguyệt Thần nói rất nghiêm túc, vì tốc độ của ông ta quá nhanh.
Đó là một khoảng sân rất rộng, tuyết trên những phiến đá xanh lát đường như vừa mới rơi xuống, vì màu trắng của nó rất tinh khiết và chưa hề có vết chân người nào cả. Chúng tôi bước đi trên con đường đó, xung quanh yên tĩnh tới mức nghe thấy cả tiếng tuyết lạo xạo dưới chân mình.
Phiến Phong đập đập chiếc vòng đồng trên cánh cửa, cánh cửa màu đỏ đậm phát ra tiếng trầm đục, nhưng bên trong chẳng thấy có tiếng động nào.
Phiến Phong nói, chẳng lẽ người ta lừa chúng ta? Nhưng vừa dứt lời thì cánh cửa tự động mở ra, trong đó có những bảy người.
Chúng tôi bước vào, cánh cửa lại tự động đóng lại như lúc mở ra.
- Ai là Thương Liệt - Phiến Phong hỏi.
Chẳng ai trả tời.
Ngôi nhà có một cửa sổ, nhìn qua cửa sổ có thể thấy cảnh vật bên ngoài đó là khoảng sân đầy tuyết, hoa mai đỏ đang nở rộ in trên nền tuyết trắng nên càng nổi bật hơn, khi gió thổi qua, tuyết trên cành cây rơi lả tả. Một người trẻ tuổi mặc áo dài, lông mày lưỡi mác, mắt sáng như dao đang đứng bên cửa sổ.
Bên thắt lưng chàng có một miếng ngọc bội trắng muốt, nhìn đã biết là rất quí, cạnh ngọc bội còn một thanh kiếm đen tuyền, lưỡi sáng lóa. Ngoài hai thứ đó ra, chàng ta chẳng có thứ gì đáng giá nữa, chiếc áo dài tuy cũ nhưng rất sạch sẽ, may rất vừa vặn. Chàng đứng bất động chẳng nói lời nào, chỉ có tà áo dài bị gió từ cửa sổ thổi vào bay lên. Cả con người chàng như một thanh kiếm sắc bén vừa rút ra khỏi vỏ. Chàng ta hình như không để ý gì tới việc năm người chúng tôi đột ngột xuất hiện nơi đây.
Ngoài chàng trai ra, còn có một lão tóc bạc trắng đang ngồi ở góc trong cùng của ngôi nhà, màu trắng của mái tóc của ông không phải là do ông mang dòng máu thuần chủng của bộ tộc Băng mà chỉ do ông là người trần gian, mà người trần gian thì khi già tóc sẽ bạc đi. Chiếc áo dài mà ông ta mặc cũng rất quí, màu tím, trên có thêu một con rồng màu vàng. Ánh mắt ông đầy vẻ coi thường mà tôi nhìn thấy rõ. Ông ta đang ngồi nhàn tản tự sửa móng tay mình, ai cũng có thể nhận ra những chiếc móng tay đó chính là thứ vũ khí rất tâm đắc của ông vì nó rất cứng lại sắc nhọn như mười thanh kiếm nhỏ.
Một phía của gian phòng có một người phụ nữ luống tuổi mặc bộ quần áo màu sặc sỡ, tuy không còn trẻ nữa nhưng rất phong độ, tóc bà ta búi cao trên đỉnh đầu có cài nhiều trâm nhỏ. Tôi hiểu rằng đó không phải là những chiếc trâm bình thường, thứ đồ trang sức nhỏ như chiếc kim thêu đó sẵn sàng biến thành thứ công cụ giết người rất lợi hại. Đột nhiên, tôi chú ý tay bà ta, vì phát hiện ra tay bà ta đeo găng trong suốt rất mỏng, chắc chắn bà ta là một cao thủ dùng độc dược.
Chỗ chính giữa trong cùng của gian phòng có một cô gái đang đánh đàn, trước mặt cô là một cây đàn cổ, tiếng đàn tràn ngập cả căn phòng. Khuôn mặt cô rất trẻ, nhưng điều kỳ lạ là khuôn mặt ấy đầy vẻ tang thương không hề phù hợp với tuổi cô, thậm chí đuôi mắt còn một vài nếp nhăn nho nhỏ. Tôi quan sát cô, thấy Triều Nhai cũng nhìn cô, rồi quay lại mỉm cười với tôi, tôi hiểu ý của Triều Nhai.
Giữa nhà có chiếc giường, có ba người đang ngồi trên đó, người bên trái là một đàn ông vẻ mặt khôi ngô như một thiên thần, tuy tuyết đang rơi đầy trời nhưng anh ta vẫn không cài cúc áo, để lộ ra bộ ngực vạm vỡ rắn chắc, còn bên trái là một cô gái tuyệt đẹp, xiêm áo xúng xính, vẻ mặt cao ngạo. Một nữ tỳ đang quỳ và xoa bóp chân cho cô.
Tôi quay đầu lại nhìn Nguyệt Thần, thấy nàng cũng nhìn tôi và gật đầu, tôi biết những phán đoán của tôi và nàng giống nhau.
Tôi bước lại gần người thanh niên. Anh ta quay lại nói với tôi, ngài thật là người có con mắt tinh tường mới biết ta là Thái tử.
Tôi nói, người không phải là Thái tử?
Chàng trai tỏ ra rất lúng túng hỏi lại, vì sao ngài biết tôi không phải là Thái tử?
- Bởi người không thật thoải mái, người quá căng thẳng. Người giả bộ không để ý tới việc chúng tôi đi vào, nhưng thực ra rất sợ người khác phát hiện ra sự lo lắng trên khuôn mặt mình nên nhìn ra cửa sổ lưng quay vào trong - Tôi nói.
Anh chàng không nói gì nữa, lui sang một bên, ánh mắt rất tức giận.
Nguyệt Thần đi tới trước mặt ông già đang sửa móng tay, người này thở dài và nói, xem ra không thể lừa nổi các người. Ta đây mới thực sự là Thái tử.
Nguyệt Thần lại cười và nói, ông cũng không phải là Thái tử.
Ông lão hỏi như vô tình: Vì sao vậy? Những nếp nhăn trên mặt ông ta như run lên.
- Bởi ông còn căng thẳng hơn cả chàng trai kia, ông phải dùng cách sửa móng tay để che giấu nội tâm đang lúng túng. Ông cố tỏ ra là người cao sang, có những đồ trang sức quý và thái độ bất cần. Nhưng nếu tôi đoán không sai thì ông là người có địa vị thấp nhất ở đây! - Nguyệt Thần nói.
Ông lão mặt tím lại vì tức giận.
Tôi tiếp tục bước tới trước người phụ nữ đầu gài những chiếc trâm nhỏ, người này cười và hỏi tôi: lẽ nào tôi cũng không phải?
- Bà không phải - Tôi đáp.
- Vì sao vậy? - Bà ta hỏi lại.
- Nếu tôi đoán không nhầm, bà chỉ là một cao thủ thuốc độc.
- Quả không sai.
- Vậy người không thể là Thái tử được.
- Vì sao vậy?
- Bởi những người dùng độc thì nội tâm đều không trong sạch, dù cho có thể trở thành cao thủ ám sát giỏi nhất cũng không thể thành một hào kiệt thống lĩnh một phương, Thái tử tuy có thể tung hoành trong thành phố này, tất nhiên không thể dựa vào ám sát, dùng độc để đạt mục đích. Mà giả sử Thái tử giỏi dùng độc thì cũng không cắm trên mái tóc mình nhiều độc khí đến vậy hoặc cũng không dễ dàng để cho người khác nhìn thấy chiếc găng tay kia.
Đây vốn chỉ là một vài chiêu rất inh trong kế sách của các người, bởi đây là lãnh địa của Ám Sát hộ pháp, cho nên các người cho rằng, ta sẽ coi người nào thuật ám sát càng tốt thì địa vị càng cao. Đáng tiếc, ngay từ nhỏ phụ thân ta đã dạy rằng, một người tấm lòng không rộng mở vĩ đại sẽ không thể có được giấc mơ đẹp và địa vị cao.
Triều Nhai bước tới trước mặt cô gái gảy đàn nói rằng cô có thể nghỉ tay được rồi.
Cô ta ngẩng lên nhìn mà chẳng nói gì.
Triều Nhai cười và nói: Trừ Điệp Triệt ra, chẳng ai hiểu âm nhạc bằng tôi, trong tiếng đàn của cô có một thứ tình cảm rất mềm yếu, Thái tử sẽ không thể có tâm trạng của một cô gái như vậy được, vì cho dù Thái tử là một phụ nữ chăng nữa, thì Thái tử cũng sẽ có một thế giới nội tâm mạnh mẽ và kiên nhẫn như của người con trai.
Triều Nhai ngồi xuống và nói hãy để ta đàn cho. Sau đó cả ngôi nhà tràn ngập một điệu nhạc du dương, đẹp như trong mộng vậy, thứ âm nhạc đã từng làm rung động bức tường Than Thở.
Nguyệt Thần bước tới trước chiếc giường mềm ở giữa phòng nói với người con trai rằng, hãy xuống đi, vì nếu theo chức vụ thì chỗ đó không phải là chỗ của người.
Người này im lặng hồi lâu rồi bước ra khỏi giường, nhìn Nguyệt Thần như muốn hỏi vì sao mà nàng biết anh ta không phải là Thái tử.
Nguyệt Thần nói, người rất khôi ngô nhưng chẳng tác dụng gì, cơ bắp kia chỉ là cái vẻ bên ngoài chứ hoàn toàn không có giá trị thực dụng, người có tin không, Triều Nhai, cô gái đang đánh đàn kia cũng thừa sức đánh bại người.
Sau đó, Nguyệt Thần bước tới trước mặt người con gái, cúi xuống nói:
Thưa Thái tử, thần rất mừng khi được gặp Người.
Nhưng khi Nguyệt Thần ngẩng đầu lên, nàng lại nói với người nữ tỳ đang đấm bóp rằng, Thái tử, người có thể nghỉ ngơi rồi!
Tôi cười toáng lên, phán đoán của Nguyệt Thần giống như của tôi, Thái tử thực sự chính là người nữ tỳ kia.
Sau đó, tay người nữ tỳ kia chợt dừng lại. Cô ta đứng dậy nhìn chúng tôi thở dài nói, các người làm sao lại nghĩ là tôi?
- Bởi chúng tôi loại trừ người phụ nữ kia, vậy người còn lại chỉ có Người.
Thái tử ngước lên, tôi đã nhìn rõ khuôn mặt của nàng, tuy thanh tú nhưng là thứ thần sắc không dễ bị xâm phạm, hai mắt không lộ vẻ nộ khí nhưng rất có uy. Thái tử nói, vì sao các người biết không phải là người kia mà lại là ta?
Tôi nói:
- Ta vốn cũng không nghĩ là Người, bởi Người không hề có bất kỳ cử chỉ nào không tương xứng. Chỉ đột nhiên ta nghĩ ra rằng, khi nữ tỳ xoa bóp châncho người, người đó sẽ không ngồi tề chỉnh nghiêm túc như thế, trừ khi kẻ xoa bóp chân là chủ nhân thực sự. Với lại, thưa Thái tử, bàn tay đấm bóp để lộ nhiều bí mật, sức mạnh khi xoa bóp vô cùng chính xác, rất đều nhau, ngón tay lại linh hoạt hơn người khác rất nhiều, dù cho khi dùng ám khí hay phép thuật khác uy lực đều rất mạnh.
Thái tử truyền cho tất cả bọn họ lui xuống, đúng như dự đoán của Nguyệt Thần, ông lão giũa móng tay có địa vị thấp nhất, đi sau cùng.
Khi Thái tử thay quần áo và xuất hiện trước mặt chúng tôi, Người đã trở thành người đàn ông đẹp tuyệt vời, đẹp như Anh Không Thích - đệ của tôi Đông phương hộ pháp ở thành Nhẫn Tuyết.
Thái tử chẳng làm động tác gì nhưng vẫn khiến người khác cảm thấy áp lực toát ra từ con người chàng, chàng nửa cười nửa không, thần bí và rất mơ hồ.
Sau khi tất cả những người đã lui ra, Thái tử mới hỏi: Các người tới tìm ta làm gì?
Tôi trả lời: Thực ra tôi cũng không biết, đó là do Tinh Quỹ báo mộng cho biết chúng tôi phải đi tìm Thái tử.
Tinh Quỹ ư? Tiếng của Thương Liệt bất giác run run, cho dù chàng cố tình che giấu, nhưng không tài nào qua mắt được Nguyệt Thần, cho nên chàng hắng giọng rồi nói, đúng là ta có quen cô ấy thật.
Thương Liệt nói cho chúng tôi biết, khi Thương Liệt còn ở thành Nhẫn Tuyết, Tinh Quỹ đã từng cứu chàng, bởi trong một lần chiêm tinh, Tinh Quỹ ngẫu nhiên phát hiện ra vì sao chiếu mệnh của chàng đã xuất hiện những sai lệch, nên đã nói cho Thương Liệt biết trước. Lúc đó Thương Liệt vẫn còn là một nhà ảo thuật thuộc bộ tộc Băng sắp lui về sống ẩn dật, vì vậy cho tới nay, chàng vẫn rất cảm kích trước sự giúp đỡ đó.
Thương Liệt nói, Tinh Quỹ đã bảo tới đây, vậy thì ngươi được phép hỏi bảy câu, bất kỳ câu nào ta cũng trả lời được. Hãy bắt đầu đi.
Đây có phải là trần gian không?
Không phải. Đây là do Tây phương hộ pháp dùng phép thuật tạo ra, trong này có một số người là người trần gian, còn một số là những cao thủ ám sát tuyệt vời nhất bên cạnh Tây phương hộ pháp. Trong thế giới này có một tổ chức lớn nhất gọi là Thiên Vũ, bởi tất cả người trong đó đều mang tên các loài chim, hai kẻ lợi hại nhất là Phượng hoàng và Quạ đen, trong hai người này thì Quạ đen lại lợi hại hơn cả; còn thủ lĩnh của tổ chức này chính là Tây phương hộ pháp.
Làm sao có thể rời Tây phương để gặp Uyên Tế được?
Phải tìm Tây phương hộ pháp, giết chết hắn, thế giới này sẽ tiêu tan cùng cái chết ấy ngay.
Làm thế nào để tìm thấy Tây phương hộ pháp?
Đợi chờ.
Đợi chờ gì?
Đợi hắn tới tìm ngài.
Nếu hắn không tới?
Vẫn cứ phải đợi.
Tây phương hộ pháp là ai?
Không biết.
Vậy ai biết?
Chẳng ai biết cả. Hỡi Ca Sách, ngươi đã hỏi hết bảy câu rồi, người có thể đi, hoặc nếu muốn, người hãy ở lại, ta bảo đảm nhà ở đây tốt hơn bất cứ ngôi nhà nào bên ngoài.
Tôi đang định nói sẽ ở lại nơi đây thì Nguyệt Thần cướp lời, không cần, chúng tôi sẽ trở về nhà trọ.
Tôi không biết vì sao Nguyệt Thần không muốn tiếp tục ở đây, nhưng do tin vào sự phán đoán của nàng nên gật đầu đồng ý.
Khi chúng tôi trở lại khách sạn, ngôi nhà này đã có thêm bảy người. Tôi nhìn thấy Thái tử quay đầu lại cười với tôi và nói, bọn ta cũng ở đây.
Thái tử nói: trong thế giới này, khắp nơi đều là những cao thủ ám sát, Phượng hoàng và Quạ đen lợi hại nhất, nhưng từ xưa tới nay chẳng ai biết thân phận của họ ra sao. Ta và thủ hạ của ta ở gần các người, các người có việc gì có thể sai bảo thủ hạ của ta, cho dù phép thuật của chúng ta không bằng các người nhưng trong thế giới ám sát này, kẻ mạnh và kẻ yếu lại không thể dựa vào mạnh yếu để phân biệt được.
Trong ngôi nhà khách này, chúng tôi còn gặp lại đứa trẻ xinh đẹp chơi quả cầu, người hầu ở đây nói, cậu ta chính là con ông chủ nhà khách, ông chủ có việc phải đi xa nên để cậu ở lại giao cho anh ta cai quản. Thật không ngờ là cậu vẫn nhớ chúng tôi, cậu chạy tới trước mặt tôi và nói, cùng chơi cầu với đệ đi!
Khi nghe thấy cậu ta gọi hai tiếng đại huynh, tôi chợt nhớ tới mấy trăm năm trước, khi tôi đã lớn và Thích vẫn còn là một đứa trẻ, tôi bế nó đi trên con đường đầy băng tuyết nơi trần thế. Thích nằm trên cánh tay tôi ngủ ngon lành, bởi nó rất tin tôi, luôn coi tôi như một vị thần. Nhưng vị thần mà nó tin tưởng nhất lại dùng kiếm đâm xuyên qua ngực nó để áu của nó chảy đầy mặt đất phủ kín băng giá.
Tôi ôm chặt tấy cậu bé, trong tôi chợt nảy sinh ảo giác tôi đang ôm Thích của tôi. Tôi thì thầm, Thích ngoan nào, huynh chơi với đệ đây!
Nước mắt tôi trào ra, chảy đầy xuống mu bàn tay.
Khu nhà khách này thực ra còn lớn hơn tôi tưởng rất nhiều, ngôi nhà chúng tôi ở chỉ là phần rất nhỏ trong đó. Trong khu nhà này còn có những cây cầu nhỏ bắc qua dòng nước chảy, có những khu vườn đầy hoa anh đào, sau ngôi nhà chúng tôi ở còn có một vườn hoa trồng đủ những loại cây nơi trần thế, có loài như cây mai hồng, có cả cây liễu - loại cây mà chúng tôi thích nhất, chỉ có điều là nó chưa mọc hết lá nên trông nó rất trơ trụi.
Màn đêm buông xuống. Hình như đêm trần thế đến rất nhanh, chỉ loáng một cái là đã tối om. Ở trong thành Nhẫn Tuyết, dù là ban đêm thì những lớp tuyết, lớp băng vĩnh cửu không bao giờ tan cùng những cung điện màu trắng nguy nga luôn phản xạ thứ ánh sáng mềm mại như ánh trăng hoặc ánh sáng các vì sao. Nhưng ở đây lại không như vậy, đêm tối khiến người ta có cảm giác như bị đè nặng, cả khu nhà rộng lớn vậy mà chỉ có vài ngọn đèn treo ở cổng ra vào luôn lắc lư theo gió, ánh sáng yếu ớt của nó có vẻ như sẵn sàng tắt bất cứ lúc nào, ngoài ra, chỉ còn lại ngọn đèn dầu trong phòng mà thôi.
Người ta sắp xếp năm người chúng tôi ở trong dãy nhà phía nam. Tôi bước vào phòng của mình, trời đã tối tới mức không nhìn rõ các vật trong phòng.
Hoàng Thác đi tới thắp đèn, khi Hoàng Thác quay lưng về phía tôi, Nguyệt Thần lặng lẽ viết lên lưng tôi bốn chữ. Tôi ngẩng đầu lên nhìn nàng, nhưng nàng cũng không biểu hiện gì, Hoàng Thác quay đầu lại nói với tôi: Đại vương hãy nghỉ sớm đi! Có cần tôi phải lập ra vòng bảo vệ không?
Không cần - tôi trả lời - ngươi hãy tự bảo vệ mình cho tốt.
Tôi tiễn mấy người ra cửa, thấy đèn trong phòng đã sáng mới đóng cửa.
Tôi bình tĩnh tại, vì mấy ngày này xảy ra quá nhiều việc, từ Liêu Tiễn chết tới chuyện Thương Liệt, tôi nhận thấy Tây phương hộ pháp đã trổ hết tài, nhưng vẫn chưa tìm được cửa vào đó.
Triều Nhai ở phòng bên trái tôi, bên phải là Hoàng Thác, tiếp theo hai bên là Nguyệt Thần và Phiến Phong. Còn Thương Liệt và đám thủ hạ ở ngay những phòng phía bắc đối diện với chúng tôi, giữa hai dãy nhà là một khoảngđất trống rộng chừng bảy tám trượng, giữa có những cây tùng xanh bốn mùa và một hòn non bộ rất đẹp.
Tối đó, khi tôi sắp đi ngủ bỗng nghe thấy tiếng bước chân trên mái nhà, nói cho đúng hơn là tôi cảm thấy như vậy vì động tác của người ấy rất nhẹ nhàng, không thể phát ra bất kỳ âm thanh nào, chỉ là do giác quan thứ sáu mách bảo tôi là trên đó có người mà thôi.
Đúng lúc tôi sắp ra khỏi giường thì ngọn đèn dầu phụt tắt, mắt tôi không quen ngay được với bóng đêm thì tai đột nhiên nghe thấy gió rít lên và ào tới, thứ ánh sáng lạnh lẽo đột nhiên xuất hiện trước mặt tôi. Tôi nhảy ra khỏi giường cách chừng một trượng, thứ ánh sáng lạnh đó bay vèo sạt qua áo tôi, tôi cảm thấy ớn lạnh tới tận xương. Tôi phải thừa nhận rằng, ban nãy tôi suýt chết bởi thứ ánh sáng lạnh đó, thứ ánh sáng tựa như những thỏi băng sắc nhọn, hoặc như lưỡi kiếm hay kim độc, nhưng gì thì gì cũng suýt làm tôi mất mạng.
Trong lúc tôi quay ngang, đột nhiên vung tay phóng một loạt lưỡi dao băng lên nóc nhà. Tôi nghe tiếng ngói vỡ và tiếng da thịt người bị dao xuyên thủng, sau đó có người rơi từ trên mái nhà xuống.
Tôi xông ra khỏi phòng, nhìn thấy Hoàng Thác đang đứng ở khoảng đất trống giữa hai dãy nhà rồi chạy rất nhanh tới dãy nhà phía bắc. Thấy tôi xông ra, Thác hỏi tôi có nhìn thấy một người mặc quần áo đen hay không, hắn vừa từ trên nóc nhà Đại vương nhảy xuống . Trong lúc nói, Thác không quay lại nhìn tôi.
Tôi nói, quyết không để người đó chạy thoát! Người Thác bỗng chuyển động giống hệt như một con chim tuyết đang bay ngược gió, quả thật tôi không ngờ phép thuật của Thác lại cao cường đến vậy, tôi luôn cho rằng Thác chỉ biết ma thuật trắng. Tôi chợt nghĩ lại một số sự việc liền vội vàng vào thẳng phòng của Nguyệt Thần và Triều Nhai.
Đúng như tôi nghĩ, Nguyệt Thần không có trong phòng, nhưng điều làm tôi không hiểu là cả Triều Nhai cũng không có trong phòng. Họ đi đâu? Liệu có phải đã bị Tây phương hộ pháp hoặc thủ hạ của ông ta giết chết rồi không?
Tôi cảm thấy khí lạnh đang từ dưới chân bốc lên.
Phiến Phong xuất hiện sau lưng tôi, tôi bảo Phong đi cùng tôi tới dãy nhà phía bắc, có người định ám sát tôi đang ở trong đó.
Khi tôi tới những gian phòng phía bắc đã thấy Hoàng Thác đứng ở đó rồi.
Ngực áo của Thác đã bị một lưỡi dao sắc nhọn làm rách một đường rất dài.
Thác quay lại nói với tôi mình vừa giao đấu với người mặc quần áo đen ở chỗ hòn non bộ, hắn rất giỏi dùng kiếm băng, ngực tôi đã bị lưỡi kiếm của hắn quét qua, sau đó hắn biến mất vào sau dãy nhà này.
Tôi hỏi hắn vào phòng nào, Thác nói không nhìn rõ, nhưng kiếm của hắn rơi ở đây.
Thác nhặt lên, đó là một thanh kiếm băng, ai cũng biết đó không phải là vũ khí của người trần mà là do ảo thuật làm ra, nó rất sắc và có linh lực tụ lại trên kiếm.
Nhưng khi tôi cầm thanh kiếm đó từ tay Thác thì phát hiện ra một việc rất kỳ lạ, bởi không biết trên cán kiếm có thứ gì rất trơn, đó là điều tối kỵ, bởi nếu người ta không cầm chắc được kiếm thì sẽ không trổ hết được kiếm thuật.
Nhưng người có thể làm Thác bị thương kiếm thuật hẳn không thể yếu được.
Trong lúc Thác nói, tất cả mọi người ở dãy nhà phía bắc đều bước ra ngoài đứng hết ở hành lang.
Thương Liệt ra sớm nhất vì hình như ông ta hầu như không ngủ, vẫn mặc bộ quần áo như lúc ban ngày, thậm chí tóc còn chải rất gọn gàng, khí thế hùng dũng, toàn thân tỏa ra mùi thơm của hương hoa, trong bóng đêm, mắt ông ta càng sáng hơn, sáng như vì sao sáng nhất trên bầu trời.
Ông ta hỏi, có chuyện gì vậy?
Có người trên nóc nhà định ám sát tôi. Tôi đáp.
Tôi nhìn thấy sắc mặt ông ta thay đổi. Ông quay lại nhìn mọi người rồi nói với Hoàng Thác, có phải người đã mặc quần áo đen không .
Đúng vậy. Hoàng Thác nhìn mọi người ở hành lang rồi lạnh lùng nói.
- Vậy từ lúc người đuổi hắn và nhìn thấy hắn chạy vào đây đến bây giờ là khoảng bao lâu rồi?
- Không lâu lắm.
- Không lâu lắm là bao lâu? - Thương Liệt hỏi lại.
Tôi đột nhiên hiểu ý của Thương Liệt và hỏi thêm: Liệu có đủ thời gian để một người thay xong một bộ quần áo không? . Hoàng Thác nói rất rành rọt là tuyệt đối không thể đủ được.
Đứng bên cạnh Thương Liệt là cậu thiếu niên tuấn tú đeo một thanh kiếm, đến giờ tôi mới biết tên là Nha Chiếu, cậu ta khác với Thương Liệt là người mặc chiếc áo ngủ màu trắng, bên trong còn một lớp áo màu trắng nữa, chân để trần, tóc bù xù rũ xuống hai vai.
Còn lão hồi ban ngày ăn mặc rất đẹp đẽ và ra vẻ sang nhưng thân phận lại thấp nhất tên gọi là Đông Nhiếp, ông ta mặc một bộ áo gió bằng da cáo màu trắng, bên trong là chiếc áo ngủ bằng tơ màu xanh có thêu một con rồng xanh. Nhìn con rồng, tôi chợt nghĩ tới mình đang ở trên lãnh địa của Tây phương hộ pháp Thanh Long, nhưng đứng trước những sự việc càng ngày càng kỳ dị mà tôi hoàn toàn không có manh mối hay biết gì, ngay cả khả năng chống trả của tôi cũng chẳng có.
Còn một người phụ nữ cũng không ngủ như Thương Liệt mà ban ngày ngồi trên chiếc giường mềm giữa nhà là Y Trao, bên cạnh bà ta là người đàn ông có cơ bắp rất phát triển cùng ngồi ở giường với bà ta lúc ban ngày được Thương Liệt cho biết tên là Ngư Phá. Rõ ràng người này đã ngủ rồi và bị gọi dậy, bởi mặt người đó rất đỏ, mắt hằn tia máu, đầu tóc rối bù, rõ ràng là vừa say rượu.
Tôi hiểu rõ người sau khi say rượu mà bị gọi dậy sẽ cảm thấy khó chịu thế nào, nên tôi không hỏi gì người này cả.
Còn người đàn bà đeo găng tay trắng giỏi dùng độc kế, theo Thương Liệt thì ngay cả ông ta cũng không biết tên là gì, chỉ biết một cái tên khác của bà ta, nó chỉ có một chữ là Trâm . Bà ta mặc một bộ đồ ngủ mềm toàn một màu đen, điều kỳ lạ là, tay bà ta vẫn đeo chiếc găng tay trong suốt, không lẽ cả lúc đi ngủ bà ta cũng không cởi nó ra?
Tôi hỏi Hoàng Thác, có phải nhìn thấy kẻ ám sát mặc quần áo đen không? Thác trả lời là đúng như vậy.
Tôi chỉ bà ta và hỏi, liệu có thể là người này không? Thác trả lời, không thể. Tôi hỏi lại. Vì sao vậy? Thác đáp.
- Bởi người đó mặc đồ đen bó sát người, người phụ nữ kia tuy cũng mặc đồ đen nhưng vải rất mềm và lại rộng thùng thình, loại quần áo này sẽ rất không tiện trong hành động, sẽ phát ra những tiếng động mạnh. Những cao thủ ám sát có kinh nghiệm sẽ không bao giờ mặc loại quần áo này.
Cho nên ở đây chỉ có cô kia là đáng ngờ nhất. Tôi quay lại nhìn cô gái gảy đàn hồi ban ngày, Thương Liệt nói cô tên là Hoa Hiệu, đã từng là một tay đàn giỏi trong một thanh lâu.
- Vì sao lại như vậy? - Cô gái nọ hỏi lại.
- Bởi chỉ có mình cô khoác một chiếc áo xám rất rộng, ta rất muốn biết phía trong nàng mặc gì?
- Người cho là cái gì? Bộ quần áo đen chăng?
- Có thể không và cũng có thể đúng.
Sau đó tôi thấy mặt Hoa Hiệu biến sắc trông rất khó coi. Cô ta nói:
- Nếu ta nói không thì sao?
- Vậy thì ngươi sẽ chết ngay tại đây - Thương Liệt nói rất lạnh lùng nhưng tôi biết lời nói của ông ta rất có hiệu lực, hoặc nói cách khác là tuyệt đối có hiệu lực. Một người nếu ở vào địa vị của ông ta, mỗi lời nói đều rất thận trọng, bởi chỉ nói sai một lời sẽ mãi mãi không có cơ hội sửa chữa. Sai là chết.
Hoa Hiệu cúi đầu xuống cắn chặt môi, tôi không biết cô ta nghĩ gì, tôi nhìn thấy Hoàng Thác đã nắm tay tập trung linh lực, bởi tay trái của Thác đã bắt đầu xuất hiện ánh sáng bạc, tôi cũng uốn cong ngón đeo nhẫn tay trái sẵn sàng đề phòng Hoa Hiệu chạy trốn hoặc tấn công lại.
Nhưng Hoa Hiệu không bỏ chạy cũng không tấn công mà chỉ cởi bỏ chiếc áo khoác ngoài của mình ra.
Tôi nhìn cô ta cởi bỏ áo ngoài mà cảm thấy hối hận vì bên trong chẳng có quần áo đen, cũng chẳng có quần áo vì cô ta chẳng mặc gì cả.
Hoa Hiệu cắn chặt môi, tôi nhìn thấy nước mắt trong mắt cô.
Tôi quay lại và nói, xin lỗi, tôi đã sai, cô hãy mặc quần áo vào.
- Nguyệt Thần và Triều Nhai đâu? - Thương Liệt hỏi.
- Hai người họ không có trong phòng.
- Vậy vì sao ngài không nghi ngờ họ? - Thương Liệt nhìn tôi, ánh mắt trở nên rất lạnh lùng và sắc bén như một mũi kim sáng lóa.
- Không thể là Nguyệt Thần được - Tôi dửng dưng nói.
- Vì sao vậy? - Câu hỏi của Hoàng Thác.
Tôi nhìn Hoàng Thác, nghĩ tới chuyện giữa hai người họ đối đầu hôm trước và hiểu rằng giữa họ nhất định có bí mật gì đó, nhưng cả hai người chẳng ai nói ra. Tôi đành phải hỏi Hoàng Thác vì sao lại nghi ngờ Nguyệt Thần.
- Tôi không nghi ngờ Nguyệt Thần mà nghi ngờ tất cả.
- Vậy ta sẽ nói cho ngươi biết: Khi ta bước vào gian phòng đó, Nguyệt Thần viết lên lưng ta bốn chữ: Cẩn thận đèn dầu. Ngọn đèn đó chính là do ngươi đốt, lúc đốt ngươi không phát hiện ra đèn chỉ còn một chút ít dầu phải không? Ngươi cố ý bớt dầu đi quả là tính toán rất chính xác, có nghĩa là ngọn đèn chỉ thắp được cho tới khi kẻ ám sát tới, bởi khi trời đột nhiên từ sáng chuyển sang tối, mắt người sẽ chẳng nhìn thấy gì cả.
- Vậy Triều Nhai thì sao? - Hoàng Thác lại hỏi.
- Ta không biết. Ta không biết vì sao Triều Nhai lại không có trong phòng, nàng cần phải có mặt trong phòng mới đúng, vì cô ta vẫn chưa hồi phục. Thôi, mọi người hãy ai về phòng nấy, có chuyện gì ngày mai sẽ hay.
- Còn Nguyệt Thần và Triều Nhai?
- Chẳng còn cách nào khác, đành phải chờ vậy.
Đêm đó, tôi không ngủ, đầu óc luôn nghĩ tới những chuyện vừa xảy ra, ít nhiều tôi cũng đoán ra được vài điều nhưng vẫn rất mơ hồ. Tôi khẳng định mình đã bỏ qua một số sự việc rất quan trọng, nhưng không thể nghĩ được là cái gì.
Đêm có vẻ qua đi rất nhanh, cũng chẳng có chuyện gì xảy ra. Buổi sáng, khi tôi ngủ dậy ra khỏi phòng thì đã thấy bọn người của Thương Liệt đứng cả ở ngoài cửa. Điều ngạc nhiên là Nguyệt Thần và Triều Nhai cũng đứng trong số đó, Triều Nhai đang ôm đàn, nụ cười rất bình tĩnh.
Tôi bước tới hỏi:
- Triều Nhai, tối qua nàng có ngủ ngon không?
Thương Liệt cắt ngang không đợi tôi nói hết:
- Ngủ rất ngon, rất ngon, chẳng mơ mộng gì cả, ngủ một mạch tới sáng.
- Vậy thì tốt, người nàng yếu cần phải nghỉ ngơi cho tốt.
Nụ cười của Thương Liệt vẫn bình thản, nhưng trong lòng bàn tay tôi đã lấm tấm mồ hôi. Triều Nhai vì sao lại phải nói dối nhỉ?
- Nguyệt Thần, ngươi thì sao? - Thương Liệt tiếp tục hỏi.
- Tôi không ở đây, tôi ra ngoài.
- Vậy nàng đi đâu?
- Tôi phát hiện ra một việc - Nàng nhìn tôi và nói - Tối qua tôi định sang nói cho Đại vương biết.
Tôi nhận ra Nguyệt Thần không hề nói dối, chắc chắn nàng phát hiện ra điều gì đó.
- Thưa Đại vương, tối qua thần cũng có chuyện muốn nói với ngài - Hoàng Thác nhìn Nguyệt Thần sau đó quay lại nói với tôi.
Tối đó, Hoàng Thác bảo tôi, thực ra Liêu Tiễn không phải chết vì chất độc mạn tính, bởi sau đó Thác đã đào thi thể của Tiễn lên để kiểm tra, và phát hiện ở đỉnh đầu Tiễn có một cây kim rất nhỏ có chứa một chất độc mạnh bị mái tóc dài che mất.
Hoàng Thác nói: Đại vương còn nhớ khi mới vào lãnh địa Tây phương cũng chính là lúc Liêu Tiễn chết, xung quanh chúng ta có người nào đáng nghi ngờ không?
Nguyệt Thần nói cho tôi biết mấy sát thủ tuyệt đỉnh, nhưng chắc là họ không ra tay, bởi lúc đó Nguyệt Thần đang ở đó, không có kẻ nào dám ra tay.
- Thưa Đại vương, người còn nhớ khi Liêu Tiễn bị hôn mê ngã xuống, người đầu tiên lao tới là Phiến Phong, có vẻ như Phiến Phong biết trước là Tiễn sẽ ngã. Thần nhớ rõ là Phiến Phong ôm lấy đầu Liêu Tiễn.
- Hoàng Thác, ngươi nghĩ gì?
- Thưa Đại vương, thần không muốn nói gì cả, thần chỉ nói rằng chúng ta đã để sót một số sự việc, xin Đại vương tự mình phán đoán.
Đúng lúc đó, Nguyệt Thần xuất hiện trước cửa, nhìn thấy Hoàng Thác ở trong phòng của tôi nên chẳng nói gì cả.
Hoàng Thác nhìn tôi nói, thần xin phép trở về phòng mình.
Tối đó, Nguyệt Thần cũng nói cho tôi biết chính câu chuyện đó, nàng nói tối hôm tôi bị mưu sát nàng đi xem xét thi thể của Liêu Tiễn nên không có trong phòng. Nguyệt Thần nói cỏ xung quanh mộ Liêu Tiễn đã khô cả rồi vì cơ thể của Tiễn có độc, còn trên đầu có một cây kim bạc rất nhỏ.
Tôi không nói cho Nguyệt Thần biết chuyện đó Hoàng Thác đã nói cho tôi hay rồi mà chỉ hỏi ai là người đã giết Liêu Tiễn?
Nguyệt Thần không nghi ngờ ai trong chúng tôi cả, chỉ hỏi lại tôi là có nhớ người phụ nữ đầu đầy những cây kim hôm trước không?
- Kim trâm ư? - Tôi hỏi lại.
- Đúng. Thần rất muốn xem xem cây kim mà Liêu Tiễn bị hạ thủ có giống cây trâm trên đầu bà ta hay không?
Khi Nguyệt Thần sắp rời phòng, nàng đột nhiên quay người lại nói với tôi:
Thưa Đại vương, ngài không thấy chuyện ngài bị ám sát tối qua là kỳ lạ lắm sao?
- Ngươi nói...
- Người nhìn thấy và phát hiện người mặc đồ đen chạy sang dãy nhà của nhóm Thương Liệt ở phía bắc tối qua đều là Hoàng Thác, tất cả đều do Thác nói ra cả. Còn vết rách trên ngực áo do lưỡi dao rất sắc gây nên, Đại vương có nghĩ đó là do những con dao băng ngài phóng ra không?
Tôi nhìn Nguyệt Thần, bắt đầu cảm thấy sợ hãi và ớn lạnh.
Mũi kim trên đầu Liêu Tiễn đã được Nguyệt Thần lấy ra. Nó màu trắng bạc nhưng không phải bằng bạc, cứng hơn bạc nhiều, dưới ánh đèn, mũi kim phát ra màu xanh rất kỳ dị, rõ ràng là nó có độc. Đầu kim mang màu đỏ sặc sỡ, khi tôi nhìn kỹ cây kim mới phát hiện ra đầu kim được khắc hình đầu phượng hoàng.
- Phượng hoàng! - Tôi kêu lên thất thanh.
Nguyệt Thần nhìn tôi, gật đầu tỏ vẻ đồng tình.
Tôi đang định đưa tay ra cầm thì bị Nguyệt Thần ngăn lại, nàng nói rằng cây kim độc vô cùng, dù không bị thương, chất độc cũng có thể ngấm qua da, tuy không nguy hiểm tới tính mạng nhưng cũng sẽ bị thương không nhẹ.
Tôi nhìn cây kim mà chẳng nói gì. Nhưng tôi đột nhiên nghĩ tới những câu nói của Hoàng Thác và Nguyệt Thần.
Tối đó chẳng có chuyện gì xảy ra cả, tôi ngủ rất ngon lành, nhưng mơ liên tục, hết mơ tới thời gian tôi lưu lạc nơi trần gian đến những việc ở thành Nhẫn Tuyết, tất cả cứ hư hư ảo ảo, thời gian vài trăm năm cứ thế trôi qua. Nhưng những ngày sống cùng với Thích thì lại không hề mơ thấy, mà trong mơ chỉ thi thoảng nhìn thấy Thích rất tuấn tú và tinh nghịch, nhưng khi lạnh lùng thì lại làm cho người ta có cảm giác là mặt đầy sát khí, ngược lại, khi vui vẻ thì nụ cười ngọt ngào đẹp đẽ giống hệt một đứa trẻ, vừa tinh nghịch lại ngang bướng.
Đệ của tôi - Anh Không Thích nay linh hồn đang bay lên trời, không biết những vong linh có sợ lạnh không, liệu đệ có vẫn không cần dùng pháp thuật để che tuyết hay không mà cứ để mặc cho những bông hoa tuyết rơi đầy vai, đầy đầu và rơi cả trên đôi lông mày lưỡi mác sắc nhọn kia? Trong những giấc mơ đó không có tranh giành, không có vua chúa, không phân biệt huyết thống, không có phản bội hay ám sát, chỉ có hai anh em tôi đứng ở nơi cao nhất trên bức tường thành Nhẫn Tuyết, mái tóc dài bay ngược chiều gió, hoa tuyết và hoa anh đào bay qua đầu và áo chúng tôi như những bông sen ngàn tuổi nở rực rỡ, một màu trắng thuần khiết và trong suốt. Hàng ngàn hàng vạn năm, tôi và
Thích cứ đứng như vậy cúi xuống nhìn cả Đế quốc Ảo Tuyết, nhìn thần dân của chúng tôi, nhìn thủy triều lúc lên lúc xuống trong biển băng và nhìn những đóa hoa sen hồng nở rộ như những ngọn lửa ở bờ đối diện của biển băng.
Một con chim tuyết khổng lồ vút lên từ thành Nhẫn Tuyết rồi là là bay tới, sau đó có vô số con chim tuyết bay sát qua đỉnh đầu chúng tôi, tôi còn nghe thấy tiếng vỗ cánh của nó, bóng đàn chim tuyết khổng lồ đang mờ dần ở phía chân trời. Sau đó, trên nền trời xanh lại xuất hiện một khuôn mặt mà tôi không thể nào quên, đó là Lê Lạc với mái tóc điểm xanh; đó là Lam Thường, mộtngười biết yêu biết ghét, rất được mọi người yêu quý, những anh chị của tôi, còn cả những người của bộ tộc Băng đã chết trong cuộc thánh chiến... nụ cười của họ tràn ngập bầu trời, nhưng rồi cũng tan đi như sương sớm.
Cuối cùng, tôi thấy mình đang đứng ở Nhẫn Tuyết trong một mùa đông - một mùa đông mười năm tuyết rơi liên tục, xung quanh chẳng một bóng người, chẳng một tiếng động, chỉ có tiếng gào thét của bão tuyết đập vào tai tôi, và cuối cùng, thành Nhẫn Tuyết lặng lẽ đổ sụp phía sau tôi, chảy mãi cho tới khi kết thúc giấc mộng mới thôi.
Tôi ôm gối ngồi trên giường, đầu tựa vào tường, tôi nghe thấy mình đang thầm nói: Thích ơi, đệ sống ra sao? Huynh rất nhớ đệ...
Buổi sáng khi tôi tỉnh dậy, tuyết ngoài cửa sổ đã ngừng rơi, trên lá trúc vẫn còn đọng lại những bông hoa tuyết, thỉnh thoảng lại bay đi theo những cơn gió.
Tôi đi vào giữa sảnh lớn, phát hiện thấy bọn Nguyệt Thần đang ăn. Ngoài cô gái gảy đàn Hoa Hiệu không có mặt ra, còn mọi người đều tề tựu đủ cả.
Điều kỳ lạ là, Nguyệt Thần cùng ngồi một bàn với một người, người đó chính là Trâm - một người đàn bà rất giỏi dùng độc là thủ hạ của Thương Liệt.
Tôi đi tới ngồi cạnh bà Trâm, sau đó người của nhà khách tới hỏi tôi dùng gì, khi tôi đang chuẩn bị gọi đồ ăn thì bà ta nói: Ca Sách, tối sang chỗ tôi một chút .
Tôi ngẩng lên nhìn vẻ nghi ngờ, chẳng hiểu bà ta định làm gì.
Bà ta cười với tôi, nụ cười đầy bí ẩn và mơ hồ rồi nói: Thưa Đại vương, tôi biết một người bạn của ngài là Liêu Tiễn chết vì một cây kim, tối nay mời ngài tới, thần sẽ nói cho ngài biết về cây kim nọ.
Tôi nhìn Nguyệt Thần, nàng chẳng nói gì chỉ cúi đầu uống trà, tôi quay đầu lại đáp rằng, tối tôi sẽ tới.
Tối đó, tôi gọi Nguyệt Thần vào phòng tôi nói rằng muốn nàng cùng đi tới chỗ bà Trâm.
Nguyệt Thần đồng ý và dặn tôi phải hết sức cẩn thận.
Chờ ọi người đi ngủ cả, tôi và Nguyệt Thần mới bước ra khỏi cửa, nhưng khi chúng tôi tới phía ngoài gian phòng của bà Trâm thì thấy bên trong không có đèn, cũng chẳng có tiếng gì cả, tất cả tối om om.
Tôi khoanh ngón đeo nhẫn, sau đó gió tuyết bắt đầu bay xung quanh người tôi mỗi lúc một dày thêm, bởi tôi sợ rằng khi mở cửa ra sẽ có vô vàn mũi kimđộc phóng tới. Tôi quay nhìn Nguyệt Thần, nàng cũng giơ tay trái lên qua khỏi đỉnh đầu, sau đó chỉ thấy ánh trăng chụp kín người nàng.
Sau đó, Nguyệt Thần đẩy cửa, khi ánh trăng trên người nàng chiếu vào căn phòng, chúng tôi nhìn thấy bà Trâm, bà ta đang ngồi trên ghế đối diện với chúng tôi và mỉm cười, nhưng nụ cười rất kỳ dị. Khi chúng tôi sắp bước vào thì Nguyệt Thần hét lên một tiếng rồi quay lui rất nhanh, tôi cũng vội vàng lui quay lại, bởi nhìn thấy thứ ánh sáng lạnh lùng trên tay của bà ta. Tất cả kim cài tóc của bà ta đã được nhổ ra hết và đặt trong lòng bàn tay và có thể phóng bất cứ lúc nào.
Nhưng tôi và Nguyệt Thần chờ mãi bên ngoài chẳng thấy bà ta hành động, chúng tôi củng cố thêm tầng bảo vệ rồi lại bước vào. Nụ cười của bà ta vẫn rất kỳ dị và tôi đã phát hiện ra nguyên nhân của nó, đó là do nụ cười của bà ta đã bị đông cứng lại không thể thay đổi được.
Bà ta đã chết, Nguyệt Thần thu về ánh sáng trong tay.
Sáng hôm sau, thi thể của bà ta được chôn cất trên khoảng đất trống sau nhà, mọi người đều tới huyệt bà, đất mới đào lên chất thành đống, tuyết trắng chói chang. Những cái được bà ta dùng trước đây cũng được chôn theo cùng với bà ta. Chúng tôi biết, mộ bà ta không được phủ bằng cỏ, vì chất độc ở các cây kim sẽ lan ra đất, tạo thành một minh chứng cho việc bà ta đã từng là cao thủ ám sát.
Hóa ra bà ta vốn là Phượng Hoàng - Triều Nhai chậm rãi nói, mái tóc bay bay che lấp khuôn mặt, nhưng vẫn không thể che hết nụ cười mệt mỏi của Nhai.
Tôi quay nhìn Hoàng Thác, Thác chẳng biểu lộ gì hết, nhưng ánh mắt vẫn sáng long lanh, tôi không biết Thác đang nghĩ gì, cứ thấy ông ta nhìn chăm chú vào phần mộ của bà Trâm mà chẳng nói gì.
Vài ngày sau khi Phượng Hoàng chết, toàn bộ nhà khách này rất yên ắng, ngày ngày vẫn có người đến người đi, riêng tôi không biết đang đợi gì, có lẽ cũng giống như Thương Liệt, chúng tôi chỉ chờ Tây phương hộ pháp tới mà chẳng phòng bị gì cả. Nguyệt Thần thường biến đâu mất, còn Hoàng Thác lại luôn ngồi trong phòng, Phiến Phong và Triều Nhai lại luôn chơi cầu với con người chủ. Còn tôi chỉ đứng trong rừng trúc, nhìn những bông hoa tuyết nhỏ xíu rơi loạn xạ từ trên lá trúc xuống mỗi khi có gió thổi, có bông rơi lên đầu và vai tôi, rơi cả vào trong mắt tôi rồi tan chảy ra ngay.
Ba ngày sau lại xảy ra một chuyện khiến mọi người rất hoảng sợ, đó là chuyện Phượng Hoàng không hề chết.
Hôm đó, con ông chủ quán khóc lóc chạy tới, nó kẻo tay tôi và nói rằng nó rất thích những bông hoa khô, thằng bé đưa tôi ra sau nhà. Khi tới nơi đó, tôi lặng người chẳng nói được lời nào; lát sau Hoàng Thác và Nguyệt Thần cũng tới, cả hai người cũng cùng có tâm trạng như tôi.
Bởi vì giữa bãi đất trống rất rộng sau nhà, một đám cỏ rất rộng đã chết khô, trông giống như vết sẹo lớn của mặt đất.
Hoàng Thác nói, chắc chắn dưới đó có vấn đề.
Nguyệt Thần bước tới, tụ ánh trăng lại trên tay rồi phóng xuống đám đất đó, lát sau đám đất bỗng nứt ra, tôi nhìn thấy một đống kim độc, vì thế làm cho cỏ phía trên chết hết, chỉ có điều, đầu những cây kim đó lại không giống hình Phượng Hoàng mà thôi.
Hoàng Thác nói, chúng ta hãy xem lại thi thể của bà Trâm.
Mộ bà ta được đào lên, ánh nắng chiếu vào thi thể cứng đỏ của bà. Hoàng Thác chỉ vết máu tụ trên tay bà ta và nói tôi hãy nhìn kỹ xem.
- Vì sao lại có vết tụ máu? - Tôi hỏi Hoàng Thác.
- Vì sao khi bà ta chết, cơ thể đã cứng lại, nhưng vẫn có người động vào, cố sức muốn tách các ngón tay của bà ta ra. - Hoàng Thác nói.
- Bởi khi có người muốn giết bà ta, bà ta đã lấy tất cả những cây trâm nhỏ trên đầu ra cầm trong tay, nhưng chưa kịp bắn đi thì đã bị giết chết. Sau đó, người muốn tách các ngón tay bà ta ra để lấy những cây kim đó và thay vào đấy bằng những cây kim Phượng Hoàng để chúng ta cho rằng bà Trâm chính là Phượng Hoàng. - Nguyệt Thần nói xen vào.
Thương Liệt chẳng nói gì, bộ mặt rất nghiêm nghị.
Hồi lâu sau ông ta mới khẽ nói, hãy chôn cất bà Trâm, đừng đụng tới làm gì.
Sáng hôm sau, khi tôi đang ăn cơm trong đại sảnh, Hoàng Thác đột nhiên bước tới rồi ngồi xuống bên cạnh, sau khi gọi món ăn rồi cứ ngồi nguyên như thế mà chẳng nói câu nào. Thác chỉ xòe bàn tay ra, trong tay có một mảnh giấy, trên đó là một cây kim vừa lấy từ đất lên.
Tôi nhìn kỹ cây kim bởi tôi biết không phải vô cớ mà Thác muốn cho tôi xem nó. Sau khi tôi nhìn cây kim rất lâu dưới ánh đèn, tôi đột nhiên cười, Hoàng Thác cũng cười, chắc là cũng biết tôi đã phát hiện ra bí mật rồi.
Bởi trong đó có một cây kim trên có vết máu, điều đó có nghĩa là kẻ đổi kim trong tay bà Trâm đã bị kim đâm phải, do đó y đã bị trúng độc, Hoàng Thác nói, giải được chất độc đó cần phải vài vị thuốc đặc biệt.
Tôi nhìn mắt Hoàng Thác rất sáng và đột nhiên hiểu ý của ông ta. Tôi nói, chỉ cần chúng ta tìm được người mua thuốc là có thể tìm ra người trúng độc.
Hoàng Thác gật đầu nói, biết người nào trúng độc sẽ biết ai là Phượng Hoàng.
Nhà khách này hàng ngày đều có xe ngựa chở hàng đỗ ngoài cửa, sau đó người trong nhà khách và thủ kho mới ra xem xét những thứ hàng cần, đương nhiên trong đó có thể có cả thuốc men. Nếu là khách đặt hàng mua thuốc sẽ có người đưa đến tận phòng ở của khách.
Chúng tôi phát hiện hàng ngày đều có thuốc ở các cửa hiệu lớn trong phố được chuyển tới nhà khách này, phần lớn đều là loại thuốc bổ do nhà khách sắc dùng, chỉ có một ít thuốc được chuyển trực tiếp đến phòng của Y Trạo.
Khi tôi và Hoàng Thác nói lại chuyện này cho Thương Liệt biết, ông ta lắc đầu quả quyết là không phải Y Trạo.
Thương Liệt nói với chúng tôi, Y Trạo phải uống thuốc luôn, bởi nhiều năm về trước, cô ta bị thương chưa khỏi, ngay khi ở trong phủ Thái tử, vẫn có người hàng ngày mang thuốc tới. Sau khi tới ở đây, phải đưa thuốc tới đây.
Ông ta còn nói rằng, thuốc mà Y Trạo uống đều là thuốc phục hồi linh lực chứ không phải là thuốc giải độc.
Khi tôi và Hoàng Thác rời phòng của Thương Liệt, Hoàng Thác nói với tôi, chúng ta phải đi xem phương thuốc của Y Trạo.
Lạc Thảo Trai là nhà thuốc lớn nhất nơi này, những người đưa thuốc cho Y Trạo đều là người làm thuê. Chúng tôi tới hiệu thuốc, tìm tới vị thầy thuốc nọ rồi hỏi về phương thuốc của Y Trạo.
Vị đại phu đó cười miễn cưỡng, nhưng qua nụ cười đó, chúng tôi thấy rõ tất cả. Ông ta nói đó là bí mật của người bệnh, thầy thuốc không được tùy tiện nói cho người khác biết.
Hoàng Thác bước tới nói, nếu đại phu đồng ý cho chúng tôi xem đơn thuốc đó, tôi có thể đồng ý thay đại phu chữa trị cho ba người khác.
Vị đại phu cười tỏ ra xem thường rồi nói, ta chính là một thầy thuốc giỏi nhất ở thành này, vì sao lại phải cần người khác chữa bệnh thay!
Hoàng Thác quay lại nhìn tôi, tôi bước tới kéo tay một người làm công đứng cạnh, tay tôi vung lên, một lưỡi kiếm băng đột ngột xuyên thủng ngực anh ta, tôi thấy vị đại phu kia mặt thất sắc, khi máu anh chàng xấu số chảy tràn ra mặt đất, tôi và Thác cười rồi bỏ đi. Khi chúng tôi bước qua cửa, nghe thấy giọng nói run rẩy của vị đại phu nọ, ông ta nói xin mời chúng tôi ở lại.
Hoàng Thác dùng ánh sáng tụ lại trên tay lướt nhẹ trên ngực anh chàng làm thuê, vết thương trên ngực anh ta do kiếm băng đâm thủng dần dần khép miệng, cuối cùng làn da ở đó trở nên nhẵn bóng như chưa từng bị thương vậy.
Vị đại phu nọ ngồi ngay đó, ánh mắt lộ rõ vẻ hoảng sợ và kinh ngạc.
Chúng tôi cầm tờ đơn thuốc trong tay, đó là một tấm giấy màu hồng mỏng nhưng trong suốt, chữ đại phu viết trên đó như rồng bay phượng múa. Ở cuối tờ đơn có ba vị thuốc rất kỳ lạ, đó là cỏ không tuyết, cóc lửa và tơ nhện băng.
- Ba vị thuốc này là loại giải độc tốt nhất - Hoàng Thác nói.
Tôi nhìn Hoàng Thác, mắt ông ta ánh lên vẻ rất đặc biệt nhưng rất hấp dẫn. Tôi hiểu ý tứ của ông ta.
Khi chúng tôi quay lại nhà khách thì nhìn thấy Y Trạo đang ở trong sân nơi có đám cỏ lưa thưa, cô ta mặc chiếc áo dài màu đen điểm vàng, đẹp và đầy bí ẩn, bộ mặt của cô ta cũng lạnh lùng bí ẩn, kỳ lạ như loài hoa man đà la màu đen khi nở. Khi tôi nhìn thấy cô ta, cô đột nhiên mỉm cười, giống như mặt hồ bị gió thổi làm tan lớp băng trên mặt vậy, nụ cười đó cũng giống như loài hoa bé li ti, nhỏ nhưng rất đẹp đang nở, cô ta hỏi, Ca Sách, Người vẫn khỏe chứ?
- Vẫn khỏe. Còn cô, tôi thấy cô ngày nào cũng uống thuốc, vậy sức khỏe ra sao? - Tôi hỏi lại.
Cô vén những sợi tóc xõa ra trán, cười và nói rằng chẳng sao cả, chỉ là thuốc bổ để dưỡng thương thôi, xin cảm ơn sự quan tâm của Đại vương.
Tối đó, Hoàng Thác tới phòng tôi và nói chúng tôi hãy cùng tới phòng ở của Y Trạo xem sao. Tôi hỏi lại.
- Đến đó làm gì?
- Xem thuốc của cô ta có thật là thuốc bổ hay không.
Tôi nói cần phải rủ Nguyệt Thần cùng đi, nhưng Hoàng Thác chần chứ một lúc lâu, mãi rồi mới nói tại sao lại phải gọi Nguyệt Thần.
- Nếu Y Trạo là Phượng Hoàng thì chỉ có Nguyệt Thần mới có thể địch nổi cô ta. Tôi đáp.
- Hoàng Thác nhìn ra ngoài cửa sổ rồi gật đầu.
Tối đó, khi ba chúng tôi tới trước cửa phòng của Y Trạo thì đã thấy cô ngủ rồi, vì trong phòng không có ánh đèn.
Khi đưa tay đẩy cửa, tôi bỗng cảm thấy có một cảm giác rất kỳ quái giống như cảnh tượng từ trước đó đã xuất hiện. Tôi quay đầu nhìn Nguyệt Thần, nàng cũng biểu hiện giống như tôi, hai chúng tôi nhìn nhau giây lát rồi cùng hiểu việc gì sẽ xảy ra. Và thế là chúng tôi cùng đẩy cửa vào, nhưng đã muộn rồi, Y Trạo đã nằm trên sàn, mặt hướng lên trần nhà, lộ vẻ kinh hoàng đến mức khó tin nổi, nơi yết hầu có một vết thương rất nhỏ, một nhát kiếm giết người. Người giết cô ta hẳn phải là người mà cô ta hoàn toàn không ngờ, bởi cô ta hoàn toàn không có khả năng chống trả, nếu không phải là bất ngờ thì chẳng ai có thể làm cho cô ta không kịp chống trả được. Thương Liệt đã từng nói với tôi rằng phép thuật của cô ta hoàn toàn có thể đạt tới mức của một nhà ảo thuật.
Nguyệt Thần vội thắp ngọn đèn dầu trong phòng lên, sau đó chúng tôi nhìn thấy chiếc tủ ở bên cạnh giường của cô ta đã bị mở toang. Trong tủ toàn là thuốc, Hoàng Thác xem và nói, ba vị thuốc giải độc đã hoàn toàn biến mất rồi.
Nguyệt Thần nói, như vậy xem ra Y Trạo không phải là Phượng Hoàng, Phượng Hoàng thật là kẻ giết chết Y Trạo, hắn tới trộm thuốc nhưng bị Y Trạo phát hiện nên đã giết Y Trạo, nhưng do chúng ta đột nhiên tới đây nên bỏ chạy không kịp đóng cửa tủ.
- Vậy Phượng Hoàng là ai? Tôi hỏi Nguyệt Thần.
- Giờ ta hãy xem xét căn phòng đã, Nguyệt Thần đáp.
Trong phòng chẳng có ai, mọi người đã tụ tập ở sảnh lớn chỉ trừ mỗi Triều Nhai.
Thương Liệt ngồi giữa sảnh lớn, Phiến Phong ngồi bên cạnh, Hoa Hiệu ngồi chếch ở một bên nhưng không đánh đàn mà chỉ ngồi yên một chỗ, còn bên kia chính là Nha Chiếu, một thanh niên tuấn tú luôn đeo kiếm bên người.
Cạnh Nha Chiếu là ông già Đồng Nhiếp và Ngư Phá - người đàn ông có cơ bắp rất phát triển. Tôi hỏi Thương Liệt:
- Ban nãy ai không có mặt ở đây?
- Những người ngồi đây đều đến uống rượu từ khi trời sập tối, trong thời gian đó chỉ có Nha Chiếu và Ngư Phá có đi khỏi đây một lúc.
- Khoảng thời gian đó có đủ để giết chết một người không? - Nguyệt Thần hỏi chen vào.
- Không đủ! Tuyệt đối không đủ - Thương Liệt nói rất nghiêm túc.
Nha Chiếu lạnh lùng nhìn Nguyệt Thần rồi nói, đến giết một con gà cũng không đủ, huống hồ là một con người.
- Vậy người chết lần này là ai vậy? - Thương Liệt hỏi nhỏ.
- Là Y Trạo - Tôi đáp.
Sau đó tôi thấy Hoàng Thác hét lên kinh hãi và nói chúng ta đã quên một việc quan trọng nhất. Nói đoạn, Thác xông tới, tôi và Nguyệt Thần cùng xông ra khỏi nhà khách bám theo, tôi mơ hồ nhận ra hướng mà Hoàng Thác định đi.
Khi chúng tôi tới Lạc Thảo Trai thì nơi đây đã ngập trong biển lửa rồi, đứng trước cảnh tượng này, tôi đột nhiên cảm thấy như mình trở lại thành Nhẫn Tuyết, trong ngọn lửa ở Ảo Ảnh Thiên, Thích một mình ngã xuống mặt đất, con người của Thích trắng tinh.
Ánh lửa soi tỏ mặt Hoàng Thác và Nguyệt Thần, tôi thấy cảm xúc của họ luôn thay đổi trên nét mặt.
Tôi hỏi Hoàng Thác vì sao lại biết có chuyện xảy ra ở đây. Hoàng Thác trả lời tôi rằng, bởi chúng ta quên mất một việc quan trọng nhất, đó là ba vị thuốc giải độc.
Theo Thác, ba vị thuốc giải độc đó là thứ mà chỉ ở núi thần Ảo Tuyết và thành Nhẫn Tuyết mới có, một đại phu bình thường ở trần gian làm sao có thể biết được ba vị thuốc này là thứ phải cần linh lực hội tụ mới có thể sinh trưởng được? Tôi hỏi.
- Vậy vị đại phu kia là...
- Đúng vậy, ông ta chính là người ngoài giả dạng.
Nguyệt Thần chậm rãi nói, tốt nhất chúng ta phải đi hỏi Triều Nhai xem đêm nay cô ta ở đâu.
Tối hôm sau, sau khi chúng tôi chôn cất y Trạo xong, tất cả tập trung tại sảnh lớn. Đêm đó, Hoa Hiệu không xuất hiện, Thương Liệt sai người hầu bê thức ăn ra, tuy thức ăn rất nhiều món, nhưng chẳng ai thấy ngon cả, chẳng ai ăn được khi mấy người trong chúng tôi đã liên tiếp ra đi. Sau khi các món ăn bày ra hết, vẫn chẳng thấy Hoa Hiệu xuất hiện, Thương Liệt cho người hầu bàn lui ra, chúng tôi cùng tiếp tục chờ Hoa Hiệu.
Khi chúng tôi nghĩ rằng Hoa Hiệu cũng bị ám sát rồi thì Hoa Hiệu xuất hiện, nàng ăn mặc rất giản di, không một chút phấn son, mặt trắng nhợt.
Thương Liệt và tôi chẳng hỏi gì, mọi người bắt đầu ăn cơm.
Vừa ăn được một lúc, tôi đột nhiên thấy mặt Nguyệt Thần đầy sát khí, điều mà tôi chưa hề thấy ở nàng bao giờ. Sau đó, ánh sáng trăng ở tay nàng đột nhiên xuất hiện, nàng quay người xông ra ngoài. Khi cửa mở, Nguyệt Thần nhìn thấy đứa con của ông chủ đang đi ngoài hành lang, cậu bé đang ôm lấy cây cột tỏ ra rất sợ hãi, há hốc mồm nhìn ra hướng vườn trúc, nỗi sợ hãi bất tận trong mắt cậu bé ảnh hưởng đến mọi người, Nguyệt Thần lao nhanh ra hướng vườn trúc, gió đập vào tà áo dài phát ra tiếng rít như xé vải.
Tôi cảm thấy Phượng Hoàng xuất hiện, tôi không yên tâm lắm cho Nguyệt Thần liền lao ra theo. Nhưng dạ dày tôi đột nhiên đau quặn, mắt đổ hoa cà hoa cải, vô số ảo ảnh từ mặt đất bốc lên, tôi quay đầu lại thấy mọi người đổ gục xuống mặt đất, tôi đột nhiên nghĩ rằng thức ăn đã bị bỏ thuốc độc. Chỉ thấy Hoàng Thác và Triều Nhai đứng yên, gió thổi tung tà áo của hai người, mắt tôi tối sầm lại rồi ngã vật ra đất. Khi tôi hôn mê, hình ảnh cuối cùng trước mắt buộc tôi phải kêu thét lên, bởi Hoàng Thác đang ra tay đối với Triều Nhai, vòng bảo vệ của ông ta đã được triền khai toàn bộ, cây đàn vô âm của Triều
Nhai đã xuất hiện, tôi nhìn thấy vô vàn những con bướm trắng biến hóa ra từ dây đàn màu trắng, tôi biết Triều Nhai đã học được thuật ám sát của Điệp Triệt, chỉ có điều tôi không biết là trong hai người ai sẽ bị đối phương giết chết. Còn tôi chẳng thể làm gì được nữa, một màu đen đổ sập xuống trước mắt, tôi bị chôn vùi ở một nơi sâu thẳm nhất không hề có chút ánh sáng nào.
Khi tôi tỉnh lại, tôi vẫn ở trong sảnh lớn, những người xung quanh cũng dần dần tỉnh lại, Hoàng Thác đang chăm sóc những người bị trúng độc, điều kỳ lạ là, Triều Nhai vẫn đứng cạnh đó, Nguyệt Thần cũng đã trở lại, nàng đang ở một góc mà chẳng nói gì.
Tôi đang định hỏi Hoàng Thác xem đã xảy ra chuyện gì, nhưng Hoàng Thác đã đưa mắt ngầm bảo tôi đừng nói. Tôi nhìn mặt Hoàng Thác mà cảm thấy tất cả đã thay đổi ngày càng không thể lường được.
Nguyệt Thần bước tới quỳ trước mặt tôi và nói: Thưa Đại vương, xin thử lỗi cho thần đã không bảo vệ được Người.
Tôi nói, Nguyệt Thần, ngươi không việc gì là tốt rồi, ngươi có đuổi kịp kẻ đó không?
- Không. Thần cứ thẳng đường đuổi theo, nhưng phát hiện ra rằng càng đuổi theo thì sát khí càng nhạt đi, sau đó thần mới biết đã bị người ta dẫn đi, tới khi thần quay lại thì Đại vương đã hôn mê rồi.
Mấy ngày sau tuyết rơi đầy trời, không khí trong ngôi nhà rất nặng nề vì liên tiếp có người chết, có đêm tôi còn nghe thấy tiếng nói của những người đã chết vang vọng trong không trung, những tiếng kêu tuyệt vọng, hoảng sợ, sự phản bội, ám sát, ấm áp, máu tươi, hoa anh đào... tất cả những ảo giác đó bay lẫn trong những bông tuyết trắng như lông ngỗng tử trên trời rơi xuống phủ kín mặt đất đen.
Tôi đã chán những cảm giác nặng nề đen tối do những cái chết đưa lại, màn đêm đen đặc quánh cũng làm cho người ta sợ hãi tới ngộp thở. Nhưng cái chết vẫn không ngừng xuất hiện trong nhà khách, mà lần này, người chết lại là Phiến Phong.
Phiến Phong chết vào buổi trưa, ánh nắng chiếu qua kẽ lá trúc rọi xuống đất thành những giọt long lanh nhỏ bé. Lúc nghe tiếng kêu thảm khốc của Phiến Phong, Hoàng Thác đang ở trong phòng tôi. Nghe thấy tiếng kêu tôi và Thác xông ra, khi chạy tới cửa phòng của Phiến Phong, Hoa Hiệu cũng chạy tới, tiếng thở của cô rất gấp, cô ta nói, vừa rồi hình như tôi... nghe thấy...
Lúc đó, cô ta chẳng nói gì nữa, bởi cô nhìn thấy ánh mắt nặng nề của Hoàng Thác. Tôi tin rằng, bộ mặt của tôi lúc đó cũng giống như vậy. Nhưng khi chúng tôi đẩy cửa phòng của Thác thì cửa không sao mở được, hiển nhiên nó đã bị khóa trong rồi.
Hoàng Thác nói, kẻ giết chết Phiến Phong vẫn còn ở bên trong.
Hoa Hiệu sợ hãi lùi lại, tôi quay lại nhìn cô ta và nói, cô hãy lui ra đi!
Hoàng Thác đưa tay ra làm phép thuật lập ra một vòng bảo vệ cả tôi và Thác. Khi tôi và Thác phá cửa vào, bên trong chẳng có phản ứng gì. Tôi đã chuẩn bị sẵn để đón bất kỳ đòn tấn công nào, nhưng bên trong lại trống vắngnhư nhà mồ. Phiến Phong đang nằm trên mặt đất, khuôn mặt đầy sợ hãi méo đi, giống hệt như những biểu hiện của Y Trạo khi chết.
Vì phòng ở của Phiến Phong ở góc trong cùng nên chẳng có cửa sổ, chỉ duy nhất một cửa ra vào. Rõ ràng là kẻ ám sát còn ở trong phòng.
Nhưng đột nhiên Thác nói với tôi hãy cùng đi tìm xem sao, sau đó Thác quay lại nói với Hoa Hiệu, hãy ở lại trong phòng, canh chừng cửa ra vào, không để cho sát thủ chạy thoát.
Thác kéo tôi ra khỏi phòng, tôi muốn nói với Thác sao lại để mình cô ta ở lại, nhưng khi Thác lôi tôi đi và làm một thế tay rất kỳ quặc, tôi biết hẳn Thác có ý đồ nào đó liền cùng Thác đi ra. Nhưng khi rẽ ra hành lang, Thác đột nhiên dừng lại và bảo tôi hãy yên lặng nhìn xem.
Từ chỗ tôi đứng chỉ nhìn thấy nửa thân trên của Hoa Hiệu, còn nửa dưới bị lan can hành lang che khuất, nhưng vẫn thấy rõ cô ta bước tới, mở cánh cửa phòng, trên mặt để lộ nụ cười bí hiểm và kỳ dị. Chẳng thấy ai đi ra, chỉ thấy Hoa Hiệu thò đầu nhìn về phía cuối hành lang, có vẻ như có người đã ra khỏi phòng đi về phía ấy. Tôi quay lại nhìn Thác, Thác vẫn tỏ ra lạnh lùng và cứng rắn. Trong chớp mắt, tôi đột nhiên nghĩ ra rất nhiều chuyện.
Rượu ở đây có tiếng là ngon, Thương Liệt là người rất biết thưởng thức, ông ta uống rất nhiều, đám người hầu rất thích nên khi đưa thức ăn tới luôn nở nụ cười rất tươi trên miệng, chẳng có ai lại không vui vì thu nhập cao.
Tôi, Hoàng Thác và Nguyệt Thần ngồi cùng bàn, còn Nha Chiếu, Ngư Phá và Thương Liệt ngồi cùng với nhau, chỉ Hoa Hiệu là không tới mà thôi.
Hoàng Thác uống hết ly rượu rồi quay sang nói với Thương Liệt rằng, bây giờ ông ta có thể nói Phượng Hoàng là ai rồi.
Sau đó, tôi thấy chiếc ly trong tay Liệt rơi xuống choang một tiếng vỡ vụn ra, rượu đổ đầy mặt đất, Nha Chiếu và Ngư Phá ngồi bên cạnh mặt biến sắc.
- Phượng Hoàng là ai vậy? - Thương Liệt hỏi.
Hoàng Thác đột nhiên triển khai vòng bảo vệ, ánh trăng trong tay Nguyệt Thần bỗng biến thành một thanh kiếm ánh sáng, còn tôi cũng tập trung toàn bộ sức mạnh của mình, xung quanh người có vô số những thỏi băng bay, tiếng đàn của Triều Nhai cũng trở nên sắc nhọn chói tai, vô số những con bướm trắng từ dây đàn bay rợp cả phòng.
Không khí đột nhiên trở nên vô cùng căng thẳng, gió từ mặt đất bốc lên xoáy tròn, tóc và áo của mọi người đều bị thổi tung, ánh đèn trong phòng runrẩy, mặt đất dưới chân cũng rung lên bởi phép thuật của tất cả mọi người đã được hội tụ lại. Bọn người của Thương Liệt hiển nhiên cũng hiểu được rằng một trận đại chiến sắp nổ ra. Thương Liệt và tay chân của ông ta đều khoanh ngón tay đeo nhẫn gọi ra những vũ khí của họ. Vũ khí của Nha Chiếu là một thanh kiếm băng dài mà mảnh màu tím. Còn của Ngư Phá là cây kiếm ba cạnh luôn biến hóa, Đồng Nhiếp thì có trong tay một cây pháp trượng màu trắng xanh,
còn vũ khí của Thương Liệt là một cây cung lửa, những mũi tên có thân màu đỏ, đó là thứ sức mạnh đã bị cấm sử dụng trong truyền thuyết của bộ tộc Băng.
Tên hầu của nhà khách sợ không nói thành lời đang ngồi ngây trên mặt đất, hắn cố bò dậy nhưng nỗi sợ hãi đã làm cho hắn chẳng còn chút sức lực nào, hắn vẫn cố sức lết ra phía cửa, miệng lắp bắp xin đừng giết, đừng giết.
Nhanh như chớp, Hoàng Thác chặn hắn lại và nói, ngươi yên tâm, ta sẽ không dễ dàng giết ngươi đâu, vì ngươi đã giết quá nhiều người rồi, ta không dễ dàng để cho ngươi chết, hỡi Phượng Hoàng!
Sắc mặt hắn trở nên rất bình tĩnh cứ như một người hoàn toàn khác chứ không phải một kẻ vừa sợ chết khiếp ban nãy nữa. Ánh mắt hắn rất kiên định và sắc lạnh, vẻ sát khí đằng đằng. Hắn quay lại nhìn tôi, Nguyệt Thần và Triều Nhai rồi hỏi:
- Làm sao các người biết ta là Phượng Hoàng.
Triều Nhai cười nhạt quay lại nói với Phượng Hoàng hãy mời Hoa Hiệu tới chơi một bản đàn cho chúng tôi nghe.
Sắc mặt của Phượng Hoàng trở nên rất khó coi, cô ta nói vì sao ta là Hoa Hiệu mà ngươi cũng biết?
Thương Liệt tỏ ra vô cùng kinh ngạc, tôi biết chẳng ai nghĩ lại là Hiệu Hoa, quả là một kế hoạch ám sát gần như hoàn mĩ, rất liên hoàn.
Phượng Hoàng quay lại nhìn ra ngoài cửa sổ rồi nói khẽ: Quạ đen, ngươi có thể ra được rồi đó!
Cô ta vừa dứt lời, mọi người đều quay lại nhìn ra cửa sổ, bên ngoài chỉ thấy một màn đêm dằng dặc, nhưng tôi chợt nghe thấy tiếng tà áo dài phất trong gió, khi tôi quay lại, Phượng Hoàng đã vọt ra phía cửa sổ, tôi cho rằng thị đang định thoát ra khỏi căn phòng này, bởi chẳng ai có thể đối phó nổi với những người trong phòng.
Khi tới gần cửa sổ bỗng Phượng Hoàng ngã xoài xuống, hắn quay đầu lại nhìn tôi tỏ vẻ vô cùng tức giận.
Tôi bước tới nói với thị rằng, ta đã biết nhà ngươi sẽ tháo chạy nên đã biến bốn bức tường kể cả cửa ra vào và cửa sổ xung quanh thành băng giá kiên cố, nếu ta không hóa giải ảo thuật, người bên trong sẽ chẳng thể ra nổi.
Mặt Phượng Hoàng tối sầm lại trông già đi kinh khủng. Thị hỏi tôi tứ lúc nào đã nghi ngờ mình, tôi nói ngay từ ngày đầu tiên khi có kẻ ám sát tôi xuất hiện trên mái nhà.
- Làm sao ngươi biết đó là ta?
- Bởi ngay từ hôm đó, sau tà áo dài màu xám, bên trong ngươi chẳng mặc thứ gì cả. Hoàng Thác nói kẻ mặc áo đen kia không thể kịp thay quần áo, nhưng để cởi bỏ một bộ quần áo ra thì chẳng mất nhiều thời gian lắm.
- Vì vậy ngươi mới nghi ngờ ta ư?
- Chưa. Lúc đó còn một số việc rất kỳ lạ. Sau đó là việc ngươi giết bà Trâm.
- Ngươi làm sao biết ta giết bà ấy?
- Ngay lúc bấy giờ ta chưa biết ngươi giết bà ta thật, ta chỉ nghi ngờ tên hầu, lúc ấy ta chưa biết ngươi chính là tên hầu kia.
- Vì sao vậy?
- Bởi sáng hôm đó, ta và Nguyệt Thần đã hẹn với bà Trâm tối sẽ gặp nhau, nhưng trước khi đến gặp thì bà ta đã bị giết chết. Lúc ta nói chuyện đó chỉ có tên hầu ở bên cạnh, do đó ta đã bắt đầu nghi ngờ. Sau khi ngươi giết bà Trâm, ngươi đã lấy cây kim Phượng Hoàng mà ngươi sử dụng đặt vào tay bà ta, rồi lấy kim trên đầu bà ta mang đi chôn xuống đất. Ngươi làm vậy để chúng ta nghi bà Trâm chính là Phượng Hoàng. Thực ra, ta cũng tin như vậy, nhưng ngươi lại quên rằng kim có độc, chất độc đó sẽ lan ra làm cỏ trên mặt đất chết hết, vì vậy chúng ta phát hiện bà Trâm không phải là Phượng Hoàng, mà
người giết chết bà ta mới thực sự là Phượng Hoàng. Bởi khi ngươi lấy cây kim độc trên đầu của bà ta nhưng lại quên đeo găng tay, cho nên tay ngươi đã bị nhiễm độc. Nhưng ngươi không muốn để ai biết, cho nên từ đó trở đi ngươi không bao giờ gẩy đàn cả.
Nhưng ngươi buộc phải giải độc, lại không thể đường hoàng đi mua thuốc giải độc được, vì vậy phải bí mật giết chết vị đại phu ở hiệu thuốc sau đó mới giả danh ông ta để tìm các vị thuốc quý kia rồi cho vào số thuốc của hiệu thuốc. Ngươi cố ý làm cho chúng ta chuyển mục tiêu nghi ngờ nên cố ý sửa ba vị thuốc cuối cùng trong đơn thuốc của Y Trạo thành ba vị giải độc, nhưng điều đó càng làm cho chúng ta có lý do để nghi ngờ hơn.
- Vì sao lại như vậy? - Phượng Hoàng hỏi tôi.
- Bởi một đại phu ở trần thế không thể nào biết được tới ba vị thuốc giải độc kia, do đó ta và Hoàng Thác biết rõ vị đại phu nọ không phải là người trần thế và Y Trạo cũng không phải là Phượng Hoàng được.
- Sau rồi sao nữa?
- Sau đấy nhà ngươi đi ăn cắp thuốc, bị Y Trạo phát hiện thế là nhà ngươi giết Y Trạo.
Tôi nghe thấy tiếng cười của Phượng Hoàng, thị nói, nếu tôi giết Y Trạo thì làm sao lại luôn ngồi cùng uống rượu với Thương Liệt được. - Tôi nhìn thấy mắt thị đầy vẻ nhạo báng.
- Lúc đó, ta nhìn thấy ngươi xuất hiện trong sảnh lớn nên không tin lắm vào phán đoán của ta. Lúc ấy Triều Nhai không ở đó nên ta đã nghĩ có thể có hai khả năng, một là nhà ngươi vẫn luôn ở sảnh lớn, còn kẻ ăn cắp thuốc chính là tên hầu của nhà hàng, còn tên hầu kia ta lại nghi hắn là Quạ đen.
Khả năng thứ hai là Triều Nhai, ta không thể thừa nhận nhà ngươi bố trí Triều Nhai không ở hiện trường quả là cao tay, nó làm chúng ta đều nghi ngờ Triều Nhai.
- Vậy vì sao các người lại quay sang tin Triều Nhai và nghi ngờ ta?
- Bởi việc hạ độc hôm đó. Ta có thể nói rằng kế sách của ngươi khá là inh, ngươi cố ý gọi Quạ đen dẫn dụ Nguyệt Thần, bởi nếu Nguyệt Thần ở đó, khi thấy cơm và thức ăn nàng sẽ nhận ra ngay có kẻ hạ độc để ám sát, nên sau khi Nguyệt Thần đi thì mọi người mới bị trúng độc. Lúc đó, ngươi cũng giả vờ bị trúng độc, đó là một chiêu cao thủ nhất của ngươi, nhưng cũng là chiêu đã làm cho ngươi lòi đuôi ra. Vì trước đó Hoàng Thác đã kiểm tra thức ăn rồi, biết thức ăn bị bỏ thuốc độc, nhưng Thác không nói ra, chỉ có điều Thác đã trộn lẫn thuốc giải độc vào, để khi ăn kẻ nào không bị trúng độc sẽ chính là kẻ hạ độc. Nhưng do lúc đó Triều Nhai lại chẳng ăn gì cả nên cũng không bị trúng
độc, còn ngươi lại giả vờ trúng độc, vì vậy mà Hoàng Thác nghĩ ngay Triều Nhai chính là người hạ độc.
- Vậy vì sao Hoàng Thác không nghi ngờ?
- Bởi ngươi đã ăn thuốc giải độc của Hoàng Thác.
- Mọi người đều ăn cả sao không nghi ngờ họ?
- Bởi thuốc giải độc của ta vốn là một thứ thuốc độc - Hoàng Thác chậm rãi nói - người ăn phải sắc mặt sẽ biến thành màu xanh mà bản thân không hề biết. Khi ta chuẩn bị ra tay với Triều Nhai mới phát hiện ra mặt ngươi biến sắc, vậy nên ta biết, kẻ thực sự hạ độc chính là ngươi.
- Cũng chính từ lúc ấy - tôi nói tiếp - ta mới hoàn toàn tin Triều Nhai, mới hỏi cô ta rằng vì sao trong những đêm xảy ra sự việc nàng đều không có trong phòng nhưng lại luôn nói dối là đang ngủ, còn Triều Nhai một mực nói mình không đi đâu cả, vì thế tối đó, ta đã nấp trong phòng của nàng, tới nửa đêm thì ngươi mò vào, sau đó ngươi đã dùng mê hồn hương làm nàng mê đi rồi khiêng xuống gầm giường và đi ra. Chính vì vậy mà ta biết rằng, mấy lần trước khi có việc xảy ra, ta vào phòng Triều Nhai thì chẳng bao giờ thấy nàng ở trong phòng mà nàng đang ở dưới gầm giường. Khi trời gần sáng, nhà ngươi lại lẻn vào bế cô ta lên giương, bởi vậy Triều Nhai nói cô luôn ở trong phòng. Kế hoạch của nhà ngươi quả là rất chu đáo.
- Và vì thế mà từ lúc đó các người bắt đầu nghi ngờ ta ư?
- Đúng vậy, nhưng chưa dám khẳng định. Cho tới khi Phiến Phong bị nạn, ta mới hoàn toàn xác định Phượng Hoàng chính là ngươi.
- Hôm đó các ngươi cố ý giữ ta ở lại đó ư?
- Đúng! Ta đang ở trong góc khuất nhìn thấy ngươi mở cửa thả kẻ ám sát ra, mặc dù chẳng thấy ai ra cả, nhưng ta biết nhất định đã có người từ trong phòng đi ra rồi, cho dù hắn dùng phép ẩn thân hay cách gì khác.
- Vì sao các ngươi nghĩ tiểu nhị cũng là ta?
- Chúng ta đã từng tưởng rằng tiểu nhị là Quạ đen, nhưng sau đó mới phát hiện tiểu nhị chính là ngươi. Trước hết không bao giờ thấy ngươi và tiểu nhị cùng xuất hiện, mỗi khi có hắn thì không có ngươi, khi chúng ta chờ ngươi thì bao giờ cũng là tiểu nhị đi ra rồi thì một lúc sau người mới tới và không bao giờ dùng son phấn cả, mặt luôn trắng bệch, vì ngươi vừa xóa đi lớp hóa trang thành tiểu nhị. Khi chúng ta đi tìm bà Trâm và Y Trạo lại chỉ thấy tiểu nhị ở phía trước và chỉ có y mới nghe được chuyện chúng ta nói. Còn nữa, hôm mà Hoàng Thác nhặt được cây kiếm có cán rất trơn thì về sau ta mới phát hiện ra,
đó chẳng phải là thứ gì khác mà là dầu dùng trong nhà bếp, và cũng chỉ có tiểu nhị tay mới dính nhiều dầu mỡ mà thôi. Sau đó, ta đã nhìn kỹ tay ngươi - tay của một người chơi đàn - chắc chắn không thể có nhiều dầu mỡ đến vậy.
Ngươi có thể nhìn tay Triều Nhai rất sạch sẽ, mềm mại, dày dặn và khô. Đó là điều kiện của người chơi đàn.
Hoàng Thác đi tới bên tôi và nói:
- Khi chúng ta biết tiểu nhị trong quán chính là ngươi thì chúng ta đoán Quạ đen sẽ là người khác, bởi khi giết chết Y Trạo, ngươi đúng là đang uống rượu với Thương Liệt thật, cho nên kẻ giết Y Trạo phải là Quạ đen, còn khi Phiến Phong chết cửa lại bị khóa trong mà lúc đó ta và ngươi lại ở ngoài, nên sát thủ phải là Quạ đen.
Phượng Hoàng nhìn tôi thở dài, nói:
- Ta luôn cho rằng ngươi là tên vua bất tài, một tên hôn quân nhu nhược, hóa ra là ta đã sai. Ngươi không nói ra nhưng đều hiểu rõ mọi việc. Ngươi có còn gì hỏi ta nữa không?
- Còn. Thứ nhất, chúng ta không nhìn thấy Quạ đen từ phòng đó đi xa, vậy liệu có phải hắn ẩn thân? Nhưng trong thế giới này thì thuật ẩn thân và ảo ảnh di hình đều bị phong bế rồi, vì sao Quạ đen lại có thể sử dụng được? Thứ hai, Quạ đen là ai?
Phượng Hoàng nhìn tôi cười một cách kỳ cục rồi nói:
- Ngươi mãi mãi không thể biết được, hóa ra ngươi không phải cái gì cũng biết hết, ta quyết không thể nói ra cho ngươi.
- Ngươi không thể chống lại được đâu.
- Nếu ta nói cho ngươi biết thì dù ngươi không giết ta thì Quạ đen cũng giết ta, ta chẳng có sức mạnh để địch lại Quạ đen. Nhưng nếu ta không nói, có thể Quạ đen sẽ cứu ta, bởi vì...
Phượng Hoàng nói chưa dứt lời, tôi đã nhìn thấy một màu xanh kỳ lạ trên mặt cô ta, nhưng bản thân cô ta lại không hay biết gì, tôi vội nói: Hoa Hiệu, mặt cô...
- Mặt ta làm sao? - Thái độ đó cho thấy cô ta chưa biết mình đã trúng độc, xem ra thứ thuốc độc này làm người ta không nhận ra được.
Sau đó, cô ta đột nhiên hét lên, có lẽ đã hiểu ra vấn đề, cô ta chạy tới tấm gương treo ở tường rồi gào lên như điên như dại, không thể, Quạ đen không thế giết ta.
- Quạ đen là, là... - Cô ta chưa kịp nói hết câu thì đã chẳng bao giờ nói được nữa rồi.
Quạ đen không tin bất kỳ ai mà chỉ tin người đã chết rồi, chỉ có người chết mới giữ được bí mật.
Tuyết cứ rơi mãi không ngừng, mới đó mà đã tới năm mới của trần thế.
Còn nhớ những năm lưu lạc nơi trần thế, tôi chưa bao giờ thực sự cảm nhận được cái tết náo nhiệt nhất ở thế gian này. Trước cửa nhà khách treo đầy đèn đỏ, tuyết trên trời cứ rơi mãi, càng gần tết càng rơi nhiều, những bông hoa tuyết cứ bay bay rơi xuống phủ kín mặt đất, những chiếc đèn lồng lắc lư trong gió, ánh sáng đỏ ấm áp tỏa khắp phố phường.
Trên phố, trẻ con chạy nhảy nô đùa trong tuyết, chúng mặc những bộ quần áo chống rét rất nặng nề, nhưng nụ cười rất rạng rỡ, chúng rất vui vẻ, vô tư. Có lúc, Nguyệt Thần và Hoàng Thác đứng trước cửa, thỉnh thoảng có những đứa trẻ chạy qua nhìn họ hiếu kỳ. Bởi họ có mái tóc trắng bạc thuần khiết, chảy dài xuống theo tà áo tới tận đất trông như một dòng suối thủy ngân rất đẹp. Cả hai người có lúc còn ngồi xuống chơi cùng lũ trẻ, chẳng ai có thể ngờ họ lại có vai trò lợi hại nhất trong thành Nhẫn Tuyết được, trong đó, Nguyệt Thần là một cao thủ ám sát bậc nhất. Nhưng khi tôi nhìn thấy nụ cười của
Nguyệt Thần, đột nhiên lại cảm thấy rất ấm áp, tôi chưa bao giờ nhìn thấy nàng cười bởi khi nàng cười giống như một trận gió ấm nhất vậy. par Triều Nhai rất thích cậu bé con ông chủ nhà khách, tôi thấy cậu bé rất giống Thích thủa nhỏ. Trong thời gian chúng tôi lưu lạc, tôi thấy mình giống như người cha của Thích, bởi tôi đã lớn lên và trưởng thành, chững chạc giống như người cha của chúng tôi vậy, còn Thích, bộ mặt và nụ cười vẫn hoàn toàn là một đứa trẻ, đôi mắt to, đẹp trông như con gái vậy. Tôi luôn bế Thích đi hết phố nọ sang phố kia, Thích háo hức nhìn ra xung quanh rất vui mà lòng tôi cũng vui lây. Sau đó, chúng tôi trở về thành Nhẫn Tuyết, cũng là lúc Thích lớn lên và trở thành một Hoàng tử có phần khôi ngô tuấn tú hơn cả tôi thì Thích
nói với tôi rằng, thực ra Thích nhớ nhất nụ cười của tôi nơi trần thế, khi đó mắt tôi mở to rồi nhắm lại tuyết rơi đầy trên đôi lông mày, hàm răng trắng, nụ cười và khóe miệng tôi rất ấm áp mà kiên cường. Thích cúi xuống hôn lên đôi lông mày của tôi, tóc xõa xuống che kín mặt tôi.
Dần dần không còn ai ở nhà khách đó nữa vì các lãng tử đã quay về cả rồi, ngay cả những người không nhà cửa cũng lần lượt bỏ đi tìm nơi khác, bởi nếu không, một mình ở lại đây hằng đêm nghe tuyết rơi ngoài cửa sổ nơi ngõ vắng, chắc chắn sẽ cảm thấy cô đơn và trống trải vô cùng. par Riêng tôi đã sống mấy trăm năm, hàng ngày lê gót trong thành Nhẫn Tuyết hoang vu như ngôi nhà mồ, hàng đêm ngồi trên nóc nhà nhìn những vì sao rạch đêm đen rơi xuống, nghe tiếng hát của nhân ngư nhỏ bên biển băng mà lòng luôn nhớ về mấy trăm năm đã qua, ở đó, mỗi khi hoàng hôn rủ xuống lại nghe thấy tiếng hát của nhân ngư.
Nhà khách có một người hầu mới, đó là một người bình thường rất thật thà, sinh trưởng nơi trần thế luôn ngạc nhiên trước những mái tóc trắng bạc dài quét đất của chúng tôi.
Năm mới sắp tới, nụ cười trên mặt mọi người càng ngày càng ấm áp và yên tâm hơn, tôi nhìn họ mà lòng luôn cảm thấy một niềm vui bình dị. Lúc vui vẻ, mấy người chúng tôi còn đang trong sân rộng trước những lan can tre thi triển ảo thuật của mình, Triều Nhai gảy đàn gọi về vô số những con bướm, bayrợp cả bầu trời khoảng sân rộng; Nguyệt Thần làm cho ánh trăng trong tay mình vỡ vụn ra thành từng mảnh nhỏ sáng lấp lánh rồi treo chúng lên những cành cây trơ trụi khẳng khưu trông cứ nhấp nháy như những vì sao đêm. Riêng tôi luôn dùng ảo thuật cuốn tuyết lên, sau đó mới uốn cong ngón tay đeo nhẫn,
biến những bông hoa tuyết thành những cánh hoa anh đào mang màu phấn hồng. Tên hầu nhìn thấy ngây người ra, có lúc anh ta còn đưa cả vợ con tới xem, trong con mắt họ mấy người tóc dài chúng tôi là những vị thần vĩ đại.
Đây là lần đầu tiên trong đời tôi nhận thấy niềm vui giản đơn mà trong sáng của trần thế, tôi phát hiện ra rằng pháp thuật không chỉ để giết chóc, mang lại cái chết, máu, mà nó còn đem về hy vọng, chính nghĩa và một tâm hồn cao cả.
Nhưng vào chính cái đêm giao thừa, bóng đen của sự chết chóc lại bao phủ khắp nơi, nỗi thảm khốc và tan nát đã bị lãng quên nay lại ùa về như một thứ ác mộng.
Tối đó, khì chúng tôi đang ngồi bên những chiếc bàn kê trong sảnh lớn bỗng vọng vào tiếng kêu của Nha Chiếu, tôi nhìn thấy mặt của Nguyệt Thần và Hoàng Thác biến sắc, Hoàng Thác kêu lên: Quạ đen tới!
Nhưng khi mọi người cùng xông ra ngoài lại chỉ nhìn thấy Nha Chiếu đứng giữa sân tóc tai rũ rượi, ánh mắt rất kỳ dị, thân trên để trần, tay cầm thanh kiếm băng màu tím đặc biệt của mình, nụ cười trên môi phủ một bóng đen kỳ lạ.
- Ngươi đang làm gì vậy? - Thương Liệt bước tới hỏi Nha Chiếu.
Nha Chiếu không nói gì, trong mắt đột nhiên chỉ thấy phủ kín những bông hoa tuyết bất tận, nhưng vẫn không che hết được bóng đen của màu xanh trong mắt mà thôi.
Vào lúc Thương Liệt đang bước tới, bỗng có tiếng của Triều Nhai loáng thoáng từ phía sau, lúc này chỉ còn nàng có thể thao túng giấc mơ, nàng bảo Thương Liệt phải lùi lại bởi vì Nha Chiếu đã bị một giấc mơ khống chế rồi.
Tiếng đàn của Triều Nhai rất hối hả, trong chớp mắt như có vô vàn những sợi tơ màu trắng xuyên vào không gian, vô vàn những con bướm trắng xuất hiện trong không trung. Tôi biết Triều Nhai đang điều khiển giấc mơ, nàng muốn mang giấc mơ đáng sợ của Nha Chiếu chuyển sang giấc mơ do nàng sáng tạo ra.
Tóc Nha Chiếu đột nhiên bay tung lên, xung quanh anh ta như nổi lên trận cuồng phong xoáy tít. Nhưng khi tôi quay lại nhìn Triều Nhai lại thấy máu trắng từ miệng nàng chảy ròng ròng xuống mặt đất đen, biến thành vô sốnhững cánh bướm vỡ vụn. Sau đó Hoàng Thác chạy tới đưa nàng vào trong vòng bảo vệ của mình.
Ánh mắt của Triều Nhai trở nên đờ đẫn, trước khi ngất đi nàng nói với tôi rằng, nàng không thể khống chế nổi giấc mơ đó vì kẻ tạo ra nó quá mạnh.
Cái chết của Nha Chiếu quá thảm khốc, anh ta giơ cao thanh kiếm băng màu tím của mình lên rồi đâm thẳng vào ngực mình, khi thanh kiếm ngập sâu vào ngực, tôi nghe thấy tiếng kêu xé lòng của anh, rồi sau đó bóng đen trong mắt biến mất, con ngươi đột nhiên trở lại màu trắng tinh khôi, tôi biết anh đã ra khỏi giấc mơ, nhưng lại phải đối mặt với cái chết thực sự.
Anh ta ngã ngửa ra sau, khi người anh ta đổ xuống, anh ta nhìn chúng tôi miệng lắp bắp: Thưa Đại vương, thưa Thái tử, xin hãy cẩn thận với màu xanh của băng...
Rồi anh ta chẳng nói thêm được lời nào, mắt nhìn lên trời xanh mà chẳng còn chút biểu hiện gì.
Năm mới chậm rãi đến trong không khí chết chóc màu trắng. Tôi cảm thấy tê tái vô cùng.
Tuyết lại bắt đầu rơi nhiều, rơi xuống đầy cả thế giới này.
Ánh đèn dầu trên bàn tỏa ánh mềm mại khắp nhà, ánh sáng vàng của nó làm giảm không khí chết chóc của mùa đông.
Triều Nhai vẫn nằm trên giường, vòng bảo vệ của Hoàng Thác vẫn chụp lên người nàng.
Nguyệt Thần đứng bên cửa sổ, gió từ ngoài thổi vào làm tóc nàng xõa ra.
- Thưa Đại vương, Người nhìn nhận cái chết của Nha Chiếu thế nào? - Hoàng Thác hỏi tôi.
- Có thể là do Quạ đen gây ra - Tôi đáp.
- Chưa chắc - Nguyệt Thần nói - Chưa biết chừng Tây phương hộ pháp đã xuất hiện.
- Vậy thì ai gây ra? - Tôi hỏi lại.
- Có thể là bất kỳ ai - Nguyệt Thần nhìn Triều Nhai rồi nói tiếp - Người có thể ra ngoài một lát được không?
Mùa đông ở trần thế có vẻ còn lạnh hơn ở Nhẫn Tuyết. Mặc dù là năm mới nhưng những đứa trẻ chơi chán, mệt mỏi cũng bỏ về nhà, con đường trông càng lạnh lẽo hơn, những chiếc đèn lồng nhỏ xíu mà lũ trẻ bỏ lại đang nằm chỏng chơ trên mặt đường phủ tuyết lạnh lẽo vô cùng.
Nguyệt Thần đứng trong gió, mái tóc và tà áo của nàng bay phấp phới.
Nàng nói với tôi:
- Thưa Đại vương, thần trịnh trọng nói với người một vài việc. Thứ nhất thần nghi ngờ Triều Nhai, thứ hai nghi ngờ Hoàng Thác, trong hai người có một là Tây phương hộ pháp.
Mắt Nguyệt Thần tràn ngập gió tuyết, tôi đột nhiên cảm thấy như người bị co rút lại và hỏi nàng một cách rất yếu ớt: Vì sao vậy?
- Xin hỏi Đai vương, sau khi Triều Nhai đi qua điện thần Phá Thiên của Điệp Triệt, Người cảm thấy khả năng điều khiển giấc mơ của Triều Nhai ra sao?
- Đã đạt tới linh lúc thượng đẳng của nhà chiêm tinh rồi.
- So với thần thì sao?
- Nói thực, còn hơn cả nàng nữa!
- Đúng vậy, mức độ làm ra giấc mơ của Nhai hơn thần, ở một góc độ nào đó, có thể coi cô ta là một nhà chiêm tinh ưu tú. Trong thuật ám sát mà thần đã học có phương pháp điều khiển giấc mơ này, mà Nha Chiếu cũng chết bởi cách này. Nhưng, Đại vương có biết không, giấc mơ bao trùm lấy Nha Chiếu hôm nay thì ngay cả khả năng của thần cũng có thể phá nổi, nhưng vì lúc đó Triều Nhai đã ra tay trước, nên thần cho rằng việc phá nó đối với Triều Nhai là việc rất đơn giản nên đã không ra tay. Nhưng Triều Nhai lại bị giấc mơ đó làm cho bị thương, tới khi thần chuẩn bị ra tay thì Nha Chiếu đã chết rồi.
- Ý của nàng là...
- Ý của thần là - Nguyệt Thần nhìn tôi và chậm rãi nói - Triều Nhai hoàn toàn có thể phá được nó, nhưng cô ta không cứu Triều Nhai, mà cô ta chỉ giả bị thương mà thôi.
- Vậy Hoàng Thác thì sao?
- Nếu Triều Nhai giả bị thương thì Hoàng Thác phải phát hiện nhưng Hoàng Thác lại chẳng nói ra, hai người cùng diễn kịch. Ở Hoàng Thác có rấtnhiều điều mà thần không hiểu nổi, nhưng cụ thể là gì thì thần lại không biết, tóm lại đó chỉ là do trực giác mách bảo.
Gió tử đầu phố thổi tới phía sau lưng Nguyệt Thần, cơn gió như những mảnh băng sắc nhọn lạnh lẽo cắt lên da mặt tôi từng nhát một. Tôi nhìn Nguyệt Thần mà cảm thấy tuyệt vọng hơn bao giờ hết.
Tôi không thể không thừa nhận, Tây phương hộ pháp là một đối thủ lợi hại nhất mà tôi đã gặp, thậm chí ông ta không cần phải hiện diện mà cũng cógiết chết những người ngay cạnh tôi, còn tôi chỉ đứng ở giữa bãi tuyết mà nhìn từng người lần lượt chết đi.
Tối đó, khi tôi trở về nhà khách, đèn trong phòng Triều Nhai đã tắt, cả phòng của Hoàng Thác cũng vậy.
Tôi ngả lưng ra giường, nhưng ác mộng cứ đè nặng lên người tôi, vong linh những người đã chết vẫn bay lượn trên không trung, họ cười, nói ngay bên tai tôi. Những sự việc trước kia ùa về cuốn theo biết bao ký ức của tôi, tất cả những việc đã đổ vỡ tan tành, ầm ầm đổ xuống, còn tôi một mình đang giữa đống đổ nát hoang tan, đứng trước những thi thể mà nước mắt lưng tròng.
Vài con chim tuyết khổng lồ bay ngang trời, những tiếng kêu lanh lảnh của nó tạo ra những vết thương hằn sâu không thể nhạt phai trong mắt tôi.
Trong giấc mơ cuối cùng, mặt đất lại nở ra đầy sen đỏ rực như lửa, những đóa hoa đỏ ùa về như mấy trăm năm trước khi Thích chết, chúng đổ xuống từ những đám mây trên đầu, cuối cùng đã làm tất cả bị ngập chìm.
Ánh lửa rực trời.
Người thứ hai bị giấc mơ làm chết là Ngư Phá. Cũng giống như Nha Chiếu, Ngư Phá đã dùng thanh kiếm ba cạnh tự đâm xuyên qua ngực mình,vẫn là ánh mắt xanh kỳ lạ, nụ cười rất mơ hồ và cuồng phong từ mặt đất ào ào nổi lên.
Khi chúng tôi đến bên Ngư Phá, Phá đã dùng kiếm ba cạnh đâm thủng ngực mình rồi, dù là Nguyệt Thần hay Triều Nhai đều không kịp đến hóa giải phép thuật này.
Rồi đến người thứ ba, đó là Đồng Nhiếp.
Khi Thương Liệt nhìn thấy Đồng Nhiếp ngã trên mặt đất mà chẳng nói câu nào, nhưng mắt vẫn mở trừng trừng nhìn trời xanh, ông ta trầm ngâm hồi lâu mới nói, thế là tất cả người của ta đã chết hết, người tiếp theo có lẽ sẽ là ta.
Năm mới rồi sẽ qua đi, nhưng bầu không khí năm mới lại quá nhiều tử khí. Chúng tôi không báo tin này cho anh người hầu mới của nhà khách, vì anh ta là người rất đơn giản và ngây thơ, vì có lẽ cả đời chưa bao giờ thấy những cái chết ly kì và những vụ ám sát kì quặc như vậy. Anh ta chỉ là một người trần thế đơn giản mà hạnh phúc, thỏa mãn với cuộc sống của mình, chứ không như tôi, một vị vua phải chịu biết bao ràng buộc, có linh lực tuyệt đỉnh mà mãi vẫn cô độc.
Người hầu vẫn làm việc bình thường như mọi ngày, luôn luôn nở nụ cười đón tiếp những chàng lãng tử và khách lữ hành. Đứa con ông chủ vẫn hàng ngày chơi với quả bóng màu xanh, khi nhìn thấy chúng tôi vẫn cười rất tươi vàgọi chúng tôi đến cùng chơi, cả thế gian vẫn vận hành theo quỹ đạo vốn có của nó chứ không có gì khác.
Nhưng bầu không khí chết chóc vẫn trùm, vẫn như những đám mây đen nặng nề không tan nổi, không hề có ánh sáng và chẳng hề sợ gió bão.
Không ai biết Nha Chiếu và Ngư Phá tại sao lại bị giấc mơ thao túng, về mặt linh lực mà nói, rõ ràng họ không dễ gì bị thao túng đến mức bị ám sát chết, trừ khi ngay từ lúc bắt đầu không phòng bị gì, sau khi rơi vào giấc mơ thì không thể ra được nữa. Nhưng sau những cái chết kỳ dị đó, Nha Chiếu và Ngư Phá không thể không cảnh giác, trừ khi kẻ dùng giấc mơ khống chế họ lại là người mà họ không bao giờ nghi ngờ cả. Sau khi xảy ra sự việc Nguyệt Thần nói với tôi, tôi nghe mà không nói gì, Hoàng Thác cũng vậy, bởi chúng tôi đều không biết phải làm thế nào, hoàn toàn mất phương hướng, cứ như là chỉ biết chờ đợi Quạ đen và Tây phương hộ pháp đến tiếp tục giết người vậy.
Hoàng Thác đột nhiên nói, Đại vương, Người còn nhớ giấc mơ thứ ba của Tinh Quỹ hay không?
Nguyệt Thần mắt sáng lên, nàng nói, đương nhiên là nhớ, Tinh Quỹ nói với chúng ta, khi không có manh mối gì, không có phương hướng để tiến lên nữa thì hãy mở nó ra.
Giấc mơ đó rất dài nhưng vô cùng đơn giản, bởi cả giấc mơ chỉ có Anh Không Thích - em tôi. Khuôn mặt khôi ngô tuấn tú của Thích hiện ra trong giấc mơ, Thích đang chạy ra xa, hoa anh đào rơi xuống phủ kín bước chân Thích. Ở một nơi xa nhất, chỗ ranh giới đất trời, Thích trở nên nhỏ bé như hồi còn trẻ con. Nó đứng đó mỉm cười với tôi, tuyết rơi rơi trên tay nó trở thành một quả cầu tuyết trắng tinh, tiếng nói của Thích vọng lại từ rất xa: Đại huynh, Người có vui không? Có vui không?
Tôi không có cách nào hiểu nổi vì sao Tinh Quỹ lại đem giấc mơ này đến cho tôi, phải chăng là để tôi nhớ về Thích hay có dụng ý gì khác? Nếu chỉ để tôi nhớ về Thích thì vì sao lại để chúng tôi tới tận khi không có manh mối gì mới mở ra?
Đột nhiên tôi nghĩ tới giấc mơ mà Tinh Cựu dành cho tôi, đó là giấc mơ mà tôi và Thích thông qua tư cách của nhà ảo thuật ở đồi Lạc Anh, có lẽ nó cũng giống giấc mò đó, chỉ một vài chi tiết mà tôi đã bỏ qua.
Thế là tôi lại bước vào giấc mơ, tôi quan sát rất cẩn thận những sư việc xảy ra và cuối cùng đã phát hiện điều bí mật mà Tinh Quỹ muốn nói cho tôi biết.
Tuyết đã ngừng rơi, chỉ còn lớp tuyết dày đọng lại trên những lá trúc mỗi khi gió thổi lại rơi lả tả.
Triều Nhai đang đánh đàn trong sân, tôi và Hoàng Thác trong phòng, chẳng ai nói với nhau câu nào.
Sau đó, bỗng có tiếng kêu thất thanh của Triều Nhai, tôi nhìn ra cửa sổ, mắt Triều Nhai biến thành màu xanh rất kỳ dị, tóc và áo nàng bỗng bay tung lên, cây đàn bị pháp thuật treo lơ lửng ngay trên đỉnh đầu, vô số những con bướm trắng bay ra từ dây đàn đang vây quanh người cô.
Hoàng Thác nhìn tôi gật gật đầu nói, thật đúng như dự liệu của Đại vương!
Khi tôi và Thác ra sân, tóc Triều Nhai đang bay theo gió, con ngươi càng ngày càng xanh hơn, còn đứa trẻ con ông chủ đứng cạnh sợ hết hồn, nó nói trong sự sợ hãi, chị ơi, chị làm sao thế?
Tôi bước tới quỳ trước mặt đứa trẻ xoa đầu nó rồi nói, chị ấy không sao cả, chỉ bị thuật ám sát trong mộng của em khống chế mà thôi. Chị ấy chẳng sao đâu.
Đứa bé nhìn tôi, không hiểu tôi đang nói gì, nó nói, huynh đang nói gì vậy?
Đột nhiên tôi vung tay lên, một con dao băng ngắn, nhỏ nhưng rất sắc bay ra cắt đứt ngay sợi dây màu đen buộc tóc của đứa bé, sau đó mái tóc rất dài của nó tuột xuống đất, bộ tóc dài hơn bất kỳ bộ tóc nào mà tôi gặp ở nơi này - nơi trần thế do Tây phương hộ pháp biến ra, kể cả Thương Liệt so với nó cũng chẳng là gì.
Còn tóc của Triều Nhai đột nhiên không bay nữa và tuột xuống, chảy dài theo chiếc áo ảo thuật như một dòng thủy ngân.
Mặt nàng thuần một màu trắng, con ngươi sạch sẽ trắng như tuyết. Nàng nói: Tiểu đệ, ta nói ta không hề gì, ta chỉ bị khống chế bởi giấc mơ của đệ mà thôi .
Sau đó, mặt đứa bé bỗng trở nên lạnh lùng, ngạo mạn, giống như cơn gió ngược rất sắc bén tử khuôn mặt cậu ta thổi tới.
Cậu ta nhìn tôi, không nói gì, nhưng ánh mắt vẫn sắc lạnh.
Tôi nói, Quạ đen, ngươi có thể dừng lại được rồi đó!
Quạ đen nhìn tôi rồi nói:
- Ngươi không thể biết ta là Quạ đen được! Không thể!
- Đúng! - Tôi đáp - Rõ ràng là không thể, nhưng ta vẫn biết!
Quạ đen lại nhìn tôi rồi nhìn sang Triều Nhai và nói: các ngươi đang đóng kịch, Triều Nhai căn bản không bị khống chế?
- Đúng! - Triều Nhai thừa nhận - Ta đang đóng kịch. Nhưng ta không thể không thừa nhận, ngươi là người điều khiển giấc mơ giỏi nhất mà ta gặp, chỉ chút nữa là ta đã bị sa vào đó mà không tỉnh lại được. Nếu ta không sớm chuẩn bị thì có lẽ ta đã tự dùng cây đàn để giết chết mình rồi.
- Sao các ngươi lại nghi ngờ ta? - Quạ đen nhìn tôi rồi hỏi.
- Khi Y Trạo chết, Phượng Hoàng khẳng định đang cùng uống rượu với Thương Liệt ở trong sảnh lớn, nên người giết Y Trạo tuyệt nhiên không phải là Phượng Hoàng Hoa Hiệu, mà việc này chắc chắn không cần phải Tây phương hộ pháp ra tay, cho nên khẳng định chắc chắn Y Trạo là do Quạ đen giết chết.
- Vậy làm sao các người lại nghi ngờ ta là Quạ đen?
- Bởi chúng ta nhìn vết thương trên cổ họng của Y Trạo, phát hiện vết cắt tứ dưới đưa lên, nói cách khác, kẻ giết Y Trạo phải là người rất thấp hoặc đứng ở chỗ rất thấp để ra tay, sau đó mới lấy kiếm đâm vào cổ họng của nàng, vì vậy, chúng ta đoán rằng người giết phải là người rất thấp và nhỏ, còn là một người mà Y Trạo không bao giờ ngờ tới, vì nàng không kịp trở tay.
- Còn gì nữa?
- Còn chứ! Đó là cái chết của Phiến Phong. Lúc đó Hoàng Thác nói kẻ ám sát vẫn ở trong phòng, nhưng chúng ta lại chẳng nhìn thấy ai ra ngoài, đúng ra là vẫn có người ra ngoài, người đó chính là ngươi, bởi ngươi quá nhỏ, chưa cao tới thắt lưng Hoa Hiệu nên đã bị lan can che khuất, ở chỗ ta đứng lúc đó chẳng thể thấy được.
- Vì vậy các ngươi nghĩ là ta ư?
- Chưa.
Lúc đó mới chỉ cảm thấy rất lạ. Về sau càng nghi ngờ ngươi hơn vì một câu nói của Nguyệt Thần.
- Câu nói gì?
- Ngươi có còn nhớ hôm tất cả mọi người bị trúng độc, nhưng có người đã dẫn Nguyệt Thần đi không? Hôm đó, khi chúng ta mở cửa, ngươi xuất hiện ở hành lang tỏ ra lo lắng nhìn về hướng đó, nhưng khi Nguyệt Thần quay về nói với ta rằng: Thần càng đuổi theo hướng đó thì sát khí càng nhạt . Sau đó ta chợt nghĩ ra, thứ sát khí đó là do ngươi tạo ra khi đứng ở ngay cửa, ngươi vốn là một cao thủ có hạng trong ám sát, việc tạo ra sát khí hẳn dễ như trở bàn tay, chờ Nguyệt Thần quay về ngươi lập tức thu lại, làm ọi người không nghi ngờ ngươi được.
Quạ đen nhìn tôi, mắt lộ vẻ rất giận dữ và nham hiểm, oằn giọng, người hãy nói tiếp!
- Sau đó là giấc mơ của Tinh Quỹ, trong giấc mơ của Tinh Quỹ, ta lại thấy Anh Không Thích hồi nhỏ, trong tay nó cũng có một quả cầu giống hệt quả cầu của ngươi nhưng có màu tuyết trắng. Lúc đầu ta không hiểu giấc mơ này có ý nghĩa gì, sau đó mới hiểu ra: Ta còn nhớ đã từng gặp ngươi lúc ta mới vào trần thế do Tây phương hộ pháp biến ra này, nhưng lúc đó quả cầu trong tay ngươi có màu trắng tuyết, nay nó lại biến thành màu xanh băng; ta cũng nhớ lại khi Nha Chiếu chết đã nói với ta: Đại vương, hãy cẩn thận với màu xanh băng...
Lúc đó ta không hiểu phải cẩn thận điều gì, nhưng nay thì đã biết Nha Chiếu nhắc nhở ta phải cẩn thận với quả cầu màu xanh băng của ngươi. Sau đó, ta hỏi Triều Nhai, Triều Nhai nói rằng, những người có bản lãnh cao cường điều khiển được giấc mơ và ngưng tụ nó lại thành một thực thể, đó cũng là quả cầu của ngươi, về sau, người nào vấp phải giấc mơ đó sẽ bị nó nuốt chửng ngay lập tức, cho nên ta mới nói Triều Nhai hãy thử quả cầu của nhà ngươi xem đó có phải là giấc mơ giết người không. Kết quả không ngoài dự kiến của ta, quả cầu đó thực sự là giấc mơ chết người do ngươi điều khiển.
Quạ đen nhìn Triều Nhai rồi nói, hóa ra là ngươi không bị giấc mơ của ta khống chế, ngươi chỉ giả bộ thôi ư?
Triều Nhai gật đầu nói, đúng vậy, Hoàng Thác đã lập ra vòng bảo vệ cho ta rồi, những pháp thuật thông thường không thể tấn công ta được, và cũng chớ quên rằng, ta cũng là người điều khiển được giấc mơ.
Quạ đen đứng giữa chúng tôi, cúi đầu chẳng nói gì. Bộ dạng của y như một đứa trẻ rất ngoan, nhưng có ai ngờ được rằng, hắn là một cao thủ ám sát đứng thứ hai chỉ sau Tây phương hộ pháp mà thôi.
Vòng bảo vệ của Hoàng Thác đã làm không gian đông cứng lại, còn Triều Nhai cũng đem cây đàn ra, Quạ đen vẫn đứng ở giữa, tôi không biết hắn nghĩ gì, chỉ thấy màu mắt của hắn thay đổi liên tục.
Sau đó hắn đột nhiên cười toáng lên, bước tới và nói với tôi: Huynh hãy ôm đệ có được không? .
Lúc đó, tôi bỗng thấy không khí xung quanh chao đảo tạo nên một cơn xoáy lốc khổng lồ, trong chớp mắt, tôi bỗng thấy người đang đứng trước mặt tôi chính là Anh Không Thích - đứa em tôi, mái tóc trắng như tuyết rủ xuống, bộ mặt ngoan ngoãn ngây thơ nhìn tôi mỉm cười, giống hệt như Thích - một đứa trẻ đang ngủ ngon trong vòng tay tôi mấy trăm năm trước. Trước mắt tôi bắt đầu xuất hiện những mảng màu lớn rất đẹp, trong óc tôi vang tên tiếng nói của Thích, nó nói rằng, Đại huynh, Người hãy ôm đệ được không? Ôm đệ được không?
Sau đó Thích kiễng chân lên đưa tay ra sờ lên mặt tôi, nhưng khi tay nó vừa chạm mặt tôi thì lập tức xuất hiện ngay vòng bảo vệ của Hoàng Thác, một quả cầu trong suốt như pha lê chụp lấy người tôi làm cho Thích ngã lăn ra đất, nó bò lên trên đất, nước mắt rơi đầy trên mặt tuyết, nó khóc và nói rằng: Đại huynh, sao huynh lại không để ý tới đệ?
Lòng tôi bỗng đau như dao cắt, nỗi đau từ trong đầu lan ra. Tôi đi tới cúi người xuống định bế Thích lên, tôi nói: Thích ơi, đừng sợ, có huynh ở bên đệ rồi!
Trong lúc tôi cúi xuống, Thích đột nhiên biến thành Quạ đen, mọi ảo giác xung quanh đều biến mất, tôi nhìn thấy bộ mặt màu xanh kỳ dị của Quạ đen, một luồng ánh sáng trắng lạnh lùng đột ngột xuất hiện trên tay hắn rồi nhanh như chớp rạch vào yết hầu tôi, tôi không kịp lùi thì người như bị đông cứng lại.
Khi con dao băng trong tay Quạ đen xuất hiện trước cổ tôi, tôi đột nhiên nhìn thấy nụ cười đọng lại của Quạ đen, con dao băng của hắn không tiến lên được nữa bởi tôi thấy một luồng ánh trăng từ ngực hắn chảy ra, sau đó tôi nhìn thấy Nguyệt Thần đang đứng sau hắn, bộ mặt lạnh lùng tỏa sáng lấp lánh, tóc bay phấp phới như những ngọn giáo sắc nhọn.
Sau đó, Quạ đen từ từ ngã xuống trước mặt tôi, khi cơ thể hắn sắp chạm đất, hắn nói với tôi bằng giọng rất thảm thiết: Đại huynh, sao huynh không ôm đệ? Vì sao...?
Những bông hoa anh đào rất lớn đột nhiên xuất hiện trong không gian bỗng biến thành màu máu đỏ tươi của người trần thế. Tôi nghe thấy mặt đất chấn động, nghe như tiếng sấm trầm trầm vang tới từ tít tận nơi chân trời.
Khi tôi ngẩng đầu lên, những giọt nước mắt lặng lẽ rơi xuống, tôi lại nghe thấy tiếng Thích trên không trung, nó nói, Đại huynh xin huynh hãy tự do...
Phía sau nhà lại thêm hai ngôi mộ mới trên phủ đầy hoa anh đào, Phượng hoàng và Quạ đen nằm sóng đôi trong lòng đất lạnh, không biết khi mùa xuân về, trên những nấm mồ này cỏ xanh có thể mọc lên được không? Tôi chỉ biết rằng, cây hoa anh đào bên cạnh mộ họ khi tới mùa hoa sẽ nở rực rỡ mà thôi.
Thực ra anh đào là loài cây rất tàn nhẫn, rễ của nó càng cắm sâu vào nơi nào có người chết nhiều thì hoa nở càng rực rỡ hơn, rực rỡ như buổi bình minh mặt trời mới mọc vậy.
Nguyệt Thần và Hoàng Thác đứng trong gió, họ tỏ ra rất mệt mỏi nhưng vẫn rất kiên nhẫn, chiếc áo ảo thuật bay phần phật trong gió.
Chỉ có Triều Nhai là tỏ ra rất đau khổ. Hôm Quạ đen chết, Nhai nói với tôi: Thưa Đại vương, có lẽ sau khi giúp làm đệ của Đại vương sống lại, thần sẽ rời xa thế giới nhiễu loạn này! Tôi hỏi vì sao thì Triều Nhai nói:
- Thế giới này quá nhiều sự chết chóc và máu me, rất nhiều vong linh đang ngự trên tầng mây kia ngày đêm ca hát không ngừng, những bài ca màu đen như xuyên vào ngực thần, làm cho thần thấy khó chịu không thể chống đỡ được. Thưa Đại vương, có lẽ thần phải như Điệp Triệt trở lại nơi trần thế, tìm một người đàn ông yêu mình, người ấy sẽ không biết gì về pháp thuật và ca nhạc, nhưng thần chỉ cần nụ cười trong sáng và bộ ngực vạm vỡ của họ, thần sẽ nguyện tử bỏ tất cả để sống đến già cùng người đó. Đại vương, người biết mẫu hậu của thần không? Chính là người chơi đàn trong cung của phụ hoàng của người, thực ra bà đã chết từ lâu, bà đã xuống trần thế và chết ở nơi đầyánh nắng mặt trời, cỏ cây và chim chóc. Khi bà chết, chồng bà ở cạnh bà, nước mắt rơi lã chã, nay chồng bà đầu đã bạc phơ. Đó là giấc mơ cuối cùng trước khi chết mẫu hậu thần dành cho thần, thần luôn đau lòng vì giấc mơ đó.
Thực ra rất nhiều khi thần thấy khó chịu và tự nghĩ rằng, vì sao mình lại là một người bị giam cầm như vậy?
Tôi nói với Triều Nhai, mấy trăm năm về trước, tôi cũng đã từng buồn về chuyện đó, bởi vì tự do của mình mà tôi đã mất Thích.
Triều Nhai quay lại, đám mây lặng lẽ chậm bay qua đầu chúng tôi.
Năm mới đã qua.
Ngày tháng cứ trôi như nước chảy. Có những lúc tôi nằm một mình trên một cành to của cây anh đào, lim dìm cặp mắt nhìn mặt trời ẩm ướt trên cao, cảm giác như đang nằm dưới đáy sông, nhìn những chiếc lá rụng trên mặt nước cứ lặng lẽ trôi, trôi mãi.
Đúng như lời bà nội tôi đã nói, cuối cùng tôi đã trở thành một vị vua cô độc âm thầm chờ đợi cho thời gian trôi qua.
Nhưng Tây phương hộ pháp vẫn chưa xuất hiện, tôi, Nguyệt Thần, Hoàng Thác và Triều Nhai vẫn phải bị trói buộc ở nơi trần thế do pháp thuật của Tây phương hộ pháp biến thành mà chẳng có cách nào di chuyển đi đâu được.
Tôi đã từng dùng ảo thuật ghi chép mọi việc xảy ra ở đây vào một tấm giấy làm bằng da dê rồi dùng con chim chế ngự gió chuyển cho Tình Cựu hỏi xem chúng tôi cần phải làm thế nào.
Nhưng khi chim mang thư của Tinh Cựu về thì trên thư chỉ viết đúng hai chữ: Chờ đợi! Câu trả lời giống hệt như khi tôi hỏi Thương Liệt làm thế nào để gặp được Tây phương hộ pháp vậy.
Thương Liệt đã đi rồi, khi ông ta đi, tuyết ngừng rơi, ông ta đứng trước bốn người chúng tôi rất hiên ngang, cứ như là một con người vĩ đại nhất của cái thế giới trần thế này vậy.
Thương Liệt cười và nói với tôi rằng, thưa Đại vương, cái gì giúp được Người thần đã giúp cả rồi, nhưng thực ra thần lại chẳng giúp gì cho Người cả, Phượng hoàng và Quạ đen đã chết, chỉ còn Tây phương hộ pháp, nhưng thần lại không chống nổi. Xin Đại vương hãy cẩn thận.
Sau đó Thương Liệt tới trước mặt tôi quỳ xuống, khi ông ta ngẩng mặt lên nhìn tôi, nụ cười ấm áp như ánh nắng, ông ta nói, người là vị Đại vương trị vì đế quốc Ảo Tuyết trẻ nhất và vĩ đại nhất mà thần được gặp, nếu sau này có chuyện gì cần đến thần giúp xin hãy thả chim đến gọi thần, kể cả khi thần chết, con cháu của thần cũng không hề do dự trước mặt Người.
Tôi buồn bã gật đầu, nhìn Thương Liệt quay đi, bóng ông ta nhỏ dần rồi khuất hẳn ở đầu con đường, nơi băng tan.
Tôi có thể tưởng tượng ra một Thương Liệt đang hiên ngang đi trên trần thế vô cùng huyên náo. Một người có thể mất đi tất cả nhưng không thể mất đi linh hồn của cuộc đời mình, chính linh hồn làm cho con người trở thành một vị thần bất diệt. Thương Liệt chính là người như vậy.
Tôi quay lại nhìn Nguyệt Thần và Hoàng Thác, nhai người đang đứng với nhau, mái tóc mềm mại phủ lên mặt đất, giống như một bức tranh yên bình nhất, trải qua bao cuộc giết chóc và đấu đá lẫn nhau, linh lực của họ cũng ngày càng mạnh lên, tóc họ đã dài hơn so với tất cả mọi người ở Nhẫn Tuyết, kể cả Tinh Cựu và Tinh Quỹ.
Triều Nhai cúi đầu đứng sau họ, tôi nhìn thấy nước mắt nàng trào ra.
Sau đó tôi nghe thấy một bản nhạc tuyệt mỹ bay vút lên không trung, lên mãi tới trời xanh. Không khí dưới những cánh bướm rập rờn do Triều Nhai tạo ra từ dây đàn bị cuốn lại như những làn sóng trong suốt, tôi nhìn thấy mọi người qua đường ngạc nhiên như gặp được người trời, họ nhìn Triều Nhai, nhìn cô gái đẹp với mái tóc dài trắng muốt mà quên cả nói chuyện. Chỉ có những khúc nhạc bất diệt giống như những linh hồn đang bay trên bầu trời trong xanh, đàn chim chao qua chao lại như đang xé rách những đám mây. Vô vàn những vết thương xuất hiện trên trời rồi dấn dần biến mất.
Ngày thứ ba kể từ sau khi Thương Liệt ra đi, thì thi thể ông ta được phát hiện ở ven con đường đầy bụi ở ngoài cửa thành. Khi chúng tôi tới nơi, tuyết lại rơi, từng bông từng bông phủ kín lấy người ông ta. Thi thể của ông ta đã lạnh cứng, nét mặt bị méo mó rất đáng sợ.
Tôi đứng cạnh thi thể Thương Liệt ngước mắt lên nhìn bầu trời đầy mây màu xám xịt, tôi nghe thấy những âm thanh lạnh lùng buốt xương và còn thấy cả những kẽ nứt của xương, giống như những tia chớp sáng trắng.
Triều Nhai không nói gì, chỉ thấy nước mắt chảy tràn.
Hoàng Thác đang kiểm tra thi thể, Nguyệt Thần đứng cạnh.
Tôi bước tới hỏi Thác vì sao ông ta chết? Thác không trả lời chỉ xé toang miếng áo trước ngực của Thương Liệt, ở đó lộ ra ba lỗ thủng da thịt bị xé rách vô cùng tàn nhẫn. Máu trắng đều đông cả lại. Ánh mắt của Thương Liệt rất mông lung và hoảng hốt nhìn lên bầu trời như quá ngạc nhiên không nói được thành lời. Tôi quay đi không dám nhìn, còn Triều Nhai đã lùi rất xa về phía sau và cúi đầu xuống nôn ọe.
- Thưa Đại vương, Người hãy nhìn tay ông ta - Nguyệt Thần nói.
Khi tôi nhìn vào tay ông ta đột nhiên phát hiện ra một việc rất kỳ quái bởi các ngón tay trái của ông ta vẫn giữ tư thế rất lạ lùng, đó là thế tay mà các nhà ảo thuật dùng trong khi làm ảo thuật.
- Thưa Đại vương, ngài có biết Thương Liệt vốn là một nhà chiêm tinh không?
- Không. Ông ta chưa bao giờ nói điều đó cho ta biết.
Nguyệt Thần nhìn tôi và hỏi lại.
- Vậy vì sao khi ông chết, ông còn xem quẻ? Hay là khi xem quẻ, ông đã phát hiện ra điều gì nên mới bị ám sát mà chết?
Tôi nhìn lên trời mà chẳng làm sao trả lời được câu hỏi này, chỉ thấy bộ mặt của Tây phương hộ pháp đang ẩn hiện trên không trung, nhưng lại không sao nhìn rõ được nó ra sao. Điều duy nhất có thể cảm thấy được là nụ cười khinh bỉ của Tây phương hộ pháp, ánh sáng lạnh lùng toát ra từ đôi mắt ông ta như những mũi dao sắc nhọn đâm vào cơ thể tôi.
Hoa anh đào đang lụi tàn, vầng mặt trời đỏ như máu đang chìm dần nơi chân trời, gió đột nhiên thổi mạnh.
Khách vẫn đến thuê nhà như bình thường, sự huyên náo nơi trần thế vẫn diễn ra không ngừng, mặt trời mọc thì trăng lặn, cây cỏ khô héo đi rồi lại đâm chồi nảy lộc xanh tươi. Những thiếu nữ đẹp nghiêng nước nghiêng thành vẫn đang hát những bài hát du dương trầm bổng, những chàng trai trẻ lưng đeo kiếm cưỡi những con tuấn mã vẫn tung vó trong chốn phong trần trông rất bi tráng, nhưng ai biết được rằng, dưới những tà áo tung bay kia cùng với nhữngthanh kiếm sắc bén đó đã chôn vùi biết bao ánh mắt đợi chờ cùng bao nhiêu
hồi ức. Ai để ý tới những dòng máu chảy trong các cuộc tàn sát và những sự tuyệt vọng trong những tiếng gào thét kia.
Chỉ biết rằng trong rất nhiều đêm, nước mắt tôi cứ ròng ròng chảy.
Tôi luôn thả bộ trong khoảng sân trống trải của một căn nhà nhỏ mà cảm thấy mỗi bước đi đều rất thê lương. Nhiều lần, trên thảm cỏ và khoảng sân rộng tràn ngập tiếng cười của mọi người, bầu không khí vui vẻ bao trùm suốt ngày đêm đã khiến tôi thấy lòng ấm áp lạ lùng. Nhưng bây giờ, người đã ra đi, lầu vắng không, chỉ còn những cây trúc đứng uy nghi trong gió tuyết vẫn xanh rởn, hoa anh đào vẫn nở rộ rồi phai tàn rụng xuống, nhưng chẳng có ai đi bên tôi và gọi tôi bằng Đại vương , những con người như làn gió xuân làm tan đi băng giá như Tinh Quỹ, Liêu Tiễn, Phiến Phong, Trâm, Nha Chiếu, Đông Nhiếp, Ngư Phá, Y Trao, Thương Liệt, thậm chí cả Phượng hoàng và Qua đen đều không còn. Chỉ còn đọng lại trong tôi những khuôn mặt mờ ảo, giống như lớp sương mù cuối năm không tan nổi, rất mơ hồ như ở kiếp trước.
Hoa anh đào trong vườn lại đâm chồi non, những mầm xanh chứa chan hy vọng. Triều Nhai vẫn ngồi gảy đàn dưới gốc cây to mà chẳng cần phải dùng tới chút linh lực ảo thuật nào mà những khúc nhạc vẫn vô cùng tinh tế. Khách trọ luôn kinh ngạc bởi tiếng đàn và khuôn mặt của nàng. Triều Nhai vẫn như ngày nào khi còn ở trong thành Nhẫn Tuyết, hai mắt nhắm lại, quên đi tất cả sự ồn ào xung quanh mình. Sau khi trải qua cuộc chiến đấu với Điệp Triệt và Quạ đen, Phượng hoàng, Triều Nhai đã trở thành một pháp sư giỏi nhất, tóc của nàng vừa dài vừa trắng muốt như tóc Hoàng Thác và Nguyệt Thần, nhưng sự lo âu trong mắt nàng luôn làm cho tôi khó nghĩ. Triều Nhai luôn ngồi dưới tán lá của những cây to, ôm cây đàn trong ánh sáng trong trẻo của mùa xuân mà nước mắt cứ rơi hoài, ãi tới khi mặt trời lặn, ánh hoàng hôn nhập nhoạng mới trở về phòng mình.
Tôi đang từ đằng xa nhìn bóng dáng nàng mà lòng đau xót. Tôi ngẩng đầu nhìn vầng mặt trời đang lặn giật mình phát hiện ra rằng mình đã ở nơi trần thế này được mấy tháng rồi.
Tôi bước tới chỗ Triều Nhai, nhưng vừa đi được hai bước đã dừng lại vì thấy Nguyệt Thần xuất hiện ngay sau lưng Triều Nhai, nàng mặc một chiếc áo dài đen trên có vẽ những ngôi sao màu xanh. Tôi biết đó là chiếc áo ảo thuật của nàng, ánh sáng của những ngôi sao trên đó thực ra đều là linh lực tản mát của nàng, có thể giúp cho chủ nhân tăng thêm linh lực ảo thuật.
Nguyệt Thần đứng sau Triều Nhai nói: Hãy đứng yên.
Triều Nhai quay đầu lại bình thản như không. Nàng nhìn Nguyệt Thần mà chẳng nói gì.
- Triều Nhai, giấc mơ giết chết Nha Chiếu quả là một thuật ám sát rất lợi hại phải không? Nguyệt Thần nói.
- Đúng! Linh lực của kẻ tạo ra nó mạnh hơn tôi - Triều Nhai cúi đầu nói.
- Vậy năng lực của ta và nàng ai cao hơn?
- Không biết. Có lẽ ngang nhau thôi.
- Vậy nàng hãy nói cho ta biết, vì sao ta dễ dàng phá được giấc mơ đó?
Nghe đến đây, tôi đã biết Nguyệt Thần muốn làm gì rồi.
Triều Nhai quay đầu lại, ánh nắng chiếu lên tóc nàng trông như một dòng suối trong vắt. Nhưng gió xung quanh nàng bỗng cuộn lên như những con sóng nhỏ trong suốt lan tỏa trong không gian.
Nguyệt Thần vẫn lạnh lùng đứng trước mặt nàng, nhưng trên tay nàng loang loáng sáng, ánh sáng sắc như băng.
Rồi Triều Nhai ngồi xuống bình tĩnh gảy đàn, tiếng đàn du dương uyển chuyển, vô số những con chim quần tụ lại bay lượn trên đầu nàng, tôi cảm thấy không khí xung quanh như rung chuyển lên từng đợt. Tiếng của Triều Nhai mơ hồ như vọng lại từ một nơi rất xa, nàng nói rằng hóa ra là Nguyệt Thần luôn nghi ngờ nàng.
Nguyệt Thần nói bởi chính nàng đáng để nghi ngờ.
Nụ cười của Triều Nhai giống như đóa hoa sen vừa nở, chỉ một lát đã lan tỏa như sương mù khắp nơi, những con bướm trắng ào tới như những bông hoa tuyết bay rợp trời, còn Nguyệt Thần cũng bắt đầu chuyển động, thứ ánh sáng phát ra trên người nàng như những ánh chớp lúc ẩn lúc hiện trong đám bướm màu trắng của Triều Nhai, những con bướm chết rơi lả tả xuống mặt tuyết lạnh rồi tan lẫn trong tuyết trắng. Khi ánh chớp cuối cùng như xé rách bầu trời giáng xuống thì tất cả đều ngừng lại, sau đó tôi nghe thấy âm thanh của những dây đàn vô âm của Triều Nhai đứt ra từng sợi từng sợi một vô số những tia sáng sắc nhọn của ánh trăng tử trong người Triều Nhai ào ạt xuyên ra ngoài, cuối cùng
Triều Nhai đổ vật xuống trước mặt Nguyệt Thần, ánh mắt của nàng mờ dần đi.
Nước mắt tôi bỗng trào ra nhưng cổ họng như tắc nghẽn lại, chẳng nói được thành lời.
Khi Nguyệt Thần quay lại thì nhìn thấy tôi, nàng thoáng tỏ ra lúng túng, sau đó bộ mặt nàng trở lại rất lạnh lùng và nói, thưa Đại vương, Người cũng ở đây ư?
Tôi trả lời đúng vậy rồi chẳng nói được câu nào nữa.
- Thưa Đại vương, nếu tôi đoán không nhầm thì Triều Nhai chính là Tây phương hộ pháp. Nguyệt Thần nói.
- Nếu đoán sai thì sao? Tôi nói giọng yếu ớt.
- Thế giới này vốn luôn tồn tại sai và đúng, một số sai lầm là không thể tránh khỏi. Nếu Người muốn một số việc thành công thì phải hy sinh một số việc khác, có đúng vậy không, thưa Đại vương?
Tôi quay người bỏ đi, chẳng nói gì. Chỉ khi trở về phòng ở, tôi nói với Nguyệt Thần vẫn đang đứng trong sân ở phía sau: Vậy ngươi cảm thấy ngươi có thể dễ dàng giết chết cô ta không?
Nơi trần thế bấy giờ vẫn đang là kỳ giao mùa, thỉnh thoảng vẫn có tuyết rơi, tôi bất giác nhớ lại mùa đông ở thành Nhẫn Tuyết - một mùa đông tuyết rơi trong mười năm liền.
Tôi đứng bên cửa sổ, ánh trăng như nước chảy tràn cây lá và mặt đất, gió thổi làm bóng cây đung đưa như những thế tay của ảo thuật trông rất kỳ lạ, tiếng kêu thảm thiết của Quạ đen vang vọng trong đầu tôi nghe thật sợ hãi.
Tôi đưa tay ra trước ánh trăng, động đậy ngón tay bên trái, sau đó khuôn mặt tiểu đệ của tôi hiện ra trong không trung cùng tiếng gọi Đại huynh của nó. Khuôn mặt đệ luôn thay đổi, có lúc cười rạng rỡ như ánh mặt trời, có lúc lại lạnh lùng như băng giá và có cả nỗi tuyệt vọng khi phải chết. Nhưng tất cả chỉ là ảo giác, mấy trăm năm nay, phải dựa vào pháp thuật để nhớ lại những hình ảnh đó để chống đỡ ình những khi cô đơn, giúp ình nhớ lại những năm tháng tuổi trẻ trôi qua như vó câu qua cầu. Còn bây giờ, có ai đáng để tôi hoàn toàn tin tưởng như Thích nữa đây? Ai có thể vì nụ cười của tôi mà vui
sướng trong suốt mấy trăm năm?
Thích ơi, đệ có biết không, chỉ cần đệ gọi một tiếng đại huynh đã đủ để nước mắt ta giàn giụa rồi.
Nhà khách vẫn người đến kẻ đi bình thường, nhưng chỉ còn có hai người là Nguyệt Thần và Hoàng Thác còn cùng ăn cơm với tôi.
Khi chúng tôi bắt đầu ăn cơm, Nguyệt Thần đột nhiên dùng tay ngăn tôi lại và nói, xin chớ động vào thức ăn này.
- Vì sao vậy?
- Bởi chúng có độc - Nguyệt Thần nói rồi lạnh lùng nhìn Hoàng Thác - Chẳng phải toàn bộ thức ăn của chúng ta đều do Thác chịu trách nhiệm ư? Làm sao lại có thể có độc?
Thác không ngẩng đầu lên, chỉ nói rất lạnh nhạt:
- Nguyệt Thần, ngươi nghi ngờ ta ư?
- Đúng vậy!
Sau đó ánh trăng từ tay Nguyệt Thần như một lưỡi dao sắc nhọn kề vào yết hầu của Thác, tôi vội ra tay biến thành lưỡi dao băng chặt đứt tia sáng của Nguyệt Thần và nói, Nguyệt Thần, đủ rồi, không cần phải nghi ngờ lẫn nhau nữa.
Nguyệt Thần lao tới trước Thác và nói: Không thể được!
Dưới chiêu thức ảo thuật của Nguyệt Thần, Hoàng Thác càng ngày càng khó di động. Tôi chạy tới dùng gió tuyết làm đông cứng luồng ánh sáng của Nguyệt Thần, trong chớp mắt, Nguyệt Thần đột nhiên kinh ngạc nhìn tôi, hình như không tin là tôi ra tay với nàng, và đó cũng là biểu hiện cuối cùng của nàng mà tôi nhìn thấy. Hoàng Thác đột nhiên dùng tay đánh mạnh vào cổ họng của Nguyệt Thần. Tôi quay lại và nhìn thấy nụ cười kỳ lạ của Hoàng Thác.
Nguyệt Thần đổ vật ra đất, tôi nhìn thấy nỗi ai oán trong ánh mắt nàng, nỗi ai oán chuyển dần thành buồn đau, những giọt nước mắt trào ra bên khóe mắt của nàng.
Nguyệt Thần và Triều Nhai được mai táng phía sau nhà khách cùng chỗ với Liêu Tiễn và Phiến Phong. Phần mộ của Nguyệt Thần và Triều Nhai vẫn là những nắm đất đen, còn mộ của Phiến Phong và Liêu Tiễn cỏ đã non xanh, biểu hiện cái chết và sự sống đan xen vào nhau. Gió lạnh trùm lên những ngôi mộ, tôi và Hoàng Thác đứng trước những ngôi mộ mà chẳng nói gì, gió gào thét, áo của chúng tôi phần phật bay.
- Hoàng Thác, vì sao lại giết Nguyệt Thần? - Tôi hỏi.
- Bởi Nguyệt Thần muốn giết tôi. Thác đáp.
- Nhưng ngươi không thấy ta đã ra tay rồi ư? Cô ta sẽ không có cơ hội giết ngươi.
Thác chẳng nói gì, chỉ có nụ cười bí ẩn đọng lại trên khuôn mặt.
- Thưa Đại vương, chúng ta chia tay ở đây thôi! - Thác nói.
- Chia tay? Ngươi muốn nói...
- Tôi muốn nói hãy trở về thành Nhẫn Tuyết, mặc dù tôi biết Người cảm thấy thành đó như một thứ đồ chơi, nhưng nơi đó người thuộc bộ tộc đang chờ, tôi chính là thần của họ.
- Ngươi nói là ngươi sẽ vất bỏ cuộc hành trình sắp tới sao?
- Thưa Đại vương, ngài cảm thấy còn có cuộc hành trình đó ư? Đó là một con đường không có đoạn cuối, vả lại tôi cũng quá mệt rồi tôi phải đi đây!
Khi Hoàng Thác bước đi, đột nhiên tôi nói:
- Hoàng Thác, ngươi mới đúng là Tây phương hộ pháp phải không?
Hoàng Thác không quay đầu lại nói rằng: Hỡi Ca Sách, không cần phải hỏi chuyện này nữa, ngươi cảm thấy vẫn còn có hy vọng qua lãnh địa của Tây phương hộ pháp ư? Ngay cả Tây phương hộ pháp cũng không qua nổi, vậy ngươi làm sao mà thắng nổi được Uyên Tế đây.
Khi Hoàng Thác sắp biến mất trong đám sương mù thì tôi chạy lên trước mặt ngăn ông ta lại, thanh kiếm của tôi chĩa thẳng vào yết hầu ông ta và nói:
Nếu ngươi là Tây phương hộ pháp, ta quyết không thế để cho ngươi đi được.
Hoàng Thác nhìn tôi vẻ hoảng hốt rồi nói: Nhưng tôi nói tôi không phải thì ngài có tin không? Cuối cùng thì Hoàng Thác vẫn chết dưới lưỡi kiếm của tôi, máu của ông ta đã chảy tràn xuống đất. Tôi nghe như có tiếng nói mơ hồ trong cổ họng ông ta Đại vương, Người không bị ràng buộc nữa rồi, hãy tự do bay đi...
Nơi Hoàng Thác bị tôi giết chính là nơi tận cùng của trần thế do Tây phương hộ pháp dùng ảo thuật tạo nên, đó là một ruộng lúa mạch rất rộng, vàng chói như ánh nắng mặt trời, gió đuổi nhau tới tận cùng trần gian. Nơi đó, tuyết lặng lẽ rơi và tôi biết rằng, đâu đấy tôi sẽ trở về thành Nhẫn Tuyết, trở về với cuộc sống thầm lặng có thể nghe tiếng nứt vỡ của thời gian kéo dài vài trăm hoặc vài ngàn năm nữa.
Hoàng Thác ngã trên ruộng mạch, khuôn mặt còn đọng lại nụ cười đau khổ như bộ mặt của Nguyệt Thần lúc chết, mái tóc của ông ta lấp lánh màu trắng thủy ngân trải dài theo sóng lúa vàng nhấp nhô, tấm áo dài dính máu với đất đen trông giống như con cò đã chết giang đôi cánh màu đen.
Tôi ngước nhìn trời xanh, đàn chim trên đầu tôi đang hạ dần độ cao, chúng bay vòng quanh ruộng lúa mạch như luyến tiếc không muốn rời, cũng như tôi, một vị Đại vương trẻ tuyệt vọng vì mình đã mất phương hướng.
Tôi chưa hề nghĩ rằng có lúc tôi lại bị cô độc như vậy, tôi nghĩ tới những người bên cạnh mình, họ đã lần lượt ra đi, đôi con ngươi trắng và những tà áo dài bay bay trong gió biến mất dần trong tử khí. Một lần nữa, tôi lại nghe thấytiếng hát của những vong linh tất cả những người đã chết đều đứng trên trời cao, họ nhìn tôi xuyên qua những đám mây, khi tôi ngẩng đầu lên, lòng tôi đau như dao cắt.
Tôi chưa biết cuối cùng thì Tây phương hộ pháp là ai, nó giống như một giấc mộng làm ta không sao thoát ra được, nhưng cũng không sao nhìn rõ.
Thậm chí tôi không biết Nguyệt Thần, Hoàng Thác và cả Triều Nhai, Phiến Phong và Liêu Tiễn nữa, phải chăng họ đã chết bởi sự bất tài và không tin tưởng của tôi, có lẽ Tây phương hộ pháp thật đang đứng phía sau cười nhạo tôi, cái cười như bông hoa sen trong màn sương vậy.
Tôi từ biệt người hầu của nhà khách và nghĩ rằng, cho dù chỉ còn một mình, tôi vẫn đi tiếp.
Người hầu tiễn tôi mà chẳng nói gì, anh ta chỉ là một người trần thế rất đơn thuần giống như biết bao con dân của tôi, chỉ có điều, anh ta không biết tôi là vị thần vĩ đại tối cao của họ mà thôi.
Khi đi được một đoạn xa, tôi quay nhìn khu nhà đó đang nhỏ dần, tòa nhà với tường trắng, ngói xanh và những hàng liễu rủ. Hoa lê đã bắt đầu nở, những chấm hoa li ti như những bông tuyết mềm mại tràn ngập không trung.
Tôi đi tiếp và không nhìn lại nữa vì nước mắt đã bắt đầu rơi.
Những hình ảnh đã qua bỗng dồn dập đổ về, tôi nhìn thấy Liêu Tiễn đứng trước phụ vương của ông ta và nói Phụ vương, con sẽ thành một Đông phương hộ pháp giỏi nhất . Tôi nhìn thấy dáng Nguyệt Thần lặng lùng và kiên cường, thỉnh thoảng nở những nụ cười như một làn gió xuân ấm áp. Tôi nhìn thấy bóng dáng Tinh Quỹ gầy gò bé nhỏ ngã trong vũng máu, nghe tiếng nàng nói với tôi hãy đi tìm hạnh phúc của chính mình; Tôi nhìn thấy Phiến Phong vui vẻ điều khiển làn gió; nhìn thấy đàn bướm trắng đang bay quanh khi Triều Nhai gảy đàn; nhìn thấy Hoàng Thác đang lập ra vòng bảo vệ cho tôi; nhìn
thấy cái chết thê thảm cuối cùng của Thương Liệt...
Tôi bỗng cảm thấy trong ngực mình có vật gì đang dần tan vỡ thành những mảnh nhỏ sắc nhọn...
Tôi đã rời xa nơi thành thị phồn hoa, xung quanh đã không còn người trần thế. Tôi nằm trên bãi cỏ rộng mênh mông, sưởi ánh nắng dịu dàng phủ kín.
Không khí xung quanh tràn ngập hương thơm của mùa xuân nơi trần thế.
Khi tôi ngồi dậy suy nghĩ mình cần phải làm gì, đột nhiên nhìn thấy ở nơi xa nhất của bãi cỏ - tựa như ở đường chân trời vậy - một cơn gió lốc trong suốt xuất hiện. Tôi khẳng định rằng một người có linh lực siêu việt sẽ xuất hiện, tôi cảm thấy mặt đất chấn động, cuối cùng tuyết ào ào rơi xuống. Giống như khi Lê Lạc xuất hiện, ký ức của tôi bắt đầu nhẹ lay giống như hình ảnh đảo ngược.
Sau khi tuyết rơi hết, bỗng xuất hiện một cảnh tượng thật khó tin.
Tinh Quỹ đứng sừng sững cao tít trên không trung, gió ào ào thổi qua dưới chân, tóc và áo nàng bay lên như những dải lụa.
Tinh Quỹ hạ xuống mặt đất rồi từ từ bước lại phía tôi, hình dáng và nụ cười mờ ảo của nàng giống như một thứ ảo giác vậy.
Nàng bước tới trước mặt tôi, ngẩng mặt lên rồi hỏi: Đại vương, Người vẫn khỏe chứ? rồi nàng nở nụ cười.
Tôi cảm thấy sức mạnh của mình bỗng nhiên biến mất, ngay cả đứng lên cũng không được. Tôi hỏi:
- Tinh Quỹ, chẳng phải nàng đã chết ở vùng của Bắc phương hộ pháp rồi sao?
Tiếng của Tinh Quỹ ở quanh tôi, nhưng tôi không thấy môi nàng động đậy, trên mặt nàng chỉ thấy một nụ cười kỳ lạ. Nàng nói:
- Người cho rằng ta bị linh lực của Tinh Trú giết chết rồi ư?
- Vậy thì nàng...
- Ta chính là Tây phương hộ pháp mà bấy lâu ngươi tìm kiếm: Tinh Quỹ.
Tôi chẳng nói được gì, chỉ nhìn thấy nụ cười của nàng càng ngày càng trở nên kỳ dị và mơ hồ hơn. Sao Tinh Quỹ lại có thể là Tây phương hộ pháp? Câu hỏi đó cứ luôn xuất hiện trong đầu tôi như một câu thẩm vấn từ trên trời rơi xuống.
- Thưa Đại vương thân yêu của thần, chẳng phải thần đã cho Người giấc mơ cuối cùng là gì? Bảo Người khi gặp Tây phương hộ pháp hãy mở ra, Người quên rồi sao?
Nụ cười của Tinh Quỹ như bùa mê.
Trong giấc mơ của Tinh Quỹ, hình dáng của nàng xuất hiện giống hệt như đang trước mặt tôi, nụ cười rất mơ hồ, tiếng nói rất kỳ lạ. Nàng nói với tôi, thật ra tất cả chỉ là trò chơi của nàng mà thôi. Nàng nói:
- Thưa Đại vương, Đại vương là người mà đại huynh của thần tin tưởng nhất nên thần biết Người thật không đơn giản chút nào, do vậy thần đã mang hết sức lực giúp Người chiến thắng ba hộ pháp trước bởi nếu Người chết trong tay họ thì quả là chẳng ra gì, bọn họ không địch nổi một ngón tay của thần.
Thần muốn Người cùng chơi một trò chơi, trò chơi của một kẻ giết người và một người bị giết, Người đáng là đối thủ của thần, chỉ có điều cuộc đời thần quá nhạt nhẽo, nên thần làm sao mà bỏ qua một việc đầy kịch tính như thế này. Thần muốn xem Người có thể tìm ra một Tây Phương hộ pháp thực sự hay không? Đáng tiếc là đại huynh của thần rất tin Người, suy nghĩ của Người giảnđơn hơn thần nghĩ nhiều. Thưa Đại vương, thần để cho những người bên cạnh Người lần lượt chết đi, đó chính là một cuộc truy đuổi và tàn sát vĩ đại, đến cuối cùng, nếu tất cả những người bên cạnh Người chết hết, lúc đó thần mới
xuất hiện và nói cho Người biết, thần đây mới thực sự là Tây phương hộ pháp, chỉ bởi Người không thể làm gì được thần, xét về linh lực thì Người không thể bằng thần, mặc dù Người đã được em trai có linh lực tuyệt vời cho kế thừa cả linh lực và ảo thuật, nhưng Người vẫn không phải là đối thủ của thần.
Thưa Đại vương, đường đi của ngôi sao đã được ta sắp đặt, xin Người hãy theo ta chơi nốt trò chơi hay nhất này...
Khi tôi cố gắng tỉnh lại qua giấc mơ của Tinh Quỹ, nụ cười của nàng vẫn xuất hiện trước mắt tôi, chỉ có điều cảnh vật xung quanh đã rõ dần, tôi nhìn thấy thảm cỏ xanh và ánh sáng mặt trời, nhưng lòng lại tái tê lạnh giá.
Tinh Quỹ ở trước mặt tôi, trên tay nàng đột nhiên xuất hiện thứ vũ khí tôi chưa từng thấy bao giờ, có một thứ hình như là vô số các dây gấm màu đen lấp lánh đang quấn quanh những ngón tay, nhưng lại giống như một làn gió hữu hình quấn lấy. Không khí xung quanh đông đặc đến nghẹt thở, tôi nghe thấy tiếng nói của Tinh Quỹ vang vọng phía trên đỉnh đầu mình, nàng nói: Ca Sách, nay Người cô đơn một mình, Người làm sao mà đến được với thần?
Đột nhiên tôi thấy quá mệt mỏi, tôi chậm rãi và nhỏ nhẹ nói với nàng:
Thế ư? Vậy nàng hãy quay đầu lại xem .
Bởi vì tôi đã thấy Triều Nhai, Hoàng Thác và Nguyệt Thần xuất hiện phía sau Tinh Quỹ. Áo dài của họ bay lên như những đám mây huyền ảo. Họ là những người mà tôi tin nhất.
Thần sắc của Tinh Quỹ vẫn nguyên như thế, chỉ khi nàng nhìn tôi mới thấy mắt có thêm tia sáng. Nàng nói: Hóa ra là họ chưa chết!
Tôi nói:
- Đúng vậy, họ đều không chết. Ta thà chết chứ không để họ chết bởi họ là những người ưu tú nhất của Nhẫn Tuyết; ngoài ra còn có cả Phiến Phong và hai người Thương Liệt và Liêu Tiễn đã chết trong tay ngươi, họ đều là những người ưu tú nhất.
- Ngay cả Liêu Tiễn bị thần giết mà Người cũng biết ư? Phải chăng từ lúc ấy Người đã nghi ngờ thần?
- Không! Lúc đó ta không nghĩ là ngươi.
- Vậy làm sao Người biết thần là Tây phương hộ pháp?
- Ta biết được từ rất nhiều chuyện, trước tiên là cái chết của Liêu Tiễn. Bởi ta phát hiện ra một cây kim độc trên đầu, nên ta đã bị hút vào vòng do ngươisắp đặt, cho rằng Tiễn bị người khác sát hại bằng cây kim độc, thực sự không phải như vậy. Về sau Hoàng Thác còn phát hiện trên người Liêu Tiễn, đúng ra là một loại thuốc độc ngưng kết ở đỉnh đầu, đó là một chất độc mạn tính của loài hoa Thương yêu chuyển hóa thành, điều đó có nghĩa là trước khi vào đất của Tây phương hộ pháp thì Liêu Tiễn đã bị trúng độc rồi. Lúc đó, Tiễn suốt ngày bế ngươi, vậy ngươi chính là kẻ gần gũi nhất và dễ hạ độc Tiễn nhất.
- Đúng. Liêu Tiễn là do thần giết và đúng là thần dùng độc dược Thương yêu. Nhưng sau đó thì sao? Chẳng lẽ lại từ chuyện đó lại có thể đoán thần là Tây phương hộ pháp một cách đơn giản như vậy ư?
- Không. Sau cái chết của Tiễn là đến cái chết của ngươi!
- Cái chết của thần ư?
- Đúng. Ta phải thừa nhận rằng, việc tạo ra cái chết của ngươi là một thủ đoạn tinh vi và lợi hại nhất, chẳng ai lại đi nghi ngờ một người đã chết rồi.
Cũng bởi vòng bảo vệ mà Hoàng Thác tạo ra bao quanh ngươi là một vòng bảo vệ tốt nhất làm bằng chính sinh mệnh của Thác. Nói cách khác, nếu Thác không chết thì những người trong vòng bảo vệ đó cũng không chết; còn như vòng bảo vệ bị công phá, người chết đầu tiên phải là Hoàng Thác. Nhưng nhà ngươi vẫn chết. Lúc đầu ta cho rằng do ngươi sức quá yếu cộng với sự tương khắc kỳ diệu giữa những nhà chiêm tinh mà làm cho ngươi chết nên chỉ thấy buồn bã mà thôi. Buồn vì nhà ngươi đã chết. Nhưng trong bức thư mà đại huynh của ngươi gửi cho ta đã nói, ông ta dự đoán rằng ngươi phải một mình đi vào thế giới mới lạ và nói đừng để cho ngươi đi một mình. Lúc đó, ta nghĩ
Tinh Cựu bói quẻ rằng ngươi sẽ chết, nhưng sau đó mới biết rằng, ngươi đã đi về vùng Tây phương của ngươi và chờ ta vào đó. Chính vì ngươi sợ đại huynh của ngươi nói cho ta biết việc ngươi chưa chết nên ngươi bảo ta đừng báo tin ngươi chết cho ông ấy.
Ánh mắt của Tinh Quỹ ngày càng trở nên lạnh lùng, Quỹ bảo tôi hãy nói tiếp. Tôi nói:
- Sau đó là chuyện của Tinh Trú Bắc phương hộ pháp. Thực ra giết Tinh Trú là chuyện rất dễ dàng đối với ngươi, lúc cô ta chết, cô ta đang định nói Tây phương hộ pháp là ai, bởi cô ta thấy chuyện ngươi ở với chúng ta đúng là chuyện đáng buồn cười, nhưng ngươi đã không cho cô ta có cơ hội nói ra, ngươi đã dùng pháp thuật để giết cô ta một lần nữa. Nhưng, lúc đó ta lại cho rằng nhà ngươi chỉ dùng Huyền băng chú, có điều ta cảm thấy rất kỳ quái là ngươi vốn là một nhà chiêm tinh sao lại biết dùng pháp thuật đen uyên thâm
và phức tạp như vậy, bởi chỉ có những nhà ảo thuật giỏi nhất và những pháp sư chuyên ám sát mới biết thử đó.
Sau đó, ta đi vào vùng Tây phương của ngươi, rồi ngươi và Phượng hoàng cùng Quạ đen tạo ra một loạt cái chết khác, để chúng ta không còn thời gian suy nghĩ tới những việc trước kia của ngươi. Chỉ tới khi Nha Chiếu chết, ta lại bắt đầu nghi ngờ ngươi.
- Vì sao vậy?
- Bởi Nguyệt Thần nghi ngờ Triều Nhai, mà hai người vốn có đủ sức để phá tan giấc mơ đó, có điều kỳ lạ là, năng lực giải tỏa giấc mơ của Triều Nhai mạnh hơn của Nguyệt Thần nhưng lại không phá nổi giấc mơ đó, rõ ràng còn có một người có sức mạnh hơn hẳn ở quanh đấy, mà ngươi chính là một nhà chiêm tinh giỏi nhất. Ngươi đã dùng Triều Nhai để chúng ta chuyển nghi ngờ sang cô ấy, nhưng ngươi quên mất một điểm rằng, không thể có hai Tây phương hộ pháp được. Nếu Triều Nhai giả bị thương thì vì sao Hoàng Thác lại
phải giúp cô ta giấu giếm đi? Cho nên, ta nói với Nguyệt Thần rằng, Triều Nhai và Hoàng Thác đều không phải là Tây phương hộ pháp.
- Cho nên các người giả chết để dụ thần ra ư?
- Chưa phải. Lúc đó mới chỉ nghi ngờ mà thôi, người thực sự làm cho ta quyết tâm dụ ngươi ra chính là Thương Liệt.
- Thương Liệt? Các ngươi làm sao biết ta giết Thương Liệt?
- Bởi thế tay của ông ta. khi chết, thế tay của ông ta chính là thế tay mà các nhà chiêm tinh thường dùng khi chiêm tinh. Lúc đầu, ta cho rằng Thương Liệt là nhà chiêm tinh, nhưng Triều Nhai nói rằng, ở ông ta không hề tồn tại linh lực chiêm tinh và giải mộng, do đó ta biết Thương Liệt muốn bảo ta kẻ giết ông ta chính là một nhà chiêm tinh, hơn nữa, lại là người có phép thuật tuyệt đỉnh, bởi người bình thường không thể có đủ sức mạnh giết chết Thương Liệt được.
- Vì vậy các Người giả tàn sát lẫn nhau để dụ ta ra ư?
- Đúng vậy. Nhưng đây là việc rất mạo hiểm; ta biết rằng, chỉ cần ngươi hành động một lần đối với chúng ta, hẳn ngươi sẽ biết ngay là chúng ta đang đóng kịch. Nhưng ta tin ngươi là kẻ quá ư kiêu ngạo và tự phụ, luôn đánh giá thấp ta. Hơn nữa đây là hành động theo dự tính của ngươi, do vậy, ngươi không hề nghĩ tới những bí mật trong đó cho nên nhà ngươi không đoán ra hành động của ta.
Hoàng Thác đứng đằng sau Tinh Quỹ lên tiếng:
- Ta, Nguyệt Thần và Triều Nhai thực ra luôn bên cạnh Đại vương và luôn chờ sự xuất hiện của nhà ngươi. Bởi chúng ta biết rằng, ngươi là kẻ kiêu ngạo, ngươi xưa nay chẳng coi ai ra gì, nhất định ngươi sẽ xuất hiện trước một Đạivương đơn độc, bởi ngươi cho rằng, Đại vương không phải là đối thủ của ngươi, nên nhất định sẽ xuất hiện trước mặt Đại vương để nhìn khuôn mặt kinh ngạc của người, chỉ đáng tiếc là Đại vương không phải loại bất tài như ngươi nghĩ.
Tinh Quỹ nhìn tôi với nụ cười tự tin và khinh miệt, rồi nói:
- Ca Sách, ngươi có tin là ta không cần động tay cũng có thể giết chết ngươi ngay tại đây không?
Tôi nhìn Tinh Quỹ mà không trả lời. Tinh Quỹ nói tiếp:
- Ta biết Người không tin. Người còn nhớ người bà yêu quý của Người không? Khi bà truyền hết linh lực cho Người, bà cầm chặt lấy tay Người phải không? Người có còn nhớ da của bà ta thô ráp như kim châm khiến người đau đớn không? Lẽ nào đại vương không bao giờ nghi ngờ bà ta dùng kim châm người ư? - Có tiếng Tinh Quỹ cười lớn.
Ký ức của tôi bỗng sống lại, lòng bỗng trống trải và hụt hẫng.
Sau đó, Tinh Quỹ đột ngột ra tay với tôi, những dải lụa như những ánh chớp đâm vào người tôi, nhưng tôi đều tránh được hết.
Tinh Quỹ nhìn tôi căm giận rồi nói:
- Vì sao nghe những chuyện đó, Đại vương không thấy hoảng loạn?
- Bởi ta tin vào nhân tính, vì ta tin rằng trong thế giới này vẫn còn có những thứ đáng để ta tin tưởng, ví dụ như tình yêu của bà đối với ta, ta không có lý do gì để nghi ngờ cả.
Tinh Quỹ không nói gì, chỉ thấy tà áo bay quanh người nàng. Rất lâu sau, nàng mới nói:
- Đại vương, xem ra đại huynh ta không nhìn lầm người, ngươi là một vị Đại vương tài giỏi, nhưng ta bảo đảm rằng, nếu các ngươi cùng ra tay với ta, tuy ta có thể không thắng nổi các ngươi, nhưng ta có thể khẳng định rằng, năng lực của ta đủ để làm máu của các ngươi chảy tràn ra đất trước khi ta chết.
Những dải lụa trong tay Tinh Quỹ bỗng bung ra nhanh như chớp tách riêng tôi và Hoàng Thác ra. Khi tôi tránh những dải lụa đó thì nhìn thấy Nguyệt Thần, Triều Nhai và Hoàng Thác đều đã bị những dải lụa đen tách riêng ra, mỗi người phải tự mình bảo vệ mình. Tinh Quỹ ở giữa chúng tôi, nàng đứng từ trên cao nhìn xuống, nở một nụ cười kỳ lạ tỏa sáng chung quanh.
Nàng nói: cao trào của trò chơi đã tới, xin mời Đại vương - đối thủ xứng đáng của ta - hãy tiếp tục...
Ánh trăng của Nguyệt Thần đã bị những dải lụa quấn chặt và mỗi lúc một nhạt hơn trong cái màu đen dày đặc của đêm tối. Tôi nghe thấy Nguyệt Thầnthở gấp gáp, áo và tóc của nàng bay tung lên cùng với cả người cô. Dây đàn long lanh sáng của Triều Nhai và dải lụa đen của Tinh Quỹ cuốn lấy nhau, mỗi lúc một chặt hơn, như hai con rồng một đen một trắng đang tàn sát cắn xé lẫn nhau, vô số những con bướm trắng vỡ vụn từ trên cao rơi xuống như những bông hoa tuyết. Hoàng Thác cũng lập ra vòng bảo vệ ỗi người; những dải lụa đen của Tinh Quỹ đập choang choang vào vách vòng bảo vệ trong suốt và phát ra những tia chớp sáng lòa.
Tôi đã gọi ra mấy chục thanh kiếm băng treo lơ lửng xung quanh Tinh Quỹ, nhưng không thoát được sự ràng buộc của những dải lụa đen kia, thậm chí có thanh đã bị những dải lụa đó thít chặt lại làm cho vỡ vụn ra.
Nhưng đột nhiên tất cả đều yên ắng trở lại, đàn bướm của Triều Nhai lại bay lên vì phía trên đã không còn bóng đen, ánh trăng của Nguyệt Thần cũng tỏa sáng ra bốn phía, bởi Tinh Quỹ đã đột ngột thu lại những dải lụa.
Tôi nhìn thấy nụ cười đau khổ trên môi Tinh Quỹ, cô ta nhìn tôi, gọi: Đại huynh!
Tôi quay lại nhìn thấy Tinh Cựu ở sau lưng, khí thế rất hiên ngang, chiếc áo dài chiêm tinh không vương một hạt bụi, mặt vẫn luôn tỏ ra cao ngạo và nghiêm khắc. Tóc ông ta bay tung, từng sợi từng sợi xõa ra trong gió.
Tinh Quỹ nhìn Tinh Cựu nói nhỏ: Huynh, sao huynh lại tới đây? . Lúc ấy, trông Tinh Quỹ giống hệt một đứa trẻ ngoan ngoãn lễ phép, chẳng khác gì một đứa bé gái ốm yếu lúc mới rời thành Ảo Tuyết.
- Muội chẳng cần lo ta tới đây như thế nào, hãy nói cho ta biết, muội đúng là Tây phương hộ pháp ư? - Tinh Cựu nói.
Tinh Quỹ chẳng nót gì, tôi nhìn thấy mắt nàng lóe sáng. Nàng cúi đầu nói:
- Thưa huynh, nếu đúng vậy thì huynh có tha thứ uội không?
- Không.
- Vì sao?
- Ta nói với muội, Ca Sách là một vị Đại vương mà ta kính trọng nhất. Bất cứ ai muốn sát hại Ca Sách ta đều không thể tha thứ. Hơn nữa, muội đã giết bao nhiêu người rồi, chẳng lẽ đêm đêm khi đi ngủ muội không nghe tiếng kêu khóc của các vong linh đó ở trên trời cao kia ư?
- Thưa huynh, muội không để ý tới những người đó, muội chỉ để ý tới huynh, lẽ nào huynh thực sự không tha thứ uội?
- Đúng. Ta không thể tha thứ uội được. Tinh Cựu quay lưng lại phía Tinh Quỹ, nước mắt Cựu rơi lã chã, từng giọt từng giọt lăn xuống thảm cỏ.
- Thưa Đại vương, chúng ta hãy ra tay. - Tinh Cựu nói với tôi.
- Tinh Cựu, nhưng đó là tiểu muội của người... - Tôi nói.
- Ta không có một tiểu muội như vậy. - Tinh Cựu cắt ngang lời tôi.
- Đại huynh, người thực sự muốn ra tay với muội ư? - Tinh Quỹ nói.
- Đúng!
- Muội không phải là tiểu muội của huynh sao?
Tinh Cựu ngẩng đầu lên nhìn trời, tiếng của chàng trầm và như tắc nghẽn:
- Tinh Quỹ, muội của ta là một bé gái thuần nhất và lương thiện, luôn ngủ ngon lành trong vòng tay của ta, luôn chờ ta trở về. Nhưng nó đã chết, chết trong ký ức của ta, nó mãi mãi không bao giờ xuất hiện nữa.
Tôi nhìn thấy nước mắt của Tinh Cựu như luồng ánh sáng vỡ vụn ra.
- Đại huynh - Tiếng Tinh Quỹ vẫn phẳng lặng như mặt nước nhưng đầy vẻ tuyệt vọng bên trong. - Nếu sớm biết huynh không tha thứ uội thì muội chẳng muốn sống thêm mấy trăm năm nữa làm gì; nếu khi muội hai trăm tuổi mà chết ở cung Ảo Tinh thì tốt nhất, như vậy huynh sẽ không bao giờ ghét bỏ muội.
Sau đó tôi nghe thấy tiếng của da thịt bị xé nát, những dải lụa màu đen đâm vào lưng Tinh Quỹ tạo ra một làn sóng màu đen bùng lên ở phía trước ngực. Tinh Quỹ ngã ra bãi cỏ phát ra một âm thanh nặng nề, trước giây phút ngã xuống nàng còn kịp kêu lên một câu: Đại huynh, sao người không chịu tha thứ uội... Sao không tha thứ cho muội...
Nơi Tinh Quỹ chết xuất hiện một quả cầu trong suốt, tôi biết đó chính là giấc mơ mà nàng để lại cho anh của mình.
Tinh Cựu đứng ở vách núi đằng xa, Tinh Quỹ nằm trong tay chàng, giống hệt những gì mà tôi lần đầu tiên trông thấy họ, tuyết không ngừng rơi trên tóc và vai họ, Tinh Cựu dùng pháp thuật bảo vệ cho Tinh Quỹ, ánh mắt dịu hiền ấm áp như trước mặt hồ mùa xuân vậy. Tôi hỏi:
- Tinh Cựu, làm sao người biết mà vội từ thành Nhẫn Tuyết tới đây?
- Bởi trong mỗi lần chiêm tinh, ta đều cầu phúc cho em gái ta và Đại Vương. Nhưng sau đó, ta chợt cảm thấy nguy cơ của muội, bởi vì ta cảm thấy có một số người có linh lực rất cao cường đang bao vây tấn công Tinh Quỹ, vì vậy ta phải tới ngay, ta đã vượt qua lãnh địa của Nam phương hộ pháp và Bắc phương hộ pháp mà nay đã bỏ trống để tới nơi trần thế do Tây phương hộ pháp dùng ảo thuật tạo nên. Sau đó ta đã nhìn thấy Đại Vương, Nguyệt Thần, Triều Nhai và Hoàng Thác, còn Tinh Quỹ, muội của ta thì đứng giữa mọingười. Trong nháy mắt, ta đã biết tất cả, hóa ra Tinh Quỹ thực sự là Tây phương hộ pháp.
- Tinh Cựu, chẳng phải ngươi yêu quý em gái nhất là gì? Vì sao...
- Đại Vương, ta có thể nói cho Người biết một điều, ta yêu quý muội của mình cũng giống như Đại vương yêu quý Anh Không Thích của Người vậy, vì mỗi lần nhắc tới là ta buồn muốn chết. Thưa Đại vương, ta phải xa Người bởi muội của ta đã chết, ta không muốn bảo vệ Người nữa. Còn Người, Người đã lớn mạnh và cũng không cần ta bảo vệ nữa. Đại vương, có lẽ ta sẽ ẩn cư ở núi thần Ảo Tuyết, để giữ gìn phần mộ của Tinh Quỹ, ngay cạnh đấy, cho đến khi trên mộ muội của ta phủ kín hoa anh đào, ta nghĩ nước mắt ta sẽ chảy tràn.
Thưa Đại vương, Người là vị vua đầu tiên của thành Ảo Tuyết mà ta kính trọng nhất, ta sẽ mãi mãi chúc phúc cho Người, nhưng bây giờ, hãy để ta xa Người.
Tôi nhìn khuôn mặt của Tinh Cựu mà chẳng nói nên lời.
Cuối cùng, Tinh Cựu và Tinh Quỹ cũng biến mất ở cuối trời mênh mông tuyết trắng. Tôi thoảng nghe thấy tiếng hát thê lương và bi thảm của Tinh Cựu vang vọng giữa trời xanh, đàn chim tụ lại rồi lại tản ra, hoa anh đào cũng đượm sắc buồn tàn nhẫn rơi xuống.
o O o
Giấc mộng - Điệp Triệt - Diệp Phá
Tôi tên là Điệp Triệt, sinh ra trong bộ tộc Vu Lạc. Mẫu hậu nói khi tôi sinh ra vừa đúng lúc sao Trọc Việt lên đỉnh cao nhất, trong ánh sáng xanh trong của nó trải đầy trời đêm mênh mông, cuối cùng rơi vào trong mắt tôi, trở thành linh hồn trong trắng của tôi.
Từ nhỏ, tôi đã là đứa trẻ có linh lực cao cường, tóc dài hơn tất cả các anh chị, họ rất yêu quý tôi, luôn bế tôi đặt lên vai họ và luôn trìu mến gọi tên tôi.
Người mà tôi thích nhất là Trì Mặc, anh cũng là đứa bé trai ít tuổi nhất trong bộ tộc, nhưng có một mái tóc mềm óng như tơ. Chúng tôi cùng nhau lớn lên.
Cũng giống như tôi, anh có linh lực rất cao cường, dạy cho tôi mọi thứ ảo thuật, dạy tôi cách khống chế biến hóa ảo giác thành dây đàn ánh sáng, ánh mắt dịu dàng và nụ cười luôn trên môi.
Khi chúng tôi còn là trẻ con, anh luôn dắt tôi vào sâu trong rừng tuyết, ngắm những con chim to lớn bay qua bay lại dưới tán lá rừng, tiếng kêu thê thảm của chúng như vạch những vết thương trong suốt trên bầu trời xanh. Anh thường nhìn chúng và nói với tôi, Điệp Triệt, muội có muốn bay lên trời như lũ chim không? Quả thực tôi rất muốn biết, trên những đám mây kia là hoa anh đào nở rộ hay đầy những vong linh?
Mỗi lần Trì Mặc nói với tôi như vậy, tôi luôn nhìn thấy những bóng rợp của cây rừng loang lổ dưới ánh mặt trời như đang rơi vào trong mắt trắng long lanh của tiểu đệ. Rất nhiều lần tôi lầm tưởng mắt của anh màu đen, một mu đen huyền diệu khác thường thuần túy như của một loại mực, bao dung và trùm lên tất cả. Tôi luôn cảm thấy nỗi sợ hãi sâu xa, nhưng mỗi lần như vậy Trì Mặc lại cười với tôi, nụ cười đẹp và trong sáng làm sao! Giống hệt như ánh sáng mặt trời tan ra từng mảnh biến thành những bông hoa lóng lánh, nở rộ trên khuôn mặt của anh vậy.
Tôi luôn tin rằng trên người anh của tôi luôn tỏa ra mùi thơm của hương hoa, cũng như tin rằng trên quần áo của anh luôn luôn có linh hồn của hoa.
Hương thơm thoang thoảng nhưng có thể truyền mãi muôn đời.
Trì Mặc hơn tôi mười tuổi, khi tôi một trăm hai mươi tuổi thì anh đã một trăm ba mươi tuổi rồi. Một buổi sáng, sau khi ngủ dậy tôi định đi tìm anh để cùng tôi đi chơi thì nhìn thấy anh đang đứng giữa tuyết, ra dáng là một người đã trưởng thành. Trong lúc anh quay đầu lại, tôi nghe thấy tiếng những bông anh đào đang bừng nở.
Trì Mặc đứng trước mặt tôi, người cao to và mạnh mẽ, mái tóc dài thướt tha như quấn lấy tấm thân cao lớn. Trì Mặc khôi ngô tuấn tú hơn cả phụ hoàng và tất cả các anh lớn của tôi, đôi lông mày như hai lưỡi mác mọc chếch lên tới tận chân tóc hai bên thái dương, đôi mắt sáng như vì sao buổi sớm rất rực rỡ, bộ mặt với những đường nét đậm như được gió rét khắc họa. Anh quay về phía tôi, cười để lộ hàm răng trắng tinh, ôi, nụ cười mới rạng rỡ làm sao!
Phía sau lưng, hoa anh đào bừng nở.
Trì Mặc bước tới trước mặt tôi, khom người, ghé sát mặt tôi rồi nói, Điệp Triệt, anh chào muội.
Mười năm sau, tôi đã là người trưởng thành, đứng trước mặt Trì Mặc, cười với anh, giống hệt nụ cười của anh với tôi ngày nào. Trì Mặc nheo mắt lại nhìn tôi và nói, Điệp Triệt, muội chính là cô gái đẹp nhất mà anh nhìn thấy, còn đẹp hơn mẫu hậu của anh nhiều!
Mẫu hậu của Trì Mặc là một ái thiếp của Phụ hoàng, bà đã mất từ lâu, nhưng không rõ lý do gì mà cái chết đó bị giấu kín chỉ có hai người biết được, đó là phụ hoàng và mẫu hậu của tôi.
Trì Mặc từ nhỏ đã mất mẹ nhưng rất hiền lành, ôn hòa và không hề tranh giành với ai, khi trưởng thành rồi vẫn như vậy, có khi chỉ nhìn thấy một bông hoa đang nở mà miệng cũng nở một nụ cười rất mãn nguyện rồi. Mỗi buổi chiều, Trì Mặc thường ngồi một mình trên bức tường thành cao nhất của cung điện gảy đàn, có vô số chim bay lượn trên đầu, lông chim rơi xuống phủ kín đôi tròng mắt làm cho con mắt biến thành màu xám, những đám mây trên trời biến thành những bông hoa đỏ thắm rực rỡ.
Trì Mặc cứ sống như vậy hàng trăm năm liền, mỗi lần tôi hỏi anh có thấy cô đơn không thì anh lại nhìn tôi và trả lời:
- Có Điệp Triệt ta mãi mãi không cảm thấy cô đơn.
Tôi và Trì Mặc là người có linh lực mạnh nhất trong gia tộc, tôi là niềm tự hào của phụ vương tôi, còn Trì Mặc lại không được như vậy, phụ hoàng không thích anh. Khi tôi còn nhỏ, mỗi lần thấy tôi chơi cùng anh, phụ vương đều bước tới rồi bế tôi đặt lên vai người và bỏ đi, để anh tôi lại một mình. Nhưng Trì Mặc không bao giờ tỏ ra khó chịu, luôn đứng nhìn theo tôi, và mỗi lần tôi quay đầu lại, luôn nhìn thấy nụ cười rạng rỡ trên khuôn mặt anh bừng lên như bông hoa anh đào, anh đứng yên nhìn tôi đang đi xa, xa dần.
Tôi đã từng hỏi phụ hoàng vì sao không thích anh, nhưng lần hỏi đó cũng là lần duy nhất, bởi lúc ấy khuôn mặt phụ hoàng đang rất vui bỗng sầm xuống lạnh như băng. Sau đó, phụ hoàng vuốt tóc tôi rồi nói:
- Hỡi con gái của ta, một ngày nào đó khi cha đã già, con sẽ trở thành vua của bộ tộc này, con sẽ đứng giữa đại điện gảy đàn, tiếng đàn của con sẽ bao trùm cả Vương Quốc Ảo Tuyết, con là niềm kiêu hãnh của phụ vương.
Tôi ngước nhìn, luôn thấy khuôn mặt trang nghiêm như thiên thần của phụ hoàng. Người vuốt mái tóc dài của tôi rồi cười, nụ cười đầy bí ẩn.
Tôi chưa bao giờ trách Người, nhưng mỗi lần nhìn anh, lòng tôi lại thấy buồn. Bởi tôi rất tôn sùng phụ hoàng, Người chơi đàn vĩ đại nhất trong lịch sử của bộ tộc tôi. Trì Mặc cũng tôn sùng Người, mỗi lần nhắc tới Người, hai mắt anh lại sáng lên tỏ ra vô cùng tôn kính. Nhưng phụ hoàng lại không thích anh và tôi luôn cảm thấy buồn thay cho anh.
Phụ vương tôi là người gảy đàn cho Quốc vương Ảo Tuyết và cũng là người đàn ông tinh thông âm nhạc nhất trong lịch sử của bộ tộc tôi, trước kia rất nhiều vua của bộ tộc là phụ nữ, âm nhạc của họ vừa dịu dàng lại rất tài hoa, còn tiếng đàn của phụ vương tôi lại gay gắt như ánh mặt trời, như tiếng gào thét của bão tuyết vậy. Tôi không được nghe lần đầu tiên Người biểu diễn khi trở thành nhạc công của nhà vua, mà chỉ nghe người trong bộ tộc nói lại rằng, vào hôm đó, trên bầu trời của đế quốc Ảo Tuyết còn ngân vang mãi cái hồn của bản nhạc mà phụ vương tôi chơi, tất cả chim chóc từ bốn phương đều bay
tít lên tầng cao, tiếng kêu kinh thiên động địa của chúng không dứt trên bầu trời vương quốc.
Tôi là niềm tự hào của phụ vương tôi, người luôn mang tôi đi theo trong tất cả các buổi tế lễ trong thành Nhẫn Tuyết, người bế bổng tôi lên cao và nói với mọi người rằng tôi là con gái của người, một nhạc công giỏi nhất của gia tộc chúng tôi. Trong đại điện bỗng có tiếng gió thổi, tóc và áo dài của tôi tung bay trong gió. Tôi nhìn thấy những khuôn mặt của những người xung quanh, họmỉm cười với tôi, nhưng tôi chỉ nghĩ tới nụ cười của Trì Mặc, muốn được biết những cánh hoa bé nhỏ đang bay kia liệu có rơi trên đôi lông mày của anh không?
Mỗi khi tôi rời cung điện của bộ tộc để vào thành Nhẫn Tuyết, anh luôn đứng ở cổng thành đưa tiễn tôi, luôn cúi xuống nói với tôi, Điệp Triệt, ta chờ muội trở về.
Mỗi khi rời cung điện, tôi luôn quay đầu lại nhìn anh của tôi, nhìn tà áo bay bay trong gió, nhìn nụ cười và bóng dáng mờ dần trong ánh sao của anh.
Những bông tuyết nhỏ cứ rơi rơi trên bức tường thành màu đen mà lòng tôi ấm áp.
Còn mỗi khi tôi trở về lại luôn nhìn thấy anh đang ngồi ở nơi cao nhất của tường thành chờ đợi tôi, cây đàn cổ đặt trên hai đầu gối, ngón tay thon dài đang lướt trên dây đàn phát ra những tiếng du dương trầm bổng, những con chim như mê mẩn vẫn bay lượn trên đầu, lông chim rơi xuống, nhìn thấy anh ngồi bình lặng, dáng vẻ rất hiên ngang đó, tôi bất giác trào nước mắt.
Sau khi tôi và Trì Mặc lớn lên rồi rời xa khu rừng tuyết, chúng tôi không quay lại nơi đó nữa, Trì Mặc cũng không dẫn tôi đi vào nơi rừng sâu ngắm nhìn những con chim lớn bay vút qua dưới bóng cây và kêu lên những tiếng kêu thảm thiết. Thỉnh thoảng chúng tôi mới cùng nhau ngồi nơi cao nhất của bức tường cung điện, nhìn về phương xa nơi có bờ của biển băng nọ.
Anh của tôi luôn bị những cơn gió mạnh từ bờ biển thổi về làm nhức mắt. Tôi hỏi vì sao anh không nhắm mắt lại thì anh quay đầu lại nói với tôi rằng, vì sao những con chim kia có thể tự do bay lượn trên bầu trời mà mình lại yếu đuối trước những cơn gió như vậy?
Tôi nhìn anh mà không biết trả lời ra sao, nhưng rồi anh lại cười và nói, thôi không cần phải nghĩ gì cả vì có nhiều việc vốn chẳng hề có câu trả lời.
Nói đoạn, anh lại nhìn tôi mỉm cười, tiếng cười như tỏa hương thơm.
Trì Mặc luôn hỏi tôi: Điệp Triệt, muội có biết bờ đối diện của biển băng là gì không?
Tôi nói cho anh biết, phụ vương đã từng nói uội hay, bên đó là nơi ở của người bộ tộc Lửa, một bộ tộc rất ác hiểm.
Trì Mặc luôn nhìn về nơi ấy mà chẳng nói gì, lưng luôn quay về phía tôi nên tôi không nhìn được mắt anh, nhưng tôi có thể tưởng tượng ra rằng, trong con mắt đó luôn chứa đầy hình ảnh những con chim đang bay trên không trung.
Gió biển lúc nào cũng rất to, lần nào anh cũng hỏi tôi có lạnh không? Rồi sau đó cởi áo ngoài khoác lên người tôi và ôm chặt tôi vào lòng, tôi ngửi thấy mùi của hương hoa đang nở. Tôi biết linh hồn của những đóa hoa đó đang bắt đầu nhảy múa quanh tôi.
Trì Mặc trở thành pháp sư nam duy nhất đồng lứa với tôi trong bộ tộc, các người anh khác của tôi chẳng ai có tư cách này, vì bộ tộc Vu Lạc chúng tôi từ lịch sử xa xưa rất ít đàn ông trở thành pháp sư. Cho nên, khi tôi nhìn thấy anh của tôi mặc bộ quần áo ảo thuật màu đen có viền vàng rất đẹp đó thì cảm thấy vô cùng hạnh phúc, một thứ hạnh phúc vừa chậm rãi lại vừa mơ hồ nhưng rất thân thiết.
Nhưng tôi còn nghe thấy tiếng thở dài của phụ vương sau lưng tôi, khi tôi quay đầu lại, nhìn thấy một giọt nước mắt ứa ra nơi khóe mắt của Người, đó là lần đầu tiên tôi thấy phụ vương khóc.
Ngay từ nhỏ, anh của tôi đã không thích nói chuyện với người khác, chỉ đứng một mình ở một nơi, rất bình thản và yên lặng.
Một câu mà anh nói nhiều nhất với tôi là, Điệp Triệt, muội có muốn cùng ta rời bỏ đây không?
Lúc đó, tôi không hiểu ý của câu nói đó nên đã hỏi lại rằng: Rời bỏ ư? Rời bỏ cung điện của bộ tộc này ư?
Trì Mặc nhìn tôi, ánh mắt buồn như mặt trời vừa lặn, anh bước tới nắm chặt lấy vai tôi, cúi xuống nhìn và nói, Điệp Triệt, anh rất muốn đưa muội đi, có thể sang bờ bên kia của biển băng, chúng ta có thể rời bỏ nơi này.
Tôi nhìn vào khuôn mặt của anh, sự đau khổ hằn sâu trên khuôn mặt.
Tôi nói, thực ra huynh đưa muội đi đâu, muội cũng có thể cùng đi tới đó.
Sau đó, anh gục đầu vào vai tôi khóc không thành tiếng, nhưng những giọt nước mắt rơi xuống cổ tôi, tôi chưa bao giờ biết được nước mắt lại nóng đến vậy, sức nóng như đốt cháy cổ tôi.
Trì Mặc nói nhỏ, hỡi Điệp Triệt, ta chẳng muốn muội đi đâu cả, muội hãy sống vui vẻ trong cung điện của bộ tộc mình, trở thành vua mới của bộ tộc, chớ quên rằng, muội là con gái thân yêu nhất của phụ vương.
Con chim tuyết trên trời hốt hoảng bay vụt qua cất tiếng kêu đau đớn.
Khi tôi tròn một trăm chín mươi tuổi, phụ vương chính thức tuyên bố tôi trở thành vị vua kế nhiệm. Hôm đó, trong cung điện thênh thang, tiếng phụ vương sang sảng, giọng nói của Người còn âm vang mãi. Tôi đứng giữa đại điện, một ngọn gió không biết từ đâu thổi tới làm tóc tôi xõa ra che kín khuôn mặt. Tôi muốn nhìn thấy nụ cười của anh, nhưng chẳng biết làm thế nào, cuối cùng cũng nhìn thấy lờ mờ nụ cười ấy qua những sợi tóc, tôi còn nhìn thấy hàm răng trắng và đôi lông mày qua một màn hơi nước mờ ảo trong tiếng cười của mọi người. Nhưng rồi tôi đột nhiên im lặng bởi ngửi thấy mùi hương của
những đóa hoa đang nở quanh đâu đó Trong phút cuối cùng của buổi lễ, tôi nhìn thấy Quốc vương của Vương Quốc Ảo Tuyết đứng mãi trên cao, ông ta tới tham dự lễ kế nhiệm. Cũng như phụ vương của tôi, ông rất uy vũ, nhưng có được một vẻ rạng rỡ rất thần thánh mà không ai xâm phạm tới được. Ông đi tới trước mặt tôi và nói, Điệp Triệt, ta biết nhà ngươi là người con gái yêu quý nhất của phụ vương ngươi, ta sẽ tặng nhà ngươi một cây đàn, ngươi hãy đưa tay ra.
Khi tôi đưa tay ra bỗng thấy mười đầu ngón tay đau đau, nhưng rồi cảm giác đó nhanh chóng biến mất. Tôi ngẩng đầu lên nhìn nhà vua, ông mỉm cười với tôi và nói, Điệp Triệt, ngươi hãy thử linh lực của nhà người đi.
Khi tôi đưa tay ra, bỗng mười đầu ngón tay tôi nhói đau, nhưng rồi chỉ trong giây lát không còn đau nữa. Tôi ngước lên nhìn Đại vương. Người mỉm cười với tôi và nói, Điệp Triệt, hãy thử đi nào.
Khi tôi niệm thần chú, đột nhiên thấy mười sợi dây đàn màu xanh lấp lánh phóng ra từ giữa hai tay tôi rồi nhanh như chớp trùm lấy cả cung điện, khi tôi dùng ngón tay nhẹ nhàng gẩy nó, thấy phát ra một bản nhạc mà tôi chưa từng được nghe thấy bao giờ.
Nhà vua ngồi tít trên ngai cao cười nói với tôi, từ nay trở đi, cây đàn này gọi là Ảo Điệp cầm.
Sau đó, tôi cùng mọi người trong gia tộc quỳ xuống, tôi nghe thấy tiếng tung hô và chúc tụng của mọi người đối với nhà vua.
Tôi thấy mặt nhà vua biến sắc, trong mắt ông bão tuyết đột nhiên nổi lên, ông quay lại nhìn tôi và phụ vương tôi, tôi nhìn thấy vẻ mặt hốt hoảng của phụ vương, trên mặt nhà vua tràn ngập một thứ sát khí màu xanh, một áp lực nặng nề trùm lên người tôi. Chính lúc đó, tôi mới biết rằng, ảo thuật của nhà vua cao siêu biết bao.
Tôi nghe tiếng phụ vương thảng thốt, mặt cúi xuống Thưa Đại vương, thần biết phải làm thế nào rồi .
Tôi nhìn thấy nhà vua rời cung điện, gió thổi tung tà áo bào pháp thuật của ông. Khi ông sắp ra khỏi điện, anh tôi đột nhiên ngã xoài ra đất, hai mắt nhắm nghiền, tóc tung ra, miệng trào ra một dòng máu trắng long lanh.
Phụ vương bước tới ôm lấy anh rồi ra khỏi cung. Khi đến cửa ông còn quay đầu lại nói với tôi, Điệp Triệt, từ nay trở đi, con sẽ là vua của bộ tộc này, gánh vác vận mệnh của cả gia tộc.
Phụ vương đã đi, mọi người cũng đi, chỉ còn mỗi mình tôi đang giữa cung điện mà chẳng biết đi về đâu, tôi ngước nhìn vòm cung điện trên à nước mắt rơi như mưa.
Từ sau hôm ấy trở đi, tôi không bao giờ gặp lại anh tôi nữa.
Cũng bắt đầu từ hôm đó, tôi luôn có những giấc mơ dài bất tận. Trong mộng chỉ toàn là nụ cười trong sáng của anh tôi, người mặc bộ quần áo trắng như tuyết đang đứng trên thành cao, khí thế hiên ngang, anh đang đợi tôi trở về, vô số chim muông cứ chụm lại rồi tản ra bay vòng trên trời như những đám mây luôn thay đổi, lông chim bay bay, hoa anh đào nở rộ, tà áo của anh tôi tung bay trong gió. Anh của tôi đang gảy đàn, ngón tay như múa, tiếng đàn vừa mạnh mẽ lại trong sáng. Tôi luôn thấy anh nói với tôi, nói về nỗi tuyệt vọng và tình yêu tan nát của mình. Cảnh cuối cùng trong giấc mơ là tất cả những đóa hoa anh đào đều biến thành màu đỏ, đỏ như ánh dương tan trong nước trở
thành ảo ảnh. Sau đó, mọi cái đầu dần biến mất trong màn sương, nụ cười của anh tôi vẫn thoắt ẩn thoắt hiện.
Tôi luôn hỏi phụ vương anh của tôi đi đâu, có việc gì không, sao lâu lắm rồi mà tôi không gặp.
Phụ vương tôi chỉ lặng im, đưa tay chỉ bóng con chim tuyết đang vụt qua giữa bầu trời, ông nói với tôi rằng, con hãy xem, con chim kia thật tự do biết bao.
Đột nhiên, tôi nghĩ lại chuyện ngày trước, tôi và anh tôi dẫn nhau đi chơi trong rừng nhìn thấy những con chim bay trong đó, nhìn thấy những bóng râm của cây cối rơi vào mắt anh rồi biến thành một màu đen kỳ lạ. nhưng việc đó đã qua đi hàng trăm năm rồi.
Tiếng sấm vang rền nơi chân trời, giống như rất nhiều tiếng trống khua vang cả đế quốc Ảo Tuyết.
Trì Mặc chết năm hai trăm tuổi, cũng là năm tôi một trăm chín mươi tuổi và trở thành vua của bộ tộc Vu Lạc.
Chính là tôi đã giết chết anh của tôi - anh Trì Mặc, người tôi yêu quý nhất, người mà trên cơ thể luôn tỏa ra mùi hương hoa thơm ngát, người luôn nói: Có Điệp Triệt, anh mãi mãi không thấy lẻ loi .
Một tháng sau khi anh mất tích, tôi mơ thấy Trì Mặc bị giam ở dưới Đàn tế tối tăm và ẩm ướt, anh bị đóng đinh trên một bức tường, đầu gục xuống, mái tóc rủ che lấp hết khuôn mặt tuấn tú, tôi không nhìn thấy khuôn mặt của anh, nhưng tôi biết chắc là anh đang rất đau khổ.
Tôi đi tìm phụ vương, phụ vương cuối cùng cũng kể lại chuyện của Trì Mặc, ông nói chậm rãi và rất mông lung, giống như một giấc mộng vừa huyền ảo lại vừa rõ ràng, tới khi tỉnh dậy, nước mắt tôi đầm đìa khuôn mặt.
Phụ vương nói cho tôi biết, thực ra mẫu hậu của Trì Mặc là người ông yêu quý nhất, mẹ của bà có đôi con ngươi đỏ như lửa và mái tóc dài lay động như ngọn lửa vì bà là người bộ tộc Lửa. Khi phụ vương lấy bà, bà vẫn còn dung mạo của người con gái bộ tộc Băng. Nhưng khi bà hai trăm tuổi, mắt và tóc bà bỗng biến thành đỏ như lửa, giống hệt loại lửa phá thiên.
Mẫu hậu của Trì Mặc sinh cho phụ vương một mình Trì Mặc. Khi sinh, bà đã dùng kiếm băng tự rạch bụng mình, sau đó có rất nhiều đốm lửa trong bụng rơi ra, Trì Mặc xuất hiện trong những đốm lửa đó, thần sắc rất hiền từ, ánh mắt rất sinh động. Sau đó, ngọn lửa dần dần lụi đi, mắt và tóc của Trì Mặc biến thành màu trắng giống hệt như phụ vương, nhưng phụ vương biết rằng, khi tròn hai trăm tuổi, nó sẽ trở lại như những ngọn lửa.
Hôm đó, khi nhà vua đi tới cạnh Trì Mặc đã phát hiện ra anh chính là hậu duệ của bộ tộc Lửa, cho nên người phải làm anh mất tích bằng một cực hình rất tàn khốc, đó là dùng năm thanh kiếm băng đóng chặt anh lên bức tường trong mười bốn ngày để áu chảy hết mà chết.
Khi tôi nghe được tin này, nước mắt chảy giàn giụa, tôi nhớ tới cơ thể mỏng manh của anh.
Cuối cùng tôi cũng gặp được anh của tôi trong một gian phòng tối tăm dưới Đàn tế, dòng máu đỏ từ những vết đâm qua ngực cứ chảy mãi, chảy mãi không ngừng loang ra mặt đất giá lạnh, tôi nhìn thấy mái tóc và con người anh đã đỏ như lửa.
Tôi bước đến chỗ chân anh, anh cúi xuống nhìn tôi, tôi nhìn thấy khuôn mặt anh bị mái tóc che lấp không để lộ chút đau khổ hay oán hận gì, vẫn rất bình tĩnh và đầy suy tư.
Anh hỏi tôi: Điệp Triệt, muội đã biết hết rồi ư? .
Tôi nhìn lên và gật đầu.
Anh nói tôi đừng buồn, chưa bao giờ ta hận phụ vương cả, ta càng thích muội hơn. Chỉ cần muội đến được đây là ta đã hạnh phúc lắm rồi, hãy thay ta chăm sóc phụ vương, chăm sóc thần dân của bộ tộc này.
Khi tôi quay đi thì thanh kiếm thứ ba cũng vừa đâm thủng ngực anh, tôi như nghe thấy tiếng máu thịt đứt ra, dòng máu chảy trào vách đá.
Tôi thấy anh chau mày mà lòng đau như cắt.
Trì Mặc nhìn tôi, nói: Điệp Triệt, muội chớ đau lòng, hãy còn hai thanh kiếm băng nữa, sau đó ta sẽ có thế ngủ một giấc dài rồi .
Tôi hỏi sao nhà vua lại có thể tàn nhẫn như vậy, ta quyết không cho phép.
Sau đó tôi bước đi, làm phép gọi thanh kiếm băng về rồi đâm một nhát xuyên qua cổ anh.
Anh cúi đầu xuống, mái tóc trùm lên mặt tôi, nước mắt của anh chảy vào mắt tôi, tôi như nghe tiếng thì thào của anh: hỡi Điệp Triệt, sao muội khờ dại thế, sao lại phải làm vậy vì ta?
Tôi nói rằng, muội không thể cứ đứng nhìn cảnh này được.
Dòng máu tươi của Trì Mặc chảy theo thanh kiếm băng xuống nhuộm đỏ cả tấm áo dài ảo thuật của tôi.
Vì tôi giết chết Trì Mặc, người mà Đại vương yêu cầu phải dùng hình thật tàn khốc nên Người đã nổi giận, phụ vương nhìn tôi với ánh mắt đầy thương đau và hối tiếc. Tôi bước tới ôm lấy phụ vương, trong chốc lát, những vết nhăn già lão bỗng xuất hiện rất nhanh trên khuôn mặt của Người.
Người hỏi tôi định làm gì vậy, tôi đáp là mình không sẵn sàng để làm vua của bộ tộc Vu Lạc, tôi sẽ rời bỏ nơi đây đi tìm chốn ẩn cư, sống nốt quãng đời còn lại của mình.
Phụ vương không nói gì, tôi chỉ nghe thấy tiếng kêu của chim bay trên trời, tôi ngẩng đầu lên, nghĩ về những chiếc lông chim đang bay bay rơi xuống mắt tôi và anh Trì Mặc đẹp làm sao!
Khi tôi chuẩn bị rời cung điện thì gặp một cô gái ngay dưới chân thành, cô ta nói mình tên là Uyên Tế, nàng hỏi tôi có muốn đi xem xem tình cảm của tôi đối với Trì Mặc liệu có thể làm cảm động được bức tường than thở trong truyền thuyết hay không? Tôi quay lại nhìn cung điện của gia tộc tôi lần nữa, cảm thấy nó quá bé nhỏ như một vườn hoa thủy tinh mà thôi.
Uyên Tế nói, đúng nó là vườn hoa thủy tinh.
Tôi đột ngột hỏi, làm sao nàng biết được ý nghĩ của ta?
Uyên Tế không trả lời câu hỏi của tôi mà nói, bà là một nhạc công có linh lực cao siêu, vậy liệu bà có muốn đi xem bức tường than thở trong thần thoại của bộ tộc tôi không?
Tôi cúi đầu suy nghĩ và phát hiện ra rằng, trong thành Nhẫn Tuyết chẳng có gì đáng để tôi lưu luyến nữa, và thế là tôi gật đầu. Khoảng khắc đó, tôi nhìn thấy vô số những bông hoa nở trong không gian, đó là những linh hồn của các đóa hoa. Đây không phải là ảo giác, bởi chính mắt tôi nhìn thấy ngón tay của Uyên Tế co duỗi và những phép thuật mà cô ta dùng.
Khi tôi rời thành Nhẫn Tuyết, trong đầu tôi bỗng hiện lên vô vàn những bức tranh, tôi nhìn thấy anh Trì Mặc đứng giữa bãi tuyết mỉm cười với tôi, tôi nhìn thấy bóng những con chim rơi vào trong mắt anh lan tỏa ra thành một màu đen mênh mang, nhìn thấy ánh mắt lấp lánh như những vì sao của anh đang đứng ở cổng thành chờ đợi tôi trở về, màu sắc trên tà áo anh lan tỏa mãi, tôi nhìn thấy anh của tôi đang ngồi trên thành cao gẩy đàn chờ tôi quay về, tóc bị gió thổi bay tung về phía phương bắc, tấm áo dài ảo thuật của anh mãi mãi sạch sẽ bay phấp phới, tôi nhìn thấy anh với đôi lông mày lưỡi mác đang bị
đóng đinh trên tường, nước mắt chảy xuống làm ướt mặt tôi và tà áo dài màu lam của chàng, những bông hoa băng dính trên áo chàng nở rộ như những đóa hoa sen...
Tiếng sấm rền vang sau lưng tôi như tiếng đổ vỡ của tòa thành.
Tôi ngước lên, xung quanh ngập một mùi thơm của hoa đang nở, linh hồn của những đóa hoa.
Trì Mặc - người tôi yêu nhất cuối cùng cũng đã biến mất ngay trước mắt tôi.
Xin đại huynh hãy tha thứ uội, muội phải ra đi, phải rời khỏi tòa cung điện này, rời xa Vương Quốc Ảo nơi chôn vùi tuổi xuân của muội. Có thể ở nơi tận cùng của trời đất muội sẽ gặp lại linh hồn của huynh, lúc ấy, xin huynh hãy mỉm cười với muội, nụ cười như phá tan ánh triều dương, hãy để uội được cười, cho chảy hết nước mắt của mình, sau đó hãy để uội thấy huynh đang tự do, đang ca hát.
Vì Tinh Quỹ hôn mê mãi khôn g tỉnh nên chúng tôi không thể lên đường, bởi phía trước là lãnh địa của Bắc phương hộ pháp Tinh Trú, nếu không có Tinh Quỹ thì khó lường được mỗi bước đi của chúng tôi sẽ gặp trở ngại gì.
Cung thần Huyền Vũ ở nơi cao nhất của núi Tuyết, ngay cả khi đứng ở lãnh địa của Nam phương hộ pháp cũng có thể nhìn thấy, tòa cung điện màu trắng nguy nga trông như một thanh kiếm sắc nhọn chĩa thẳng lên trời xanh, thần bí mà cũng rất tráng lệ. Trong những tối Tinh Quỹ ngủ mê, chúng tôi cóthể nhìn thấy những vì sao trên nóc cung điện chọc trời đó luôn thay đổi vị trí theo một quĩ đạo rất kỳ lạ. Thỉnh thoảng, cả cung điện phát ra thứ ánh sáng trắng rực rỡ hắt lên trên bầu trời đen mông lung, hội tụ lại thành một vì sao
khổng lồ, giống như vết sẹo giữa trán của Tinh Cựu và Tinh Quỹ.
Tinh Quỹ tỉnh lại sau ba ngày hôn mê nhưng rồi lại ngất lịm đi, trong giây lát tỉnh lại đó, miệng Tinh Quỹ trào ra dòng máu trắng, nó nắm lấy tà áo của Hoàng Thác nói một cách đau khổ rằng: ... Hãy dẫn tôi... trở về cung thần...
Phá Thiên... . Sau đó lại ngất đi, không tỉnh lại nữa.
Sau khi chúng tôi mang Tinh Quỹ trở về cung thần Phá Thiên đổ nát. Tinh Quỹ bắt đầu tỉnh lại, ốm yếu như chẳng còn sức lực, Hoàng Thác luôn đặt nó trong vòng bảo vệ màu trắng, sau đó Tinh Quỹ khỏe gần lên.
Chúng tôi ở lại đó chừng nửa tháng, cuối cùng Tinh Quỹ đã đứng dậy được.
Tinh Quỹ nói với tôi, giữa các nhà chiêm tinh vốn có một ràng buộc rất đặc biệt, người nào mạnh hơn có thể dễ dàng áp đảo kẻ yếu hơn, thậm chí có thể dễ dàng khống chế và giết chết họ. Điều này được lưu truyền lại từ thời nguyên thủy xa xưa nhất, chẳng ai có thể thoát khỏi vòng kiềm tỏa đó được, vì vậy, nếu nhà chiêm tinh nào linh lực yếu thì quả là nỗi đau khổ nhất. Nói cách khác, nếu ai rơi vào vi phạm khống chế của nó, ví dụ như nếu Bắc phương hộ pháp Tinh Trú muốn thì Tinh Quỹ không thể triển khai được phép lực của mình, thậm chí ông ta còn có thể dễ dàng giết chết Tinh Quỹ ngay. Bản thân
Cung thần Tung Thiên là tối cao của núi Tuyết, do vậy phạm vi khống chế của Bắc phương hộ pháp rộng hơn bất kỳ người nào khác.
Tôi hỏi Tinh Quỹ lẽ nào sức mạnh của Tinh Trú thực sự mạnh đến như vậy ư? Quỹ quay đầu lại nói.
- Thưa Đại vương, đúng là rất mạnh. Ngay như bà già trong khu rừng Tuyết quả là người rất tốt, thì giấc mơ mà bà mang lại cho thần có độ chân thực mà ngay cả đại huynh của thần cũng không thể làm nổi. Nhưng cây gậy mà bà dùng là cây Lạc Tinh trượng, còn Tinh Trú lại dùng cây Tung Tinh trượng. Đại vương có thể nhìn thấy những vì sao trên cung thần của bà, nó luôn thay đổi vị trí, Tinh Trú còn có thể làm thay đổi đường đi của các ngôi sao, điều này thì những nhà chiêm tinh thông thường không sao làm được.
Tôi cúi đầu mà chẳng nói gì cả.
Hoàng Thác bế Tinh Quỹ như bế đứa con gái của mình, mỉm cười nói với nó, nói rằng: vậy thì khi tới lãnh địa của Bắc phương hộ pháp Quỹ phải luôn ở trong vòng bảo vệ của ta, không được ra ngoài, ta đảm bảo ngươi sẽ không bị Tinh Trú giết chết được. Nụ cười của Hoàng Thác trầm lặng mà kiên quyết. Tôichợt nhớ tới trước đây, phụ vương tôi khi bộ tộc Lửa tấn công thành Nhẫn Tuyết, ông cũng mong một thứ tình cảm như vậy, rất kiên định như một tảng băng cứng rắn nhất.
Nguyệt Thần nói, Hoàng Thác, người không hề biết chút ma thuật đen nào, nếu có ai tấn công thì làm sao? Hoàng Thác cười và nói chẳng sao cả.
Phiến Phong nói: không sao cả, tôi sẽ luôn đứng bên để bảo vệ Hoàng Thác, ngoài ra còn có Liêu Tiễn, tôi muốn trừ bỏ Bắc phương hộ pháp, chẳng có ai là đối thủ của tôi và Liêu Tiễn.
Ba ngày sau, đêm nào Tinh Quỹ cũng đứng trên đồi cao để chiêm tinh, tôi nhìn thấy Quỹ luôn giơ cây Lạc Tinh trượng lên trời, ánh sáng của các vì sao tụ lại thành một luồng sáng cực sáng chụp lấy Tinh Quỹ, xung quanh có gió mạnh thổi. Mái tóc và tà áo chiêm tinh của Tinh Quỹ luôn bay tung lên trời, tôi thầm cảm thấy đất dưới chân rung động mạnh.
Đây là lần đầu tiên tôi chứng kiến một nghi thức chiêm tinh trong thời gian dài và cường độ mạnh như vậy, chúng tôi đều đứng cả ở dưới chân đồi im lặng. Sau ba ngày, chiêm tinh của Tinh Quỹ kết thúc, cột ánh sáng chụm lại ở trên trời đột nhiên như những mảnh thủy tinh vỡ vụn ra rơi xuống chân Tinh Quỹ, tôi nhìn thấy bóng dáng vươn cao của Tinh Quỹ ở trên đỉnh núi bỗng đổ xuống phía sau, tà áo bay bay. Nhưng khi Tinh Quỹ chưa chạm tới đất thì Hoàng Thác đã bước tới ôm lấy Quỹ rồi nhanh chóng đưa vào vòng bảo vệ do chính mình tạo ra. Trong vầng sáng đó, tôi nhìn thấy dòng máu trắng không
ngừng tuôn chảy nơi miệng nàng, giống hệt cảnh tượng khi nàng hôn mê trong lãnh địa của Bắc phương hộ pháp.
Trong ba ngày liền, Tinh Quỹ đã tìm ra được con đường tiến vào cung thần Tung Thiên Huyền Vũ, bao gồm cả nơi nào phải dùng lại, nơi nào phải đi đêm. Linh lực của Tinh Quỹ hầu như gần cạn kiệt, Hoàng Thác phải làm phép thuật để phục hồi linh lực cho Quỹ, đặt Quỹ vào trong vòng bảo vệ rồi cùng lên đường. Bởi vì một khi đi vào lãnh địa của Bắc phương hộ pháp, Tinh Quỹ bắt buộc phải ở trong vòng bảo vệ đó, nếu không sẽ dễ dàng bị Tinh Trú giết chết.
Con đường mà Tinh Quỹ lựa chọn vừa phức tạp lại khúc khuỷu, phải đi qua rừng rậm, hồ ao, đầm lầy, rừng đá, nhưng Quỹ đoán rất chính xác, nên chúng tôi thường đi qua những nơi sát với những nhà chiêm tinh của Bắc phương hộ pháp chứ không thể đối mặt trực tiếp với họ được. Trên đường đi, Tinh Quỹ thường phải dùng phép lực của mình áp chế những nhà chiêm tinh của Tinh Trú để tránh phải đối đầu đánh nhau với họ trước khi gặp Tinh Trú.
Đi được mười ngày, chúng tôi lên tới đỉnh Tuyết sơn, cung thần Huyền Vũ sừng sững như chạm tới tận trời xanh, tường thành của nó cao tới vài ngàn trượng thẳng đứng. Tinh Quỹ nói cho chúng tôi biết cung thần này được bố trí theo hình sao sáu cánh, mỗi góc của vì sao có một tháp rất cao, trên đó có những vị trí rất có lợi cho chiêm tinh. Ở giữa vì sao sáu cánh chính là đại điện của Tinh Trú và cũng là trung tâm của đại điện đó, còn trung tâm của đại điện là ngai vàng của Tinh Vương, chiếc ngai này được làm từ đá Huyền Vũ ở đài tế sao trên núi thần Ảo Tuyết, nó đã tạo cho Tinh Trú một sức mạnh vô cùng vô
tận, hòa chung và bổ sung lẫn cùng với linh lực của Tinh Trú.
Chúng tôi đứng ở cửa vào cung Tung Thiên, Tinh Quỹ nói: Thưa Đại vương, bây giờ chúng ta phải đi vào trong, có lẽ Tinh Trú chưa biết chúng ta đã đến, nếu Nguyệt Thần bí mật đi ám sát chắc sẽ thành công.
Nguyệt Thần bước tới vầng sáng bảo vệ Tinh Quỹ và nói, Tinh Quỹ hãy yên tâm, không phải lo lắng gì, ta sẽ dùng thuật ám sát để trừ khử kẻ đã gây đau khổ cho nhà ngươi.
Sau đó, phía trên đầu chúng tôi vọng lại tiếng nói. Hỡi Nguyệt Thần, hãy tới gặp ta, nếu không ngươi sẽ giống như chị ngươi chết mà không biết; còn Ca Sách, ta tôn xưng nhà ngươi là vua, vì không muốn để nhà ngươi lạc đường, ta chỉ đường cho ngươi đến gặp ta, chỗ các người đang đứng chính là Đài tế sao Huyền Lôi, chỉ cần đi thẳng sẽ gặp cửa con đường thứ hai rồi rẽ trái sẽ gặp được ta. Ta đang chờ ngươi, hỡi Đại vương...
Sau đó xung quanh đột nhiên vang lên tiếng cười chói tai, dù cho bịt tai lại vẫn nghe thấy, tiếng cười lộng óc khó chịu vô cùng. Khi tôi quay đầu lại nhìn Tinh Quỹ mới biết vì sao Tinh Trú lại cười, bởi Tinh Quỹ đã ngất lịm đi trong vầng sáng bảo vệ, máu trắng chảy ra từ miệng nàng đã làm ướt hết chiếc áo chiêm tinh. Khóe miệng của Hoàng Thác cũng bắt đầu chảy máu, một chân quỳ dưới đất, hai tay giơ ra phía sau như con chim tuyết đang bay, đang cố hết sức để bảo vệ Tinh Quỹ, nhưng vầng sáng kia đang thu nhỏ dần, lông mày của Hoàng Thác cũng co rúm lại, người bắt đầu lắc lư.
Trận cười đột nhiên biến mất cũng nhanh như khi nó xuất hiện.
Tiếng nói đó lại vang lên, hỡi Ca Sách, hãy tới gặp ta, ta chính là Tinh Trú mà ngươi đang tìm đây và là Bắc phương hộ pháp, nhà chiêm tinh vĩ đại nhất trong núi thần Ảo Tuyết, ta đang ngồi ở ngai vua chờ ngươi...
Xem ra Tinh Trú đã biết trước mọi hành động của chúng tôi, chúng tôi tính xem sức mạnh của ông ta ra sao - Phiến Phong nhìn về Đài tế sao Huyền Lôi cao chọc trời mà nói. Gió từ bốn phương của cung thần Tung Thiên thổi tới, làm tóc và áo chúng tôi bay phấp phới như những lá cờ.
Nguyệt Thần nói, hành động của chúng ta đều nằm trong tầm khống chế của Tinh Trú, xem ra chỉ còn cách phải nghe bà ta chứ không có lựa chọn nào khác. Tinh Quỹ bỗng ngẩng đầu lên nói với tôi, hỡi nhà vua, thần thật không ngờ Tinh Trú có sức mạnh lớn như vậy, chúng ta không thể đối phó nổi, thần xin lỗi...
Liêu Tiễn bước tới quỳ xuống nói với Tinh Quỹ, chẳng ai trách nàng cả, nàng hãy ngủ đi, ta sẽ không làm phiền nàng nữa.
Khi Tinh Trú xuất hiện trước mặt chúng tôi, Tinh Quỹ và Hoàng Thác đã ngất xỉu ra đất, vầng sáng bảo vệ của Hoàng Thác đã vỡ vụn ra, Tinh Quỹ mất hết tri giác. Trên con đường từ Đài tế sao Huyền Lôi đến ngai vua của Tinh Trú, linh lực của Tinh Trú mỗi lúc một lớn, Tinh Quỹ bị ảnh hưởng càng nặng nề hơn, Hoàng Thác càng không bảo vệ được Tinh Quỹ, Tinh Quỹ nén đau, môi mím chặt bật cả máu tươi, còn Liêu Tiễn tay nắm chặt lòi cả xương trắng.
- Ca Sách, ngươi tới rồi.
Khi Tinh Trú nói với tôi, tôi thấy môi bà ta không động đậy, chỉ nghe thấy tiếng nói của bà ta cứ như trong giấc mơ không biết vọng tới từ nơi nào trong cung điện rộng mênh mông này. Tôi chỉ mong bà ta đừng điều khiển giấc mơ để khống chế họ, bởi tôi nhìn thấy vẻ hoang mang trên mặt của Phiến Phong và Liêu Tiễn. Còn Nguyệt Thần thì như chẳng bị ảnh hưởng gì cả, vì đối với nàng, thuật ám sát đó rất dễ dàng bị hóa giải. Nguyệt Thần rất tập trung và mặt đầy sát khí, tôi nhìn thấy ánh trăng trên tay nàng dần dần tụ lại thành hình một thanh kiếm băng.
Tiếng của Tinh Trú lại xuất hiện một lần nữa, bà ta nói, ta biết Nguyệt Thần muốn cho ta nhìn thấy ánh trăng trên tay ngươi và còn biết rằng vũ khí giết người thực sự không phải là thanh kiếm băng đó, bởi sau khi tiến công bằng thanh kiếm băng vào ta, lợi dụng khi ta chống đỡ thanh kiếm đó sẽ dùng độc tố của mật khổng tước và ảo thuật khiến gió tuyết bao vây ta, làm cho ta không thể động đậy được, bởi nếu động vào tuyết chất độc sẽ vào ngay cơ thể, còn nếu không động vào, thanh đao ánh trăng sẽ dài ra đâm thẳng vào người.
Nguyệt Thần, có đúng vậy không?
Tôi thấy Nguyệt Thần im lặng không nói gì, nhưng không che giấu nổi sự sợ hãi hiện ra trong ánh mắt.
Tinh Trú càng tỏ ra quỷ quyệt hơn, bay lượn như trong mơ.
Lần đầu tiên tôi thấy thất vọng. Từ khi bắt đầu đi vào núi thần, từ Phong Thiên, Khuynh Nhẫn đến Điệp Triệt đều không làm tôi thất vọng nhưng sự tinh thông của Tinh Trú thì rõ ràng làm những đòn tiến công của chúng tôi đều vô dụng cả. Tôi không biết phải làm sao mới đánh lại được bà ta.
Tôi nhìn Nguyệt Thần, nàng cũng nhìn tôi, tôi biết nàng muốn cùng ra tay, tôi gật đầu.
Nhưng tôi nhận ra, dù tôi và Nguyệt Thần cùng ra tay cũng không thể đánh bại được bà ta. Mỗi lần chuẩn bị tiến công, bà ta hầu như đều biết trước, từ vị trí, cách dùng phép thuật đến tốc độ tấn công bà ta đều đoán đúng không sai một ly nào.
Tôi và Nguyệt Thần cúi người xuống, tiếng cười của Tinh Trú vẫn lởn vởn quanh chúng tôi như bông hoa man đà la màu đen trong sương mù, tỏa ra mùi thơm làm say lòng người, rất nguy hiểm đến tính mạng. Bà ta nói:
- Ca Sách, ngươi không thể làm em trai ngươi sống lại, ngay cả cung thần Huyền Vũ ngươi cũng không qua nổi huống hồ là lãnh địa Tây phương ở phía sau ta đây! Hãy để các ngươi chết tại đây sẽ làm cho linh lực của cung thần Tung Thiên tăng tên.
Sau đó, tôi nhìn thấy một quả cầu ánh sáng màu sắc biến đổi khôn lường trong tay Tinh Trú, tôi biết đó là giấc mơ riêng của bộ tộc chiêm tinh, Tinh Cựu và Tinh Quỹ đã từng dùng nó. Tôi biết cả hai chúng tôi sẽ phải bước vào giấc mơ đó và không thể tỉnh lại được.
Nhưng tôi đã chẳng còn chút sức phản kháng nào nữa, linh lực của tôi như sương mù tan ra trong ánh mặt trời. Tôi nhìn Nguyệt Thần nàng ngã ra đất nhìn tôi, tôi nhìn thấy nét tuyệt vọng trong mắt nàng.
Khi tôi rơi vào giấc mơ thì đột nhiên một cơn gió mạnh từ phía sau ào tới, sau đó có vô vàn những thỏi băng sắc nhọn bay vút qua vai tôi, rồi nghe thấy tiếng những thỏi băng đâm vào da thịt.
Tôi nhìn lên thấy Tinh Trú đang há hốc miệng, ánh mắt ngạc nhiên đến không ngờ, máu tươi từ những vết do những thỏi băng đâm vào thủng ngực đang không ngửng chảy ra, nhỏ giọt lên ngai vua của bà ta.
Tôi quay đầu lại, thấy Phiến Phong đang đứng đằng sau, mắt nhắm, nước mắt tuôn chảy, còn Hoàng Thác ngồi trên mặt đất, trước mặt anh ta là Tinh Quỹ đang nằm trong vũng máu, tóc xổ tung, hai mắt mở to, nhìn lên bầu trời trên cung điện, mặt chẳng chút biểu hiện, trống rỗng và tê liệt.
Trên mặt Tinh Trú đột nhiên xuất hiện nụ cười nham hiểm, tiếng của bà ta vẫn lẩn quất đâu đó, bà ta nói rằng, tuy các người đi qua được cung thần Tung Thiên, nhưng sẽ chẳng bao giờ qua được vùng đất của Tây phương hộ pháp, bởi Tây phương hộ pháp là...
Bà ta nói chưa dứt lời thì mỗi thanh kiếm băng xuyên qua ngực bà ta đều đột nhiên mọc ra những chiếc ngạnh ngược sắc nhọn, và tôi nghe thấy tiếngda thịt bị xé nát. Thì ra, ảo thuật dùng đánh bại bà ta lại không đơn giản chút nào, không phải chỉ dùng thuật kiếm băng phá thiên mà là Huyền băng chú, sau lần tiến công thành công đầu tiên phải lập tức làm cho trên thanh kiếm đã đâm vào trước mọc thêm những thanh kiếm khác để tấn công lần hai, phép thuật này thường dùng để đối phó với người có sức mạnh hơn mình, bởi vì nó tốn rất nhiều linh lực, phải tập trung sức mạnh để tiêu diệt. Tôi không hề biết
một nhà chiêm tinh như Tinh Quỹ lại có được sự lợi hại ghê gớm đó của bộ tộc Băng.
Tôi rất muốn Tinh Trú nói hết ra, nhưng bà ta không thể nói gì được nữa, người đổ vật xuống đất, nét mặt bà vẫn rất gian xảo, tôi thoáng hiểu bà ta còn biết nhiều bí mật khác nữa nhưng chẳng có cách nào lấy được.
Tôi mai táng Tinh Quỹ ở sau cung thần Tung Thiên trên một ngọn đồi nở đầy hoa anh đào. Liêu Tiễn dùng bảo kiếm đào huyệt, tuy chẳng nói lời nào, nhưng những giọt nước mắt cứ rơi từng giọt từng giọt xuống nấm mồ của Tinh Quỹ. Sau khi huyệt đào xong, thanh bảo kiếm của Liêu Tiễn bị sứt mẻ nhiều chỗ do va phải đá, Liêu Tiễn bế Tinh Quỹ đặt xuống huyệt rồi vốc từng nắm đất phủ lên người nàng. Nhìn cảnh đó mà lòng tôi vô cùng hoang vắng, tôi đau đớn đến ngất đi, ánh nắng như những mũi kim nhỏ li ti đâm vào da thịt tôi nhức buốt.
Nguyệt Thần đứng dưới một cây anh đào, gió thổi tung mái tóc và tà áo dài, Hoàng Thác cùng im lặng đứng cạnh đó, Triều Nhai ngồi trước mộ Tinh Quỹ đàn bản nhạc chiêu hồn của bộ tộc Vu Lạc, tôi biết đó là khúc nhạc vĩ đại nhất của bộ tộc, một bản nhạc từ xưa tới nay chỉ dùng để truy điệu các bậc Đế vương, bởi người chơi bản nhạc này phải tốn rất nhiều sinh lực, mà những người nghe thấy sau khi chết linh hồn sẽ bất diệt.
Tối đó tôi nghe thấy tiếng nói rất đau thương nhưng hùng tráng của Liêu Tiễn vỡ vụn ra bay lên bầu trời của cung thần Tung Thiên, rất nhiều nhà chiêm tinh xuất hiện đang trên các lầu tháp của thành nhìn chúng tôi nhưng chẳng nói gì cả, tôi biết họ phần lớn trước đây đều thuộc gia tộc chiêm tinh, ẩn cư nhiều năm ở núi thần Ảo Tuyết. Họ đứng tít trên không trung, tà áo dài của họ bay lên trông giống những bông sen trắng tuyệt đẹp. Chẳng ai nói gì cả, chỉ có tiếng hát của Liêu Tiễn và tiếng đàn của Triều Nhai là vang xa mãi lên tận tầng mây cao.
Khi chuẩn bị đi ngủ, tôi chợt nhớ tới Tinh Cựu, không biết ở thành Nhẫn Tuyết ông ta có xem bói và biết tin về cái chết của em gái mình không hay vẫn bình thản lên đài tế sao cầu phúc cho Tinh Quỹ, hàng ngày nhìn về núi thần, nhớ tới nụ cười bình thản của Tinh Quỹ. Tôi cảm thấy rất buồn nhưng lại không nói ra, cứ thế đi vào giấc ngủ, chờ đợi một ngày mới sẽ tới.
Trong đêm tối mông lung tôi chẳng muốn dậy chút nào, tôi cũng không biết đêm qua mình có khóc không, chỉ nhớ trong mơ, bao nhiêu nỗi buồn trong lòng đều thổ lộ, còn trước mắt tôi lúc đó chỉ còn lại hình ảnh cuối cùng, Tinh Quỹ đang nằm trong vũng máu trên mặt đất.
Cuối cùng tôi cũng biết nguyên nhân cái chết của Tinh Quỹ và Tinh Trú.
Hóa ra là Tinh Trú không phải do Phiến Phong giết mà chính là người con gái yếu ớt Tinh Quỹ giết. Phiến Phong nói, khi vào tới giữa cung thần, Tinh Quỹ đã nói với ông ta, một lát nữa ông phải giả như mình không có sức chống lại Tinh Trú để giữ cho được linh lực, chờ tới khi nàng dùng pháp thuật gọi những thỏi băng trên trời thì hãy dùng luồng gió mạnh nhất tập trung những thỏi băng này đâm vào ngực Tinh Trú, bởi Tinh Trú cho rằng nàng đã bị ông khống chế, không thể nào có sức chống lại được nên sẽ không cần đề phòng nữa. Tinh Trú chỉ thuộc lòng hành động của nhà vua và Nguyệt Thần thôi, Phiến Phong, ông phải giúp tôi, vì đó là cách duy nhất để qua được Tung Thiên.
Phiến Phong nói với tôi rằng, bản thân ông lúc đó không biết cách duy nhất mà Tinh Quỹ nói tới chính là hy sinh bản thân nàng, bởi thực sự nàng bị Tinh Trú khống chế nên không thể chống lại được. Nàng đã phải dùng toàn bộ linh lực và pháp thuật tấn công mà bộ tộc nàng không mấy khi dùng tới, cách này sẽ làm cho linh lực tiêu hao gần như hết. Bản thân ông ta vì rất mừng là có thể đánh bại Tinh Trú nên quên mất là Tinh Quỹ đang rất yếu. Khi ông thấy những thanh kiếm băng lao vào và mọc ra những ngạnh nhọn trong ngục Tinh Trú, ông cảm thấy vô cùng vui mừng, quay lại cười với Tinh Quỹ thì Quỹ đã
ngã xuống trong vũng máu, mắt mở to nhìn lên trời chẳng nói được gì nữa. Ông đột nhiên thấy gió không còn tuân theo sự điều khiển của mình và đang tỏa ra bốn phương bay đi, ông đưa hai bàn tay không ra mà mắt nhòa lệ.
Tôi khép chặt tà áo bào, hoa tuyết xung quanh vẫn rơi trên đầu, kể từ sau cái chết của em trai, tôi chẳng dùng pháp thuật để tránh tuyết nữa, nhưng quả thật, chưa bao giờ tôi thấy hoa tuyết lạnh như lần này, tôi khép chặt tà áo hơn và cũng chẳng nói gì, cố chấp như một đứa trẻ.
Khi rời lãnh địa Bắc phương, Hoàng Thác đưa tôi tới một giấc mơ, ông ta nói Tinh Quỹ để lại bốn giấc mơ, thứ nhất, khi chúng tôi rời Bắc phương rồi sẽ mở, còn thứ hai là khi tiến vào Tây phương, thứ ba là khi chúng tôi không còn manh mối và mất phương hướng, không thể tiến lên được, và cuối cùng khi tôi gặp Tây phương hộ pháp thì giấc mơ sẽ được mở ra.
Giấc mơ thứ nhất đẹp ngoài sức tưởng tượng của tôi, giống hệt như những ngọn lửa lung linh thắp sáng trời xanh, ánh sáng biến đổi muôn màu.
Trong mơ, Tinh Quỹ đang tự do chạy nhảy, mặc dù cả đời nàng chưa thế bao giờ, nụ cười của nàng tràn ngập trên mặt đất phủ đầy hoa anh đào, Tinh Quỹ chạy, những cánh hoa anh đào cũng chầm chậm, chầm chậm bay lên theo, theo mãi...
Đại vương, xin tha lỗi vì muội không thể cùng đi được nữa, dù cho muội không muốn. Sự ra đời của muội là một sai lầm, từ nhỏ muội là đứa trẻ được cả gia tộc yêu mến nhưng đau lòng, phụ hoàng và mẫu hậu luôn rơi lệ vì muội, muội cũng đau lòng khi thấy nét mặt già nua của họ. Còn đại huynh Tinh Cựu của muội là một nhà chiêm tinh vĩ đại, có tấm lòng rộng mở và nụ cười ấm áp, vô cùng bao dung và chiều muội. Nhưng ngôi sao chiếu mệnh của muội đã rơi, muội sẽ chết trong một buổi sớm đầy hương thơm của hoa anh đào hoặc trong một đêm có ánh trăng chiếu dọi. Vì vậy cái chết của muội chẳng có gì đáng tiếc. Trên đường đi muội luôn cần sự bảo vệ của mọi người, Liêu Tiễn thì bế muội, Hoàng Thác thì phải dùng pháp thuật tạo ra vòng bảo vệ, Phiến Phong phải dùng gió đẩy mây đen đi... Nhiều khi muội muôn mình mạnh lên để mọi người khỏi phải lo lắng nhưng không được, thậm chí muội đi cũng không nổi nữa.
Đại vương, từ khi muội sinh ra đã luôn phải sống ở tầng lớp thấp nhất trong cung Ảo Tinh, bói toán hưng vượng hay suy vong cho gia tộc. Muội chưa bao giờ nhìn thấy vẻ thê lương của đóa anh đào cũng như sự tĩnh lặng khi vầng trăng lặn hay nghe âm thanh yếu ớt khi bông hoa nở. Muội rất muốn ra thế giới bên ngoài một lần cho biết, rất muốn biết tới cảm giác gió thổi tung bay mái tóc và tà áo muội. Muội vô cùng cám ơn huynh đã uội một quãng thời gian rạng rỡ được thoát ra khỏi nơi đàn tế đen tối và được
đứng dưới ánh mặt trời, muội được nhìn thấy bức tượng thành hùng vĩ của cung thần Diệt Thiên, được nghe bản nhạc của Triều Nhai làm cảm động bức tưởng than thở, được nhìn thấy Tinh Trú - vị thần của bộ tộc Chiêm Tinh, cho dù phải chết dưới tay bà ta, những muội cũng không hề oán trách.
Đại vương, muội có thể hiểu được tình cảm của huynh đối với đệ của huynh, với Lê Lạc và Lam Thường, nó sâu nặng và nồng ấm làm sao. Lúc ở trong cung điện của Điệp Triệt, khi huynh cho Triều Nhai giấc mơ, muội đã cảm nhận được tình cảm trào dâng trong lòng huynh, muội chỉ mong huynh sống tự do và vui vẻ như ý nguyện của huynh, muội hy vọng sẽ có một ngày, Thích sống lại sẽ cúi xuống hôn lên đôi lông mày của huynh, gọi huynh là đại huynh, giống như muội đã gọi Tinh Cựu của muội vậy. Chỉ có điều, muội
không thể hôn huynh của muội được nữa, mong huynh hãy chăm sóc anh trai của muội.
Thưa Đại vương, muội không thể xem cho con đường đi phía trước của huynh nữa, mong huynh sẽ dũng cảm tiến bước. Thực ra, khi ở trong cung điện của Điệp Triệt, muội đã biết mình sẽ chết ở đó, chính lúc ấy, muội chẳng dám nói cho ai hay, bởi số mệnh không thể nào đổi được, muội chỉ biết vui vẻ tiếp nhận nó.
Thưa Đại vương, khi tiến vào thần điện Tung Tinh, muội đã từng xem quẻ cho huynh tiến vào Tây phương hộ pháp, nhưng quẻ đó muội chưa từng gặp bao giờ, không biết có phải Tây phương hộ pháp quá mạnh hay lãnh địa đó có gì quá đặc biệt, muội chỉ biết nói cho huynh biết, đó là một nơi độc lập tách khỏi ra khỏi vòng cương tỏa của núi thần Ảo Tuyết, dưới sự bảo hộ của Tây phương hộ pháp, muội không có cách gì đoán được nó ra sao cả, có lẽ nó cũng là một cung điện hoành tráng như của các hộ pháp trước đó, cũng
có thể là một bình nguyên băng phủ, thậm chí có thể là một thế giới của bộ tộc Lửa, khi huynh giết chết Tây phương hộ pháp, linh lực của ông ta sẽ tiêu tan và thế giới đó cũng sẽ biến mất theo, sau đó các huynh sẽ gặp Uyên Tế, kẻ thống trị núi thần Ảo Tuyết.
Thưa Đại vương, muội phải ra đi, mong các huynh hãy tiếp tục sống, muội yêu tất cả mọi người, xin huynh chớ báo tin muội chết cho anh của muội, bởi anh rất yêu muội, muội không muốn để anh phải buồn rầu, hễ nghĩ tới khi anh nghe tin này khiên đôi lông mày lưỡi mác đó nhíu lại là lòng muội đau như dao cắt.
Cũng giống như đệ của huynh, mong huynh hãy tự do bay lên!...
Ngày mà chúng tôi chuẩn bị rời cung thần Tung Thiên, tôi nhận được thư của Tinh Cựu gửi từ thành Nhẫn Tuyết tới do con chim chế phong mang lại.
Thư nói rằng, thưa Đại vương, thần xem quẻ và biết rằng mọi người đã vượt qua được cung thần Tung Thiên của Bắc phương hộ pháp nên lòng cũng được an ủi, mong mọi người sớm trở về. Xin Đại vương thay thần chăm sóc cho Tinh Quỹ, thần xem quẻ thấy hình như một mình Tinh Quỹ đi tới một nơi rất xa xôi, Đại vương đừng để muội của thần đi một mình, từ nhỏ Tinh Quỹ rất sợ đơn côi, Đại vương hãy luôn đi cùng với Tinh Quỹ nhé.
Tay tôi run rẩy không giữ được bức thư, một trận gió thổi tới, bức thư nhẹ nhàng bay đi mất, bay lên tít tận trời xanh vào một thế giới mà chúng tôi không thể biết được, bay mãi về hướng Tây.
Tôi mường tượng ra rất nhiều hình ảnh về miền Tây kia, có thể là một mảnh đất kỳ quái hoặc nơi rừng đao biển lửa, nhưng khi tôi đặt chân lên đó vẫn kinh ngạc không nói nên lời, bởi cái mà tôi nhìn thấy lại chỉ là cảnh của trần gian mà thôi.
Khi chúng tôi tiến vào lãnh địa Tây phương hộ pháp là lúc mặt trời đang mọc, không khí ở đây rất đầm ấm, có những cô gái nhỏ nhắn thanh tú tay xách chiếc làn hoa, trong làn toàn là hoa nhài tươi nguyên được xâu lại thành từng chuỗi lớn, đang vừa đi vừa rao bán trên con đường lát bằng các tấm đá xanh còn đọng đầy sương đêm. Trong các quán trà, quán rượu ven đường tiếng người rất huyên náo. Những người bán bánh rán hai bên đường luôn chào mời mọi người mua bán giá rẻ. Còn có cả những thanh niên trẻ mặc áo dài lưng đeo kiếm rất đẹp, tóc họ búi cao, mắt sáng, dáng vẻ kiêu ngạo, những cô gái
lưng thắt dải lụa xanh, mái tóc đen bay bay trong gió rất nhẹ nhàng.
Nhưng điều thực sự đáng kinh ngạc là, khi những người có mái tóc trắng bạc dài chấm đất xuất hiện nơi trần thế thì họ không hề sợ hãi chút nào, nụ cười của họ vẫn rất tự nhiên, những chú Tiểu đồng trong các quán rượu chạy tới hỏi han chúng tôi xem có cần dừng chân nghỉ ngơi hay không. Tôi quay lại nhìn Nguyệt Thần, giờ đây không còn Tinh Quỹ nữa, chúng tôi phải hoàn toàn dựa vào cảm giác nhạy bén như một con thú của một sát thủ như Nguyệt Thần để tránh khỏi nguy hiểm.
Nguyệt Thần nói, đây không phải là trần thế đơn giản vì thấy rất nhiều sát khí.
Tôi nói, ta đã hiểu, vì nếu là người trần khi nhìn thấy bộ dạng chúng ta không thể không có phản ứng gì.
Chúng tôi thận trọng tiến lên, tinh thần tập trung tới mức có thể nghe được cả tiếng tuyết tan dưới bước chân. Nguyệt Thần đi cạnh tôi nói nhỏ, người trong những quán nhỏ ven đường kia đều là những sát thủ tuyệt đỉnh, còn những bà già kia chính là những nhà pháp thuật cao cường khó tưởng tượng nổi, chỉ có những người ăn mày mới đúng là ăn mày.
Khi chúng tôi đi tới đoạn cuối của một đường phố sầm uất thì nhìn thấy một nhà khách rất xa hoa, đầy lời ca tiếng hát, một cậu con trai xinh đẹp mắt đen lay láy đang đứng ở cửa chơi với một quả bóng tròn màu trắng như quả cầu tuyết vậy. Chúng tôi lại gần và quỳ xuống hỏi nhỏ: Này tiểu đệ, huynh đây có thể cùng chơi bóng với đệ được không? Cậu bé nhìn chúng tôi cười, nụ cười thoải mái và trong trẻo như nước suối ban mai. Cậu đưa quả bóng cho tôi, tôi cầm quả bóng trên tay mà mặt biến sắc. Đó là một quả bóng thật, nói cách khác, những thứ ở trần thế đều là thật cả, từ trước tới nay tôi chưa từng nghĩ tới linh lực của Tây phương hộ pháp lại mạnh đến mức này, biến ảo thành thực
như vậy. Tôi thở dài muốn bảo mọi người hãy ngừng lại để mai hãy hay.
Khi tôi quay đầu lại định nói với mọi người thì nhìn thấy ánh mắt hoang vắng của Liêu Tiễn, ông ta vô cảm nhìn tôi, sắc mặt xanh khác thường và sau đó ngã nhào xuống đất, chết ngay khi bước vào lãnh địa Tây phương.
Khi Liêu Tiễn ngã xuống tôi hoàn toàn không có phản ửng gì, còn Phiến Phong đã bước tới ôm lấy Liêu Tiễn, nhưng đã quá muộn, Hoàng Thác đặt ngón tay lên lỗ mũi Tiễn, lập tức tay cứng ngay lại không động đậy được nữa.
Hoàng Thác gõ vào ngón đeo nhẫn bên tay trái, sau đó đưa qua một lượt ở phía trên người Liêu Tiễn rồi quay lại nhìn tôi nói rất nghiêm túc, Tiễn đã chết vì bị trúng độc.
Hoàng Thác nói cho tôi hay kẻ hạ độc nhất định là một cao thủ, bởi hắn đã tính rất kỹ, cho Liêu Tiễn chết ngay từ khi mới bắt đầu bước vào đất Tây phương.
Nhưng chất độc này ở trong người đã lâu rồi, có thể nói là từ trước khi chúng tôi vào Tây phương, đã có kẻ hạ độc Liêu Tiễn rồi.
Tôi bỗng nhìn thấy trong mắt Hoàng Thác một tia sáng rất mơ hồ nhưng rất kỳ quặc, sau đó trở lại rất lặng lẽ gần như tàn khốc, ông ta nói: Thưa Đại vương, trong quãng đường vừa đi qua kẻ nào có cơ hội hạ độc Liêu Tiễn nhất?
Mặt mọi người đều biến sắc, họ đều hiểu rõ ý của Hoàng Thác, nhưng chẳng ai nói ra.
Một lúc sau, tôi nói, tất cả chúng ta, kể cả ta đều có cơ hội để hạ độc.
Phiến Phong nói, người không thể nghi ngờ bất kỳ ai trong chúng ta được.
Nguyệt Thần lạnh lùng nói, nếu ta muốn giết Tiễn thì ông ta phải chết thật đẹp, người không thể có cách gì để nhận ra nguyên nhân của cái chết đó.
Triều Nhai không nói gì, đầu cúi xuống, gió thổi tung mái tóc của nàng, khuôn mặt bị tóc che lấp càng trở nên điểm yếu hơn. Tôi biết sau trận đấu với Điệp Triệt, linh lực của nàng đã mất đi rất nhiều, nên kẻ đó không thể là Triều Nhai được.
Hoàng Thác nói: ta không nghi ngờ bất cứ ai mà chỉ muốn tìm ra sự thật và thực sự tin rằng trong chúng ta không ai ám sát Liêu Tiễn cả mà chỉ muốn mọi người hiểu rằng, kỹ thuật ám sát của kẻ đó thật là xuất thần mà thôi.
Đêm đó, chúng tôi nghỉ lại nhà khách. Đây là một công trình rất xa hoa và tráng lệ với những lầu son gác tía, những cây cầu nhỏ nước chảy bên dưới.
Chúng tôi ở trong mấy ngôi nhà gỗ rất tinh tế trong khu rừng trúc. Trên những phiến lá trúc xanh còn lưu lại dấu tích của tuyết, khi những cơn gió thổi qua, những bông tuyết trong rừng trúc lại bay bay theo gió và rơi xuống.
Triều Nhai rất thích nơi này, nàng nói rằng trong thành Nhẫn Tuyết chỉ toàn thấy những bức tường cao to hùng vĩ, có cột đá Huyền Vũ cao chọc trời và mái vòm cao vời vợi, chứ chưa bao giờ nhìn thấy những ngôi nhà bé nhỏ như thế này.
Chúng tôi mai táng Liêu Tiễn ở mảnh đất trống sau nhà, Triều Nhai định đàn một bản oan hồn khúc, nhưng linh lực của nàng yếu không thể làm nổi, nàng nhìn tôi cười, tôi nhận ra sự buồn rầu trong ánh mắt nàng.
Tối đó, ăn cơm xong, Triều Nhai là người đi ngủ sớm nhất, tôi nhìn nàng đi vào phòng và nhận ra sự mệt mỏi của nàng.
Tối đó, tôi không sao ngủ được, trong óc luôn hiện ra bức tranh kể từ khi chúng tôi vào núi thần Ảo Tuyết đến nay, nó cứ thấp thoáng trong màn đêm đen kịt. Tôi không thể không thừa nhận Tây phương hộ pháp quả là một đối thủ lợi hại mà tôi chưa từng gặp, chúng tôi thậm chí không đủ sức mạnh để trả đũa đòn tiến công của ông ta. Tôi phát hiện ra rằng, thuật ám sát quả là thứ khó chống lại ảo thuật.
Tôi trở mình nhìn ra ngoài, thấy ánh trăng chiếu qua cửa sổ trải đầy mặt đất. Sau đó, tôi vùng dậy lao ra phía sau cửa sổ.
Bởi tôi thấy Nguyệt Thần xuất hiện phía sau nhà, ánh trăng soi rõ đường nét cơ thể nàng. Nguyệt Thần quay lưng về phía tôi, đang đứng trước nấm mồ của Liêu Tiễn. Tôi không thể tưởng tượng được trong đêm trăng này Nguyệt Thần ra mộ Liêu Tiễn. Bỗng một đám mây bay ngang qua che lấp mặt trăng, chính trong lúc ánh trăng yếu đi đó tôi nhìn thấy ánh trăng trên tay Nguyệt Thần, nhưng quả thật tôi cũng không hiểu nàng dùng pháp thuật làm gì, ở đây có kẻ thù nào xuất hiện đâu, thậm chí là chẳng có người nào.
Đúng lúc đó, Hoàng Thác lặng lẽ xuất hiện phía sau Nguyệt Thần, tuy lúc đó gió rất mạnh nhưng tà áo ảo thuật của Hoàng Thác lại không hề lay động, tôi biết là ông ta đã lập vòng bảo vệ an toàn cho mình.
hưng Nguyệt Thần vẫn nhận ra sự xuất hiện đó bèn khẽ hỏi: Ai đấy , rồi quay ngay người lại và vung lưỡi dao ánh sáng xuyên từ dưới lên trên người Hoàng Thác. Từ khi nàng nói tới khi quay người lại phóng dao chỉ trong tích tắc. Cuối cùng tôi đã biết được sức mạnh thực sự và tốc độ ám sát của nàng, trước đây tôi luôn đánh giá thấp nàng.
Nhưng có vẻ Hoàng Thác biết trước là nàng sẽ ra tay nên rất ung dung đưa tay ra chặn lưỡi dao của Nguyệt Thần.
Nguyệt Thần thu tay lại nói: Hóa ra là ngươi.
Hoàng Thác mặt lạnh lùng nói: Vì sao lại không thể là ta, nhà ngươi ở đây làm gì?
Nguyệt Thần cười lạnh lùng hỏi lại, vậy ngươi làm gì ở đây?
Điều này ngươi không cần biết. Hoàng Thác nói.
Vậy thì việc của ta cũng không cần ngươi phải biết - Nói rồi quay đi.
Khi Nguyệt Thần đi ra khỏi bãi trống sau nhà, Hoàng Thác nói theo phía sau Nguyệt Thần: Nơi đây chỉ có mấy người chúng ta, vậy sao ngươi lại dùng chiêu giết người ghê gớm như vậy?
Nguyệt Thần dừng nhưng không quay lại, rồi chẳng nói câu nào và rời khỏi nơi đó.
Hoàng Thác đứng trong màn đêm, tôi nhìn thấy ông ta đã tự loại bỏ vòng bảo vệ của mình, gió thổi tung tà áo dài phép thuật của ông ta, mái tóc trắng bạc bay phất phơ trong ánh trăng đêm.
Đêm đó, không ngủ được, tôi ra thăm mộ Liêu Tiễn, nhưng không biết Hoàng Thác đã về từ lúc nào, trên bãi đất trống chỉ còn lại ánh trăng.
Sáng hôm sau, khi tôi mở cửa phòng, Nguyệt Thần và Triều Nhai đã dậy, Nguyệt Thần đứng giữa rừng trúc, Triều Nhai ngồi trên ghế đá gảy đàn, hai người in bóng lên tuyết trắng và trúc xanh, mái tóc và tà áo dài bay trong gió, tạo nên một bức tranh tuyệt mỹ. Tôi nhìn thấy rất nhiều người đàn ông đang đứng ở ngôi nhà xa xa nhìn, tôi biết Nguyệt Thần và Triều Nhai làm kinh ngạc người trần gian, chẳng có cô gái dưới trần gian nào có thể đẹp được như họ.
Hoàng Thác và Phiến Phong cũng từ trong nhà đi ra, Nguyệt Thần nhìn thấy Hoàng Thác cũng không có biểu hiện gì khác lạ. Hoàng Thác cũng vậy, có vẻ như chuyện tối qua không hề xảy ra. Tôi cũng chẳng hỏi họ làm gì.
Hoàng Thác đến trước mặt tôi nói: Thưa Đại vương, hình như chúng ta quên một việc rất quan trọng. Tôi hỏi là việc gì thì ông ta nói, đó là giấc mơ thứ hai của Tinh Quỹ.
Khi tôi đi vào giấc mơ thứ hai của Tinh Quỹ mới biết giấc mơ này thật đơn giản. Trong mơ tôi chẳng thấy gì cả, xung quanh chỉ thấy một màn sương rất dày màu xám, tiếng Tinh Quỹ nói liên tục rằng tôi phải đi tìm một người có biệt danh là Thái Tử ở đây, tên là Thương Liệt.
Tôi hỏi người phục vụ quán ở đây có ai tên là Thương Liệt không, cậu ta vò đầu nghĩ ngợi một lúc rồi nói không có. Tôi nói: vậy có Thái tử không? Và tôi đột nhiên nhìn thấy những nét hoảng hốt hiện ra trong mắt họ.
- Người tìm Thái tử làm gì? - Một người đội một chiếc mũ rộng vành rất kỳ lạ che gần hết mặt hỏi lại. Người này có đôi mắt rất sáng, ánh mắt rất sắc, mặc chiếc áo dài màu xám đang cúi đầu xuống ăn bát mì.
Ng.uồ.n .từ. s.it.e .Tr.uy.en.Gi.Cu.ng.Co..c.om. Tôi vội hỏi lại:
- Ngài quen biết Thái tử ư?
- Đúng vậy - Ông ta đáp.
- Ông ta là người thế nào?
- Là người nhưng không phải là người.
- Vậy là một vị thần ư?
- Cũng có thể nói như vậy được, vì trong thành này, ông ấy chính là thần.
- Vì sao vậy?
- Vì địa vị, của cải, phép thuật, tướng mạo và trí tuệ của ông ấy không ai vượt qua được.
- Vậy ngài có thể dẫn tôi đi tìm ông ấy được không?
- Không được.
- Vì sao vậy? - Phiến Phong hỏi.
- Bởi tôi không thích.
Tôi đang định bước tới thì Nguyệt Thần đưa tay ra chạm vào lưng tôi và nói phải luôn cách xa ông ta sáu thước. Tôi nhìn Nguyệt Thần, nàng vẫn nhìn người nọ, tôi biết cảm giác của nàng không bao giờ sai vì tôi cũng cảm thấy hơi thở không bình thường ở con người này.
Nguyệt Thần bước tới ghé vào tai người kia nói nhỏ mấy câu, rồi ngẩng lên mỉm cười. Người kia nhìn tôi nói, thôi được, tôi sẽ dẫn đi!
- Vì sao bây giờ ngài lại đồng ý? - Phiến Phong hỏi lại.
- Vì tôi vui chứ sao! - Người kia đáp.
Nói đoạn, ông ta quay người đi ra khỏi cửa, chúng tôi đi theo ông ta. Tôi hỏi Nguyệt Thần, nàng vừa nói gì với ông ta? Nguyệt Thần cười cười và nói, lúc đó ánh trăng trong tay tôi đã áp sát vào lưng ông ta rồi, tôi chỉ nói nếu ông không đưa chúng tôi đi thì ngọn đao ánh trăng sẽ xuyên thủng ngực ông từ phía sau ra phía trước.
Trên đường phố trần thế, người này dẫn chúng tôi đi rất nhanh khiến tôi nghĩ ông ta không phải là người bình thường, vì ông ta đi vô cùng nhanh, dù chúng tôi đã trổ hết tài ghệ, nhưng ông ta luôn đi phía trước và giữ một khoảng cách nhất định với chúng tôi.
Ông ta đưa chúng tôi qua nhiều phố lớn ngõ nhỏ rất phức tạp, nơi thì sầm uất đông vui, nơi thì lạnh lẽo khác thường, ông ta có vẻ như thông thạo mọi ngõ ngách ở đây.
Sau một khoảng thời gian khá lâu, một trang viên rất lớn hiện ra trước mắt chúng tôi, người kia nói, các vị đi qua cửa lớn rồi đi thẳng, đi tới tận cùng sẽ nhìn thấy Thái tử.
Tôi nhìn vào phía trong, một con đường lát bằng những phiến đá xanh chạy dài tít tắp, tuyết phủ trắng mặt đường, phía cuối con đường là một cánh cửa gỗ rất dày trạm trổ rất tinh xảo, trên cửa có những khuy và vòng bằng đồng rất tinh tế.
- Thái tử ở trong đó ư? - Tôi quay lại hỏi người kia, nhưng ông ta đã biến mất. Phiến Phong nói không biết ông ta biến ảo tàng hình từ lúc nào rồi?
Nguyệt Thần nói, ông ta chẳng có phép thuật tàng hình biến ảo gì cả, vì khi vào lãnh địa Tây phương ta đã từng thử qua rồi, trong thế giới này mọi ma thuật đều bị phong tỏa. Vậy thì sao ông ta lại đột nhiên biến mất? Nguyệt Thần nói rất nghiêm túc, vì tốc độ của ông ta quá nhanh.
Đó là một khoảng sân rất rộng, tuyết trên những phiến đá xanh lát đường như vừa mới rơi xuống, vì màu trắng của nó rất tinh khiết và chưa hề có vết chân người nào cả. Chúng tôi bước đi trên con đường đó, xung quanh yên tĩnh tới mức nghe thấy cả tiếng tuyết lạo xạo dưới chân mình.
Phiến Phong đập đập chiếc vòng đồng trên cánh cửa, cánh cửa màu đỏ đậm phát ra tiếng trầm đục, nhưng bên trong chẳng thấy có tiếng động nào.
Phiến Phong nói, chẳng lẽ người ta lừa chúng ta? Nhưng vừa dứt lời thì cánh cửa tự động mở ra, trong đó có những bảy người.
Chúng tôi bước vào, cánh cửa lại tự động đóng lại như lúc mở ra.
- Ai là Thương Liệt - Phiến Phong hỏi.
Chẳng ai trả tời.
Ngôi nhà có một cửa sổ, nhìn qua cửa sổ có thể thấy cảnh vật bên ngoài đó là khoảng sân đầy tuyết, hoa mai đỏ đang nở rộ in trên nền tuyết trắng nên càng nổi bật hơn, khi gió thổi qua, tuyết trên cành cây rơi lả tả. Một người trẻ tuổi mặc áo dài, lông mày lưỡi mác, mắt sáng như dao đang đứng bên cửa sổ.
Bên thắt lưng chàng có một miếng ngọc bội trắng muốt, nhìn đã biết là rất quí, cạnh ngọc bội còn một thanh kiếm đen tuyền, lưỡi sáng lóa. Ngoài hai thứ đó ra, chàng ta chẳng có thứ gì đáng giá nữa, chiếc áo dài tuy cũ nhưng rất sạch sẽ, may rất vừa vặn. Chàng đứng bất động chẳng nói lời nào, chỉ có tà áo dài bị gió từ cửa sổ thổi vào bay lên. Cả con người chàng như một thanh kiếm sắc bén vừa rút ra khỏi vỏ. Chàng ta hình như không để ý gì tới việc năm người chúng tôi đột ngột xuất hiện nơi đây.
Ngoài chàng trai ra, còn có một lão tóc bạc trắng đang ngồi ở góc trong cùng của ngôi nhà, màu trắng của mái tóc của ông không phải là do ông mang dòng máu thuần chủng của bộ tộc Băng mà chỉ do ông là người trần gian, mà người trần gian thì khi già tóc sẽ bạc đi. Chiếc áo dài mà ông ta mặc cũng rất quí, màu tím, trên có thêu một con rồng màu vàng. Ánh mắt ông đầy vẻ coi thường mà tôi nhìn thấy rõ. Ông ta đang ngồi nhàn tản tự sửa móng tay mình, ai cũng có thể nhận ra những chiếc móng tay đó chính là thứ vũ khí rất tâm đắc của ông vì nó rất cứng lại sắc nhọn như mười thanh kiếm nhỏ.
Một phía của gian phòng có một người phụ nữ luống tuổi mặc bộ quần áo màu sặc sỡ, tuy không còn trẻ nữa nhưng rất phong độ, tóc bà ta búi cao trên đỉnh đầu có cài nhiều trâm nhỏ. Tôi hiểu rằng đó không phải là những chiếc trâm bình thường, thứ đồ trang sức nhỏ như chiếc kim thêu đó sẵn sàng biến thành thứ công cụ giết người rất lợi hại. Đột nhiên, tôi chú ý tay bà ta, vì phát hiện ra tay bà ta đeo găng trong suốt rất mỏng, chắc chắn bà ta là một cao thủ dùng độc dược.
Chỗ chính giữa trong cùng của gian phòng có một cô gái đang đánh đàn, trước mặt cô là một cây đàn cổ, tiếng đàn tràn ngập cả căn phòng. Khuôn mặt cô rất trẻ, nhưng điều kỳ lạ là khuôn mặt ấy đầy vẻ tang thương không hề phù hợp với tuổi cô, thậm chí đuôi mắt còn một vài nếp nhăn nho nhỏ. Tôi quan sát cô, thấy Triều Nhai cũng nhìn cô, rồi quay lại mỉm cười với tôi, tôi hiểu ý của Triều Nhai.
Giữa nhà có chiếc giường, có ba người đang ngồi trên đó, người bên trái là một đàn ông vẻ mặt khôi ngô như một thiên thần, tuy tuyết đang rơi đầy trời nhưng anh ta vẫn không cài cúc áo, để lộ ra bộ ngực vạm vỡ rắn chắc, còn bên trái là một cô gái tuyệt đẹp, xiêm áo xúng xính, vẻ mặt cao ngạo. Một nữ tỳ đang quỳ và xoa bóp chân cho cô.
Tôi quay đầu lại nhìn Nguyệt Thần, thấy nàng cũng nhìn tôi và gật đầu, tôi biết những phán đoán của tôi và nàng giống nhau.
Tôi bước lại gần người thanh niên. Anh ta quay lại nói với tôi, ngài thật là người có con mắt tinh tường mới biết ta là Thái tử.
Tôi nói, người không phải là Thái tử?
Chàng trai tỏ ra rất lúng túng hỏi lại, vì sao ngài biết tôi không phải là Thái tử?
- Bởi người không thật thoải mái, người quá căng thẳng. Người giả bộ không để ý tới việc chúng tôi đi vào, nhưng thực ra rất sợ người khác phát hiện ra sự lo lắng trên khuôn mặt mình nên nhìn ra cửa sổ lưng quay vào trong - Tôi nói.
Anh chàng không nói gì nữa, lui sang một bên, ánh mắt rất tức giận.
Nguyệt Thần đi tới trước mặt ông già đang sửa móng tay, người này thở dài và nói, xem ra không thể lừa nổi các người. Ta đây mới thực sự là Thái tử.
Nguyệt Thần lại cười và nói, ông cũng không phải là Thái tử.
Ông lão hỏi như vô tình: Vì sao vậy? Những nếp nhăn trên mặt ông ta như run lên.
- Bởi ông còn căng thẳng hơn cả chàng trai kia, ông phải dùng cách sửa móng tay để che giấu nội tâm đang lúng túng. Ông cố tỏ ra là người cao sang, có những đồ trang sức quý và thái độ bất cần. Nhưng nếu tôi đoán không sai thì ông là người có địa vị thấp nhất ở đây! - Nguyệt Thần nói.
Ông lão mặt tím lại vì tức giận.
Tôi tiếp tục bước tới trước người phụ nữ đầu gài những chiếc trâm nhỏ, người này cười và hỏi tôi: lẽ nào tôi cũng không phải?
- Bà không phải - Tôi đáp.
- Vì sao vậy? - Bà ta hỏi lại.
- Nếu tôi đoán không nhầm, bà chỉ là một cao thủ thuốc độc.
- Quả không sai.
- Vậy người không thể là Thái tử được.
- Vì sao vậy?
- Bởi những người dùng độc thì nội tâm đều không trong sạch, dù cho có thể trở thành cao thủ ám sát giỏi nhất cũng không thể thành một hào kiệt thống lĩnh một phương, Thái tử tuy có thể tung hoành trong thành phố này, tất nhiên không thể dựa vào ám sát, dùng độc để đạt mục đích. Mà giả sử Thái tử giỏi dùng độc thì cũng không cắm trên mái tóc mình nhiều độc khí đến vậy hoặc cũng không dễ dàng để cho người khác nhìn thấy chiếc găng tay kia.
Đây vốn chỉ là một vài chiêu rất inh trong kế sách của các người, bởi đây là lãnh địa của Ám Sát hộ pháp, cho nên các người cho rằng, ta sẽ coi người nào thuật ám sát càng tốt thì địa vị càng cao. Đáng tiếc, ngay từ nhỏ phụ thân ta đã dạy rằng, một người tấm lòng không rộng mở vĩ đại sẽ không thể có được giấc mơ đẹp và địa vị cao.
Triều Nhai bước tới trước mặt cô gái gảy đàn nói rằng cô có thể nghỉ tay được rồi.
Cô ta ngẩng lên nhìn mà chẳng nói gì.
Triều Nhai cười và nói: Trừ Điệp Triệt ra, chẳng ai hiểu âm nhạc bằng tôi, trong tiếng đàn của cô có một thứ tình cảm rất mềm yếu, Thái tử sẽ không thể có tâm trạng của một cô gái như vậy được, vì cho dù Thái tử là một phụ nữ chăng nữa, thì Thái tử cũng sẽ có một thế giới nội tâm mạnh mẽ và kiên nhẫn như của người con trai.
Triều Nhai ngồi xuống và nói hãy để ta đàn cho. Sau đó cả ngôi nhà tràn ngập một điệu nhạc du dương, đẹp như trong mộng vậy, thứ âm nhạc đã từng làm rung động bức tường Than Thở.
Nguyệt Thần bước tới trước chiếc giường mềm ở giữa phòng nói với người con trai rằng, hãy xuống đi, vì nếu theo chức vụ thì chỗ đó không phải là chỗ của người.
Người này im lặng hồi lâu rồi bước ra khỏi giường, nhìn Nguyệt Thần như muốn hỏi vì sao mà nàng biết anh ta không phải là Thái tử.
Nguyệt Thần nói, người rất khôi ngô nhưng chẳng tác dụng gì, cơ bắp kia chỉ là cái vẻ bên ngoài chứ hoàn toàn không có giá trị thực dụng, người có tin không, Triều Nhai, cô gái đang đánh đàn kia cũng thừa sức đánh bại người.
Sau đó, Nguyệt Thần bước tới trước mặt người con gái, cúi xuống nói:
Thưa Thái tử, thần rất mừng khi được gặp Người.
Nhưng khi Nguyệt Thần ngẩng đầu lên, nàng lại nói với người nữ tỳ đang đấm bóp rằng, Thái tử, người có thể nghỉ ngơi rồi!
Tôi cười toáng lên, phán đoán của Nguyệt Thần giống như của tôi, Thái tử thực sự chính là người nữ tỳ kia.
Sau đó, tay người nữ tỳ kia chợt dừng lại. Cô ta đứng dậy nhìn chúng tôi thở dài nói, các người làm sao lại nghĩ là tôi?
- Bởi chúng tôi loại trừ người phụ nữ kia, vậy người còn lại chỉ có Người.
Thái tử ngước lên, tôi đã nhìn rõ khuôn mặt của nàng, tuy thanh tú nhưng là thứ thần sắc không dễ bị xâm phạm, hai mắt không lộ vẻ nộ khí nhưng rất có uy. Thái tử nói, vì sao các người biết không phải là người kia mà lại là ta?
Tôi nói:
- Ta vốn cũng không nghĩ là Người, bởi Người không hề có bất kỳ cử chỉ nào không tương xứng. Chỉ đột nhiên ta nghĩ ra rằng, khi nữ tỳ xoa bóp châncho người, người đó sẽ không ngồi tề chỉnh nghiêm túc như thế, trừ khi kẻ xoa bóp chân là chủ nhân thực sự. Với lại, thưa Thái tử, bàn tay đấm bóp để lộ nhiều bí mật, sức mạnh khi xoa bóp vô cùng chính xác, rất đều nhau, ngón tay lại linh hoạt hơn người khác rất nhiều, dù cho khi dùng ám khí hay phép thuật khác uy lực đều rất mạnh.
Thái tử truyền cho tất cả bọn họ lui xuống, đúng như dự đoán của Nguyệt Thần, ông lão giũa móng tay có địa vị thấp nhất, đi sau cùng.
Khi Thái tử thay quần áo và xuất hiện trước mặt chúng tôi, Người đã trở thành người đàn ông đẹp tuyệt vời, đẹp như Anh Không Thích - đệ của tôi Đông phương hộ pháp ở thành Nhẫn Tuyết.
Thái tử chẳng làm động tác gì nhưng vẫn khiến người khác cảm thấy áp lực toát ra từ con người chàng, chàng nửa cười nửa không, thần bí và rất mơ hồ.
Sau khi tất cả những người đã lui ra, Thái tử mới hỏi: Các người tới tìm ta làm gì?
Tôi trả lời: Thực ra tôi cũng không biết, đó là do Tinh Quỹ báo mộng cho biết chúng tôi phải đi tìm Thái tử.
Tinh Quỹ ư? Tiếng của Thương Liệt bất giác run run, cho dù chàng cố tình che giấu, nhưng không tài nào qua mắt được Nguyệt Thần, cho nên chàng hắng giọng rồi nói, đúng là ta có quen cô ấy thật.
Thương Liệt nói cho chúng tôi biết, khi Thương Liệt còn ở thành Nhẫn Tuyết, Tinh Quỹ đã từng cứu chàng, bởi trong một lần chiêm tinh, Tinh Quỹ ngẫu nhiên phát hiện ra vì sao chiếu mệnh của chàng đã xuất hiện những sai lệch, nên đã nói cho Thương Liệt biết trước. Lúc đó Thương Liệt vẫn còn là một nhà ảo thuật thuộc bộ tộc Băng sắp lui về sống ẩn dật, vì vậy cho tới nay, chàng vẫn rất cảm kích trước sự giúp đỡ đó.
Thương Liệt nói, Tinh Quỹ đã bảo tới đây, vậy thì ngươi được phép hỏi bảy câu, bất kỳ câu nào ta cũng trả lời được. Hãy bắt đầu đi.
Đây có phải là trần gian không?
Không phải. Đây là do Tây phương hộ pháp dùng phép thuật tạo ra, trong này có một số người là người trần gian, còn một số là những cao thủ ám sát tuyệt vời nhất bên cạnh Tây phương hộ pháp. Trong thế giới này có một tổ chức lớn nhất gọi là Thiên Vũ, bởi tất cả người trong đó đều mang tên các loài chim, hai kẻ lợi hại nhất là Phượng hoàng và Quạ đen, trong hai người này thì Quạ đen lại lợi hại hơn cả; còn thủ lĩnh của tổ chức này chính là Tây phương hộ pháp.
Làm sao có thể rời Tây phương để gặp Uyên Tế được?
Phải tìm Tây phương hộ pháp, giết chết hắn, thế giới này sẽ tiêu tan cùng cái chết ấy ngay.
Làm thế nào để tìm thấy Tây phương hộ pháp?
Đợi chờ.
Đợi chờ gì?
Đợi hắn tới tìm ngài.
Nếu hắn không tới?
Vẫn cứ phải đợi.
Tây phương hộ pháp là ai?
Không biết.
Vậy ai biết?
Chẳng ai biết cả. Hỡi Ca Sách, ngươi đã hỏi hết bảy câu rồi, người có thể đi, hoặc nếu muốn, người hãy ở lại, ta bảo đảm nhà ở đây tốt hơn bất cứ ngôi nhà nào bên ngoài.
Tôi đang định nói sẽ ở lại nơi đây thì Nguyệt Thần cướp lời, không cần, chúng tôi sẽ trở về nhà trọ.
Tôi không biết vì sao Nguyệt Thần không muốn tiếp tục ở đây, nhưng do tin vào sự phán đoán của nàng nên gật đầu đồng ý.
Khi chúng tôi trở lại khách sạn, ngôi nhà này đã có thêm bảy người. Tôi nhìn thấy Thái tử quay đầu lại cười với tôi và nói, bọn ta cũng ở đây.
Thái tử nói: trong thế giới này, khắp nơi đều là những cao thủ ám sát, Phượng hoàng và Quạ đen lợi hại nhất, nhưng từ xưa tới nay chẳng ai biết thân phận của họ ra sao. Ta và thủ hạ của ta ở gần các người, các người có việc gì có thể sai bảo thủ hạ của ta, cho dù phép thuật của chúng ta không bằng các người nhưng trong thế giới ám sát này, kẻ mạnh và kẻ yếu lại không thể dựa vào mạnh yếu để phân biệt được.
Trong ngôi nhà khách này, chúng tôi còn gặp lại đứa trẻ xinh đẹp chơi quả cầu, người hầu ở đây nói, cậu ta chính là con ông chủ nhà khách, ông chủ có việc phải đi xa nên để cậu ở lại giao cho anh ta cai quản. Thật không ngờ là cậu vẫn nhớ chúng tôi, cậu chạy tới trước mặt tôi và nói, cùng chơi cầu với đệ đi!
Khi nghe thấy cậu ta gọi hai tiếng đại huynh, tôi chợt nhớ tới mấy trăm năm trước, khi tôi đã lớn và Thích vẫn còn là một đứa trẻ, tôi bế nó đi trên con đường đầy băng tuyết nơi trần thế. Thích nằm trên cánh tay tôi ngủ ngon lành, bởi nó rất tin tôi, luôn coi tôi như một vị thần. Nhưng vị thần mà nó tin tưởng nhất lại dùng kiếm đâm xuyên qua ngực nó để áu của nó chảy đầy mặt đất phủ kín băng giá.
Tôi ôm chặt tấy cậu bé, trong tôi chợt nảy sinh ảo giác tôi đang ôm Thích của tôi. Tôi thì thầm, Thích ngoan nào, huynh chơi với đệ đây!
Nước mắt tôi trào ra, chảy đầy xuống mu bàn tay.
Khu nhà khách này thực ra còn lớn hơn tôi tưởng rất nhiều, ngôi nhà chúng tôi ở chỉ là phần rất nhỏ trong đó. Trong khu nhà này còn có những cây cầu nhỏ bắc qua dòng nước chảy, có những khu vườn đầy hoa anh đào, sau ngôi nhà chúng tôi ở còn có một vườn hoa trồng đủ những loại cây nơi trần thế, có loài như cây mai hồng, có cả cây liễu - loại cây mà chúng tôi thích nhất, chỉ có điều là nó chưa mọc hết lá nên trông nó rất trơ trụi.
Màn đêm buông xuống. Hình như đêm trần thế đến rất nhanh, chỉ loáng một cái là đã tối om. Ở trong thành Nhẫn Tuyết, dù là ban đêm thì những lớp tuyết, lớp băng vĩnh cửu không bao giờ tan cùng những cung điện màu trắng nguy nga luôn phản xạ thứ ánh sáng mềm mại như ánh trăng hoặc ánh sáng các vì sao. Nhưng ở đây lại không như vậy, đêm tối khiến người ta có cảm giác như bị đè nặng, cả khu nhà rộng lớn vậy mà chỉ có vài ngọn đèn treo ở cổng ra vào luôn lắc lư theo gió, ánh sáng yếu ớt của nó có vẻ như sẵn sàng tắt bất cứ lúc nào, ngoài ra, chỉ còn lại ngọn đèn dầu trong phòng mà thôi.
Người ta sắp xếp năm người chúng tôi ở trong dãy nhà phía nam. Tôi bước vào phòng của mình, trời đã tối tới mức không nhìn rõ các vật trong phòng.
Hoàng Thác đi tới thắp đèn, khi Hoàng Thác quay lưng về phía tôi, Nguyệt Thần lặng lẽ viết lên lưng tôi bốn chữ. Tôi ngẩng đầu lên nhìn nàng, nhưng nàng cũng không biểu hiện gì, Hoàng Thác quay đầu lại nói với tôi: Đại vương hãy nghỉ sớm đi! Có cần tôi phải lập ra vòng bảo vệ không?
Không cần - tôi trả lời - ngươi hãy tự bảo vệ mình cho tốt.
Tôi tiễn mấy người ra cửa, thấy đèn trong phòng đã sáng mới đóng cửa.
Tôi bình tĩnh tại, vì mấy ngày này xảy ra quá nhiều việc, từ Liêu Tiễn chết tới chuyện Thương Liệt, tôi nhận thấy Tây phương hộ pháp đã trổ hết tài, nhưng vẫn chưa tìm được cửa vào đó.
Triều Nhai ở phòng bên trái tôi, bên phải là Hoàng Thác, tiếp theo hai bên là Nguyệt Thần và Phiến Phong. Còn Thương Liệt và đám thủ hạ ở ngay những phòng phía bắc đối diện với chúng tôi, giữa hai dãy nhà là một khoảngđất trống rộng chừng bảy tám trượng, giữa có những cây tùng xanh bốn mùa và một hòn non bộ rất đẹp.
Tối đó, khi tôi sắp đi ngủ bỗng nghe thấy tiếng bước chân trên mái nhà, nói cho đúng hơn là tôi cảm thấy như vậy vì động tác của người ấy rất nhẹ nhàng, không thể phát ra bất kỳ âm thanh nào, chỉ là do giác quan thứ sáu mách bảo tôi là trên đó có người mà thôi.
Đúng lúc tôi sắp ra khỏi giường thì ngọn đèn dầu phụt tắt, mắt tôi không quen ngay được với bóng đêm thì tai đột nhiên nghe thấy gió rít lên và ào tới, thứ ánh sáng lạnh lẽo đột nhiên xuất hiện trước mặt tôi. Tôi nhảy ra khỏi giường cách chừng một trượng, thứ ánh sáng lạnh đó bay vèo sạt qua áo tôi, tôi cảm thấy ớn lạnh tới tận xương. Tôi phải thừa nhận rằng, ban nãy tôi suýt chết bởi thứ ánh sáng lạnh đó, thứ ánh sáng tựa như những thỏi băng sắc nhọn, hoặc như lưỡi kiếm hay kim độc, nhưng gì thì gì cũng suýt làm tôi mất mạng.
Trong lúc tôi quay ngang, đột nhiên vung tay phóng một loạt lưỡi dao băng lên nóc nhà. Tôi nghe tiếng ngói vỡ và tiếng da thịt người bị dao xuyên thủng, sau đó có người rơi từ trên mái nhà xuống.
Tôi xông ra khỏi phòng, nhìn thấy Hoàng Thác đang đứng ở khoảng đất trống giữa hai dãy nhà rồi chạy rất nhanh tới dãy nhà phía bắc. Thấy tôi xông ra, Thác hỏi tôi có nhìn thấy một người mặc quần áo đen hay không, hắn vừa từ trên nóc nhà Đại vương nhảy xuống . Trong lúc nói, Thác không quay lại nhìn tôi.
Tôi nói, quyết không để người đó chạy thoát! Người Thác bỗng chuyển động giống hệt như một con chim tuyết đang bay ngược gió, quả thật tôi không ngờ phép thuật của Thác lại cao cường đến vậy, tôi luôn cho rằng Thác chỉ biết ma thuật trắng. Tôi chợt nghĩ lại một số sự việc liền vội vàng vào thẳng phòng của Nguyệt Thần và Triều Nhai.
Đúng như tôi nghĩ, Nguyệt Thần không có trong phòng, nhưng điều làm tôi không hiểu là cả Triều Nhai cũng không có trong phòng. Họ đi đâu? Liệu có phải đã bị Tây phương hộ pháp hoặc thủ hạ của ông ta giết chết rồi không?
Tôi cảm thấy khí lạnh đang từ dưới chân bốc lên.
Phiến Phong xuất hiện sau lưng tôi, tôi bảo Phong đi cùng tôi tới dãy nhà phía bắc, có người định ám sát tôi đang ở trong đó.
Khi tôi tới những gian phòng phía bắc đã thấy Hoàng Thác đứng ở đó rồi.
Ngực áo của Thác đã bị một lưỡi dao sắc nhọn làm rách một đường rất dài.
Thác quay lại nói với tôi mình vừa giao đấu với người mặc quần áo đen ở chỗ hòn non bộ, hắn rất giỏi dùng kiếm băng, ngực tôi đã bị lưỡi kiếm của hắn quét qua, sau đó hắn biến mất vào sau dãy nhà này.
Tôi hỏi hắn vào phòng nào, Thác nói không nhìn rõ, nhưng kiếm của hắn rơi ở đây.
Thác nhặt lên, đó là một thanh kiếm băng, ai cũng biết đó không phải là vũ khí của người trần mà là do ảo thuật làm ra, nó rất sắc và có linh lực tụ lại trên kiếm.
Nhưng khi tôi cầm thanh kiếm đó từ tay Thác thì phát hiện ra một việc rất kỳ lạ, bởi không biết trên cán kiếm có thứ gì rất trơn, đó là điều tối kỵ, bởi nếu người ta không cầm chắc được kiếm thì sẽ không trổ hết được kiếm thuật.
Nhưng người có thể làm Thác bị thương kiếm thuật hẳn không thể yếu được.
Trong lúc Thác nói, tất cả mọi người ở dãy nhà phía bắc đều bước ra ngoài đứng hết ở hành lang.
Thương Liệt ra sớm nhất vì hình như ông ta hầu như không ngủ, vẫn mặc bộ quần áo như lúc ban ngày, thậm chí tóc còn chải rất gọn gàng, khí thế hùng dũng, toàn thân tỏa ra mùi thơm của hương hoa, trong bóng đêm, mắt ông ta càng sáng hơn, sáng như vì sao sáng nhất trên bầu trời.
Ông ta hỏi, có chuyện gì vậy?
Có người trên nóc nhà định ám sát tôi. Tôi đáp.
Tôi nhìn thấy sắc mặt ông ta thay đổi. Ông quay lại nhìn mọi người rồi nói với Hoàng Thác, có phải người đã mặc quần áo đen không .
Đúng vậy. Hoàng Thác nhìn mọi người ở hành lang rồi lạnh lùng nói.
- Vậy từ lúc người đuổi hắn và nhìn thấy hắn chạy vào đây đến bây giờ là khoảng bao lâu rồi?
- Không lâu lắm.
- Không lâu lắm là bao lâu? - Thương Liệt hỏi lại.
Tôi đột nhiên hiểu ý của Thương Liệt và hỏi thêm: Liệu có đủ thời gian để một người thay xong một bộ quần áo không? . Hoàng Thác nói rất rành rọt là tuyệt đối không thể đủ được.
Đứng bên cạnh Thương Liệt là cậu thiếu niên tuấn tú đeo một thanh kiếm, đến giờ tôi mới biết tên là Nha Chiếu, cậu ta khác với Thương Liệt là người mặc chiếc áo ngủ màu trắng, bên trong còn một lớp áo màu trắng nữa, chân để trần, tóc bù xù rũ xuống hai vai.
Còn lão hồi ban ngày ăn mặc rất đẹp đẽ và ra vẻ sang nhưng thân phận lại thấp nhất tên gọi là Đông Nhiếp, ông ta mặc một bộ áo gió bằng da cáo màu trắng, bên trong là chiếc áo ngủ bằng tơ màu xanh có thêu một con rồng xanh. Nhìn con rồng, tôi chợt nghĩ tới mình đang ở trên lãnh địa của Tây phương hộ pháp Thanh Long, nhưng đứng trước những sự việc càng ngày càng kỳ dị mà tôi hoàn toàn không có manh mối hay biết gì, ngay cả khả năng chống trả của tôi cũng chẳng có.
Còn một người phụ nữ cũng không ngủ như Thương Liệt mà ban ngày ngồi trên chiếc giường mềm giữa nhà là Y Trao, bên cạnh bà ta là người đàn ông có cơ bắp rất phát triển cùng ngồi ở giường với bà ta lúc ban ngày được Thương Liệt cho biết tên là Ngư Phá. Rõ ràng người này đã ngủ rồi và bị gọi dậy, bởi mặt người đó rất đỏ, mắt hằn tia máu, đầu tóc rối bù, rõ ràng là vừa say rượu.
Tôi hiểu rõ người sau khi say rượu mà bị gọi dậy sẽ cảm thấy khó chịu thế nào, nên tôi không hỏi gì người này cả.
Còn người đàn bà đeo găng tay trắng giỏi dùng độc kế, theo Thương Liệt thì ngay cả ông ta cũng không biết tên là gì, chỉ biết một cái tên khác của bà ta, nó chỉ có một chữ là Trâm . Bà ta mặc một bộ đồ ngủ mềm toàn một màu đen, điều kỳ lạ là, tay bà ta vẫn đeo chiếc găng tay trong suốt, không lẽ cả lúc đi ngủ bà ta cũng không cởi nó ra?
Tôi hỏi Hoàng Thác, có phải nhìn thấy kẻ ám sát mặc quần áo đen không? Thác trả lời là đúng như vậy.
Tôi chỉ bà ta và hỏi, liệu có thể là người này không? Thác trả lời, không thể. Tôi hỏi lại. Vì sao vậy? Thác đáp.
- Bởi người đó mặc đồ đen bó sát người, người phụ nữ kia tuy cũng mặc đồ đen nhưng vải rất mềm và lại rộng thùng thình, loại quần áo này sẽ rất không tiện trong hành động, sẽ phát ra những tiếng động mạnh. Những cao thủ ám sát có kinh nghiệm sẽ không bao giờ mặc loại quần áo này.
Cho nên ở đây chỉ có cô kia là đáng ngờ nhất. Tôi quay lại nhìn cô gái gảy đàn hồi ban ngày, Thương Liệt nói cô tên là Hoa Hiệu, đã từng là một tay đàn giỏi trong một thanh lâu.
- Vì sao lại như vậy? - Cô gái nọ hỏi lại.
- Bởi chỉ có mình cô khoác một chiếc áo xám rất rộng, ta rất muốn biết phía trong nàng mặc gì?
- Người cho là cái gì? Bộ quần áo đen chăng?
- Có thể không và cũng có thể đúng.
Sau đó tôi thấy mặt Hoa Hiệu biến sắc trông rất khó coi. Cô ta nói:
- Nếu ta nói không thì sao?
- Vậy thì ngươi sẽ chết ngay tại đây - Thương Liệt nói rất lạnh lùng nhưng tôi biết lời nói của ông ta rất có hiệu lực, hoặc nói cách khác là tuyệt đối có hiệu lực. Một người nếu ở vào địa vị của ông ta, mỗi lời nói đều rất thận trọng, bởi chỉ nói sai một lời sẽ mãi mãi không có cơ hội sửa chữa. Sai là chết.
Hoa Hiệu cúi đầu xuống cắn chặt môi, tôi không biết cô ta nghĩ gì, tôi nhìn thấy Hoàng Thác đã nắm tay tập trung linh lực, bởi tay trái của Thác đã bắt đầu xuất hiện ánh sáng bạc, tôi cũng uốn cong ngón đeo nhẫn tay trái sẵn sàng đề phòng Hoa Hiệu chạy trốn hoặc tấn công lại.
Nhưng Hoa Hiệu không bỏ chạy cũng không tấn công mà chỉ cởi bỏ chiếc áo khoác ngoài của mình ra.
Tôi nhìn cô ta cởi bỏ áo ngoài mà cảm thấy hối hận vì bên trong chẳng có quần áo đen, cũng chẳng có quần áo vì cô ta chẳng mặc gì cả.
Hoa Hiệu cắn chặt môi, tôi nhìn thấy nước mắt trong mắt cô.
Tôi quay lại và nói, xin lỗi, tôi đã sai, cô hãy mặc quần áo vào.
- Nguyệt Thần và Triều Nhai đâu? - Thương Liệt hỏi.
- Hai người họ không có trong phòng.
- Vậy vì sao ngài không nghi ngờ họ? - Thương Liệt nhìn tôi, ánh mắt trở nên rất lạnh lùng và sắc bén như một mũi kim sáng lóa.
- Không thể là Nguyệt Thần được - Tôi dửng dưng nói.
- Vì sao vậy? - Câu hỏi của Hoàng Thác.
Tôi nhìn Hoàng Thác, nghĩ tới chuyện giữa hai người họ đối đầu hôm trước và hiểu rằng giữa họ nhất định có bí mật gì đó, nhưng cả hai người chẳng ai nói ra. Tôi đành phải hỏi Hoàng Thác vì sao lại nghi ngờ Nguyệt Thần.
- Tôi không nghi ngờ Nguyệt Thần mà nghi ngờ tất cả.
- Vậy ta sẽ nói cho ngươi biết: Khi ta bước vào gian phòng đó, Nguyệt Thần viết lên lưng ta bốn chữ: Cẩn thận đèn dầu. Ngọn đèn đó chính là do ngươi đốt, lúc đốt ngươi không phát hiện ra đèn chỉ còn một chút ít dầu phải không? Ngươi cố ý bớt dầu đi quả là tính toán rất chính xác, có nghĩa là ngọn đèn chỉ thắp được cho tới khi kẻ ám sát tới, bởi khi trời đột nhiên từ sáng chuyển sang tối, mắt người sẽ chẳng nhìn thấy gì cả.
- Vậy Triều Nhai thì sao? - Hoàng Thác lại hỏi.
- Ta không biết. Ta không biết vì sao Triều Nhai lại không có trong phòng, nàng cần phải có mặt trong phòng mới đúng, vì cô ta vẫn chưa hồi phục. Thôi, mọi người hãy ai về phòng nấy, có chuyện gì ngày mai sẽ hay.
- Còn Nguyệt Thần và Triều Nhai?
- Chẳng còn cách nào khác, đành phải chờ vậy.
Đêm đó, tôi không ngủ, đầu óc luôn nghĩ tới những chuyện vừa xảy ra, ít nhiều tôi cũng đoán ra được vài điều nhưng vẫn rất mơ hồ. Tôi khẳng định mình đã bỏ qua một số sự việc rất quan trọng, nhưng không thể nghĩ được là cái gì.
Đêm có vẻ qua đi rất nhanh, cũng chẳng có chuyện gì xảy ra. Buổi sáng, khi tôi ngủ dậy ra khỏi phòng thì đã thấy bọn người của Thương Liệt đứng cả ở ngoài cửa. Điều ngạc nhiên là Nguyệt Thần và Triều Nhai cũng đứng trong số đó, Triều Nhai đang ôm đàn, nụ cười rất bình tĩnh.
Tôi bước tới hỏi:
- Triều Nhai, tối qua nàng có ngủ ngon không?
Thương Liệt cắt ngang không đợi tôi nói hết:
- Ngủ rất ngon, rất ngon, chẳng mơ mộng gì cả, ngủ một mạch tới sáng.
- Vậy thì tốt, người nàng yếu cần phải nghỉ ngơi cho tốt.
Nụ cười của Thương Liệt vẫn bình thản, nhưng trong lòng bàn tay tôi đã lấm tấm mồ hôi. Triều Nhai vì sao lại phải nói dối nhỉ?
- Nguyệt Thần, ngươi thì sao? - Thương Liệt tiếp tục hỏi.
- Tôi không ở đây, tôi ra ngoài.
- Vậy nàng đi đâu?
- Tôi phát hiện ra một việc - Nàng nhìn tôi và nói - Tối qua tôi định sang nói cho Đại vương biết.
Tôi nhận ra Nguyệt Thần không hề nói dối, chắc chắn nàng phát hiện ra điều gì đó.
- Thưa Đại vương, tối qua thần cũng có chuyện muốn nói với ngài - Hoàng Thác nhìn Nguyệt Thần sau đó quay lại nói với tôi.
Tối đó, Hoàng Thác bảo tôi, thực ra Liêu Tiễn không phải chết vì chất độc mạn tính, bởi sau đó Thác đã đào thi thể của Tiễn lên để kiểm tra, và phát hiện ở đỉnh đầu Tiễn có một cây kim rất nhỏ có chứa một chất độc mạnh bị mái tóc dài che mất.
Hoàng Thác nói: Đại vương còn nhớ khi mới vào lãnh địa Tây phương cũng chính là lúc Liêu Tiễn chết, xung quanh chúng ta có người nào đáng nghi ngờ không?
Nguyệt Thần nói cho tôi biết mấy sát thủ tuyệt đỉnh, nhưng chắc là họ không ra tay, bởi lúc đó Nguyệt Thần đang ở đó, không có kẻ nào dám ra tay.
- Thưa Đại vương, người còn nhớ khi Liêu Tiễn bị hôn mê ngã xuống, người đầu tiên lao tới là Phiến Phong, có vẻ như Phiến Phong biết trước là Tiễn sẽ ngã. Thần nhớ rõ là Phiến Phong ôm lấy đầu Liêu Tiễn.
- Hoàng Thác, ngươi nghĩ gì?
- Thưa Đại vương, thần không muốn nói gì cả, thần chỉ nói rằng chúng ta đã để sót một số sự việc, xin Đại vương tự mình phán đoán.
Đúng lúc đó, Nguyệt Thần xuất hiện trước cửa, nhìn thấy Hoàng Thác ở trong phòng của tôi nên chẳng nói gì cả.
Hoàng Thác nhìn tôi nói, thần xin phép trở về phòng mình.
Tối đó, Nguyệt Thần cũng nói cho tôi biết chính câu chuyện đó, nàng nói tối hôm tôi bị mưu sát nàng đi xem xét thi thể của Liêu Tiễn nên không có trong phòng. Nguyệt Thần nói cỏ xung quanh mộ Liêu Tiễn đã khô cả rồi vì cơ thể của Tiễn có độc, còn trên đầu có một cây kim bạc rất nhỏ.
Tôi không nói cho Nguyệt Thần biết chuyện đó Hoàng Thác đã nói cho tôi hay rồi mà chỉ hỏi ai là người đã giết Liêu Tiễn?
Nguyệt Thần không nghi ngờ ai trong chúng tôi cả, chỉ hỏi lại tôi là có nhớ người phụ nữ đầu đầy những cây kim hôm trước không?
- Kim trâm ư? - Tôi hỏi lại.
- Đúng. Thần rất muốn xem xem cây kim mà Liêu Tiễn bị hạ thủ có giống cây trâm trên đầu bà ta hay không?
Khi Nguyệt Thần sắp rời phòng, nàng đột nhiên quay người lại nói với tôi:
Thưa Đại vương, ngài không thấy chuyện ngài bị ám sát tối qua là kỳ lạ lắm sao?
- Ngươi nói...
- Người nhìn thấy và phát hiện người mặc đồ đen chạy sang dãy nhà của nhóm Thương Liệt ở phía bắc tối qua đều là Hoàng Thác, tất cả đều do Thác nói ra cả. Còn vết rách trên ngực áo do lưỡi dao rất sắc gây nên, Đại vương có nghĩ đó là do những con dao băng ngài phóng ra không?
Tôi nhìn Nguyệt Thần, bắt đầu cảm thấy sợ hãi và ớn lạnh.
Mũi kim trên đầu Liêu Tiễn đã được Nguyệt Thần lấy ra. Nó màu trắng bạc nhưng không phải bằng bạc, cứng hơn bạc nhiều, dưới ánh đèn, mũi kim phát ra màu xanh rất kỳ dị, rõ ràng là nó có độc. Đầu kim mang màu đỏ sặc sỡ, khi tôi nhìn kỹ cây kim mới phát hiện ra đầu kim được khắc hình đầu phượng hoàng.
- Phượng hoàng! - Tôi kêu lên thất thanh.
Nguyệt Thần nhìn tôi, gật đầu tỏ vẻ đồng tình.
Tôi đang định đưa tay ra cầm thì bị Nguyệt Thần ngăn lại, nàng nói rằng cây kim độc vô cùng, dù không bị thương, chất độc cũng có thể ngấm qua da, tuy không nguy hiểm tới tính mạng nhưng cũng sẽ bị thương không nhẹ.
Tôi nhìn cây kim mà chẳng nói gì. Nhưng tôi đột nhiên nghĩ tới những câu nói của Hoàng Thác và Nguyệt Thần.
Tối đó chẳng có chuyện gì xảy ra cả, tôi ngủ rất ngon lành, nhưng mơ liên tục, hết mơ tới thời gian tôi lưu lạc nơi trần gian đến những việc ở thành Nhẫn Tuyết, tất cả cứ hư hư ảo ảo, thời gian vài trăm năm cứ thế trôi qua. Nhưng những ngày sống cùng với Thích thì lại không hề mơ thấy, mà trong mơ chỉ thi thoảng nhìn thấy Thích rất tuấn tú và tinh nghịch, nhưng khi lạnh lùng thì lại làm cho người ta có cảm giác là mặt đầy sát khí, ngược lại, khi vui vẻ thì nụ cười ngọt ngào đẹp đẽ giống hệt một đứa trẻ, vừa tinh nghịch lại ngang bướng.
Đệ của tôi - Anh Không Thích nay linh hồn đang bay lên trời, không biết những vong linh có sợ lạnh không, liệu đệ có vẫn không cần dùng pháp thuật để che tuyết hay không mà cứ để mặc cho những bông hoa tuyết rơi đầy vai, đầy đầu và rơi cả trên đôi lông mày lưỡi mác sắc nhọn kia? Trong những giấc mơ đó không có tranh giành, không có vua chúa, không phân biệt huyết thống, không có phản bội hay ám sát, chỉ có hai anh em tôi đứng ở nơi cao nhất trên bức tường thành Nhẫn Tuyết, mái tóc dài bay ngược chiều gió, hoa tuyết và hoa anh đào bay qua đầu và áo chúng tôi như những bông sen ngàn tuổi nở rực rỡ, một màu trắng thuần khiết và trong suốt. Hàng ngàn hàng vạn năm, tôi và
Thích cứ đứng như vậy cúi xuống nhìn cả Đế quốc Ảo Tuyết, nhìn thần dân của chúng tôi, nhìn thủy triều lúc lên lúc xuống trong biển băng và nhìn những đóa hoa sen hồng nở rộ như những ngọn lửa ở bờ đối diện của biển băng.
Một con chim tuyết khổng lồ vút lên từ thành Nhẫn Tuyết rồi là là bay tới, sau đó có vô số con chim tuyết bay sát qua đỉnh đầu chúng tôi, tôi còn nghe thấy tiếng vỗ cánh của nó, bóng đàn chim tuyết khổng lồ đang mờ dần ở phía chân trời. Sau đó, trên nền trời xanh lại xuất hiện một khuôn mặt mà tôi không thể nào quên, đó là Lê Lạc với mái tóc điểm xanh; đó là Lam Thường, mộtngười biết yêu biết ghét, rất được mọi người yêu quý, những anh chị của tôi, còn cả những người của bộ tộc Băng đã chết trong cuộc thánh chiến... nụ cười của họ tràn ngập bầu trời, nhưng rồi cũng tan đi như sương sớm.
Cuối cùng, tôi thấy mình đang đứng ở Nhẫn Tuyết trong một mùa đông - một mùa đông mười năm tuyết rơi liên tục, xung quanh chẳng một bóng người, chẳng một tiếng động, chỉ có tiếng gào thét của bão tuyết đập vào tai tôi, và cuối cùng, thành Nhẫn Tuyết lặng lẽ đổ sụp phía sau tôi, chảy mãi cho tới khi kết thúc giấc mộng mới thôi.
Tôi ôm gối ngồi trên giường, đầu tựa vào tường, tôi nghe thấy mình đang thầm nói: Thích ơi, đệ sống ra sao? Huynh rất nhớ đệ...
Buổi sáng khi tôi tỉnh dậy, tuyết ngoài cửa sổ đã ngừng rơi, trên lá trúc vẫn còn đọng lại những bông hoa tuyết, thỉnh thoảng lại bay đi theo những cơn gió.
Tôi đi vào giữa sảnh lớn, phát hiện thấy bọn Nguyệt Thần đang ăn. Ngoài cô gái gảy đàn Hoa Hiệu không có mặt ra, còn mọi người đều tề tựu đủ cả.
Điều kỳ lạ là, Nguyệt Thần cùng ngồi một bàn với một người, người đó chính là Trâm - một người đàn bà rất giỏi dùng độc là thủ hạ của Thương Liệt.
Tôi đi tới ngồi cạnh bà Trâm, sau đó người của nhà khách tới hỏi tôi dùng gì, khi tôi đang chuẩn bị gọi đồ ăn thì bà ta nói: Ca Sách, tối sang chỗ tôi một chút .
Tôi ngẩng lên nhìn vẻ nghi ngờ, chẳng hiểu bà ta định làm gì.
Bà ta cười với tôi, nụ cười đầy bí ẩn và mơ hồ rồi nói: Thưa Đại vương, tôi biết một người bạn của ngài là Liêu Tiễn chết vì một cây kim, tối nay mời ngài tới, thần sẽ nói cho ngài biết về cây kim nọ.
Tôi nhìn Nguyệt Thần, nàng chẳng nói gì chỉ cúi đầu uống trà, tôi quay đầu lại đáp rằng, tối tôi sẽ tới.
Tối đó, tôi gọi Nguyệt Thần vào phòng tôi nói rằng muốn nàng cùng đi tới chỗ bà Trâm.
Nguyệt Thần đồng ý và dặn tôi phải hết sức cẩn thận.
Chờ ọi người đi ngủ cả, tôi và Nguyệt Thần mới bước ra khỏi cửa, nhưng khi chúng tôi tới phía ngoài gian phòng của bà Trâm thì thấy bên trong không có đèn, cũng chẳng có tiếng gì cả, tất cả tối om om.
Tôi khoanh ngón đeo nhẫn, sau đó gió tuyết bắt đầu bay xung quanh người tôi mỗi lúc một dày thêm, bởi tôi sợ rằng khi mở cửa ra sẽ có vô vàn mũi kimđộc phóng tới. Tôi quay nhìn Nguyệt Thần, nàng cũng giơ tay trái lên qua khỏi đỉnh đầu, sau đó chỉ thấy ánh trăng chụp kín người nàng.
Sau đó, Nguyệt Thần đẩy cửa, khi ánh trăng trên người nàng chiếu vào căn phòng, chúng tôi nhìn thấy bà Trâm, bà ta đang ngồi trên ghế đối diện với chúng tôi và mỉm cười, nhưng nụ cười rất kỳ dị. Khi chúng tôi sắp bước vào thì Nguyệt Thần hét lên một tiếng rồi quay lui rất nhanh, tôi cũng vội vàng lui quay lại, bởi nhìn thấy thứ ánh sáng lạnh lùng trên tay của bà ta. Tất cả kim cài tóc của bà ta đã được nhổ ra hết và đặt trong lòng bàn tay và có thể phóng bất cứ lúc nào.
Nhưng tôi và Nguyệt Thần chờ mãi bên ngoài chẳng thấy bà ta hành động, chúng tôi củng cố thêm tầng bảo vệ rồi lại bước vào. Nụ cười của bà ta vẫn rất kỳ dị và tôi đã phát hiện ra nguyên nhân của nó, đó là do nụ cười của bà ta đã bị đông cứng lại không thể thay đổi được.
Bà ta đã chết, Nguyệt Thần thu về ánh sáng trong tay.
Sáng hôm sau, thi thể của bà ta được chôn cất trên khoảng đất trống sau nhà, mọi người đều tới huyệt bà, đất mới đào lên chất thành đống, tuyết trắng chói chang. Những cái được bà ta dùng trước đây cũng được chôn theo cùng với bà ta. Chúng tôi biết, mộ bà ta không được phủ bằng cỏ, vì chất độc ở các cây kim sẽ lan ra đất, tạo thành một minh chứng cho việc bà ta đã từng là cao thủ ám sát.
Hóa ra bà ta vốn là Phượng Hoàng - Triều Nhai chậm rãi nói, mái tóc bay bay che lấp khuôn mặt, nhưng vẫn không thể che hết nụ cười mệt mỏi của Nhai.
Tôi quay nhìn Hoàng Thác, Thác chẳng biểu lộ gì hết, nhưng ánh mắt vẫn sáng long lanh, tôi không biết Thác đang nghĩ gì, cứ thấy ông ta nhìn chăm chú vào phần mộ của bà Trâm mà chẳng nói gì.
Vài ngày sau khi Phượng Hoàng chết, toàn bộ nhà khách này rất yên ắng, ngày ngày vẫn có người đến người đi, riêng tôi không biết đang đợi gì, có lẽ cũng giống như Thương Liệt, chúng tôi chỉ chờ Tây phương hộ pháp tới mà chẳng phòng bị gì cả. Nguyệt Thần thường biến đâu mất, còn Hoàng Thác lại luôn ngồi trong phòng, Phiến Phong và Triều Nhai lại luôn chơi cầu với con người chủ. Còn tôi chỉ đứng trong rừng trúc, nhìn những bông hoa tuyết nhỏ xíu rơi loạn xạ từ trên lá trúc xuống mỗi khi có gió thổi, có bông rơi lên đầu và vai tôi, rơi cả vào trong mắt tôi rồi tan chảy ra ngay.
Ba ngày sau lại xảy ra một chuyện khiến mọi người rất hoảng sợ, đó là chuyện Phượng Hoàng không hề chết.
Hôm đó, con ông chủ quán khóc lóc chạy tới, nó kẻo tay tôi và nói rằng nó rất thích những bông hoa khô, thằng bé đưa tôi ra sau nhà. Khi tới nơi đó, tôi lặng người chẳng nói được lời nào; lát sau Hoàng Thác và Nguyệt Thần cũng tới, cả hai người cũng cùng có tâm trạng như tôi.
Bởi vì giữa bãi đất trống rất rộng sau nhà, một đám cỏ rất rộng đã chết khô, trông giống như vết sẹo lớn của mặt đất.
Hoàng Thác nói, chắc chắn dưới đó có vấn đề.
Nguyệt Thần bước tới, tụ ánh trăng lại trên tay rồi phóng xuống đám đất đó, lát sau đám đất bỗng nứt ra, tôi nhìn thấy một đống kim độc, vì thế làm cho cỏ phía trên chết hết, chỉ có điều, đầu những cây kim đó lại không giống hình Phượng Hoàng mà thôi.
Hoàng Thác nói, chúng ta hãy xem lại thi thể của bà Trâm.
Mộ bà ta được đào lên, ánh nắng chiếu vào thi thể cứng đỏ của bà. Hoàng Thác chỉ vết máu tụ trên tay bà ta và nói tôi hãy nhìn kỹ xem.
- Vì sao lại có vết tụ máu? - Tôi hỏi Hoàng Thác.
- Vì sao khi bà ta chết, cơ thể đã cứng lại, nhưng vẫn có người động vào, cố sức muốn tách các ngón tay của bà ta ra. - Hoàng Thác nói.
- Bởi khi có người muốn giết bà ta, bà ta đã lấy tất cả những cây trâm nhỏ trên đầu ra cầm trong tay, nhưng chưa kịp bắn đi thì đã bị giết chết. Sau đó, người muốn tách các ngón tay bà ta ra để lấy những cây kim đó và thay vào đấy bằng những cây kim Phượng Hoàng để chúng ta cho rằng bà Trâm chính là Phượng Hoàng. - Nguyệt Thần nói xen vào.
Thương Liệt chẳng nói gì, bộ mặt rất nghiêm nghị.
Hồi lâu sau ông ta mới khẽ nói, hãy chôn cất bà Trâm, đừng đụng tới làm gì.
Sáng hôm sau, khi tôi đang ăn cơm trong đại sảnh, Hoàng Thác đột nhiên bước tới rồi ngồi xuống bên cạnh, sau khi gọi món ăn rồi cứ ngồi nguyên như thế mà chẳng nói câu nào. Thác chỉ xòe bàn tay ra, trong tay có một mảnh giấy, trên đó là một cây kim vừa lấy từ đất lên.
Tôi nhìn kỹ cây kim bởi tôi biết không phải vô cớ mà Thác muốn cho tôi xem nó. Sau khi tôi nhìn cây kim rất lâu dưới ánh đèn, tôi đột nhiên cười, Hoàng Thác cũng cười, chắc là cũng biết tôi đã phát hiện ra bí mật rồi.
Bởi trong đó có một cây kim trên có vết máu, điều đó có nghĩa là kẻ đổi kim trong tay bà Trâm đã bị kim đâm phải, do đó y đã bị trúng độc, Hoàng Thác nói, giải được chất độc đó cần phải vài vị thuốc đặc biệt.
Tôi nhìn mắt Hoàng Thác rất sáng và đột nhiên hiểu ý của ông ta. Tôi nói, chỉ cần chúng ta tìm được người mua thuốc là có thể tìm ra người trúng độc.
Hoàng Thác gật đầu nói, biết người nào trúng độc sẽ biết ai là Phượng Hoàng.
Nhà khách này hàng ngày đều có xe ngựa chở hàng đỗ ngoài cửa, sau đó người trong nhà khách và thủ kho mới ra xem xét những thứ hàng cần, đương nhiên trong đó có thể có cả thuốc men. Nếu là khách đặt hàng mua thuốc sẽ có người đưa đến tận phòng ở của khách.
Chúng tôi phát hiện hàng ngày đều có thuốc ở các cửa hiệu lớn trong phố được chuyển tới nhà khách này, phần lớn đều là loại thuốc bổ do nhà khách sắc dùng, chỉ có một ít thuốc được chuyển trực tiếp đến phòng của Y Trạo.
Khi tôi và Hoàng Thác nói lại chuyện này cho Thương Liệt biết, ông ta lắc đầu quả quyết là không phải Y Trạo.
Thương Liệt nói với chúng tôi, Y Trạo phải uống thuốc luôn, bởi nhiều năm về trước, cô ta bị thương chưa khỏi, ngay khi ở trong phủ Thái tử, vẫn có người hàng ngày mang thuốc tới. Sau khi tới ở đây, phải đưa thuốc tới đây.
Ông ta còn nói rằng, thuốc mà Y Trạo uống đều là thuốc phục hồi linh lực chứ không phải là thuốc giải độc.
Khi tôi và Hoàng Thác rời phòng của Thương Liệt, Hoàng Thác nói với tôi, chúng ta phải đi xem phương thuốc của Y Trạo.
Lạc Thảo Trai là nhà thuốc lớn nhất nơi này, những người đưa thuốc cho Y Trạo đều là người làm thuê. Chúng tôi tới hiệu thuốc, tìm tới vị thầy thuốc nọ rồi hỏi về phương thuốc của Y Trạo.
Vị đại phu đó cười miễn cưỡng, nhưng qua nụ cười đó, chúng tôi thấy rõ tất cả. Ông ta nói đó là bí mật của người bệnh, thầy thuốc không được tùy tiện nói cho người khác biết.
Hoàng Thác bước tới nói, nếu đại phu đồng ý cho chúng tôi xem đơn thuốc đó, tôi có thể đồng ý thay đại phu chữa trị cho ba người khác.
Vị đại phu cười tỏ ra xem thường rồi nói, ta chính là một thầy thuốc giỏi nhất ở thành này, vì sao lại phải cần người khác chữa bệnh thay!
Hoàng Thác quay lại nhìn tôi, tôi bước tới kéo tay một người làm công đứng cạnh, tay tôi vung lên, một lưỡi kiếm băng đột ngột xuyên thủng ngực anh ta, tôi thấy vị đại phu kia mặt thất sắc, khi máu anh chàng xấu số chảy tràn ra mặt đất, tôi và Thác cười rồi bỏ đi. Khi chúng tôi bước qua cửa, nghe thấy giọng nói run rẩy của vị đại phu nọ, ông ta nói xin mời chúng tôi ở lại.
Hoàng Thác dùng ánh sáng tụ lại trên tay lướt nhẹ trên ngực anh chàng làm thuê, vết thương trên ngực anh ta do kiếm băng đâm thủng dần dần khép miệng, cuối cùng làn da ở đó trở nên nhẵn bóng như chưa từng bị thương vậy.
Vị đại phu nọ ngồi ngay đó, ánh mắt lộ rõ vẻ hoảng sợ và kinh ngạc.
Chúng tôi cầm tờ đơn thuốc trong tay, đó là một tấm giấy màu hồng mỏng nhưng trong suốt, chữ đại phu viết trên đó như rồng bay phượng múa. Ở cuối tờ đơn có ba vị thuốc rất kỳ lạ, đó là cỏ không tuyết, cóc lửa và tơ nhện băng.
- Ba vị thuốc này là loại giải độc tốt nhất - Hoàng Thác nói.
Tôi nhìn Hoàng Thác, mắt ông ta ánh lên vẻ rất đặc biệt nhưng rất hấp dẫn. Tôi hiểu ý tứ của ông ta.
Khi chúng tôi quay lại nhà khách thì nhìn thấy Y Trạo đang ở trong sân nơi có đám cỏ lưa thưa, cô ta mặc chiếc áo dài màu đen điểm vàng, đẹp và đầy bí ẩn, bộ mặt của cô ta cũng lạnh lùng bí ẩn, kỳ lạ như loài hoa man đà la màu đen khi nở. Khi tôi nhìn thấy cô ta, cô đột nhiên mỉm cười, giống như mặt hồ bị gió thổi làm tan lớp băng trên mặt vậy, nụ cười đó cũng giống như loài hoa bé li ti, nhỏ nhưng rất đẹp đang nở, cô ta hỏi, Ca Sách, Người vẫn khỏe chứ?
- Vẫn khỏe. Còn cô, tôi thấy cô ngày nào cũng uống thuốc, vậy sức khỏe ra sao? - Tôi hỏi lại.
Cô vén những sợi tóc xõa ra trán, cười và nói rằng chẳng sao cả, chỉ là thuốc bổ để dưỡng thương thôi, xin cảm ơn sự quan tâm của Đại vương.
Tối đó, Hoàng Thác tới phòng tôi và nói chúng tôi hãy cùng tới phòng ở của Y Trạo xem sao. Tôi hỏi lại.
- Đến đó làm gì?
- Xem thuốc của cô ta có thật là thuốc bổ hay không.
Tôi nói cần phải rủ Nguyệt Thần cùng đi, nhưng Hoàng Thác chần chứ một lúc lâu, mãi rồi mới nói tại sao lại phải gọi Nguyệt Thần.
- Nếu Y Trạo là Phượng Hoàng thì chỉ có Nguyệt Thần mới có thể địch nổi cô ta. Tôi đáp.
- Hoàng Thác nhìn ra ngoài cửa sổ rồi gật đầu.
Tối đó, khi ba chúng tôi tới trước cửa phòng của Y Trạo thì đã thấy cô ngủ rồi, vì trong phòng không có ánh đèn.
Khi đưa tay đẩy cửa, tôi bỗng cảm thấy có một cảm giác rất kỳ quái giống như cảnh tượng từ trước đó đã xuất hiện. Tôi quay đầu nhìn Nguyệt Thần, nàng cũng biểu hiện giống như tôi, hai chúng tôi nhìn nhau giây lát rồi cùng hiểu việc gì sẽ xảy ra. Và thế là chúng tôi cùng đẩy cửa vào, nhưng đã muộn rồi, Y Trạo đã nằm trên sàn, mặt hướng lên trần nhà, lộ vẻ kinh hoàng đến mức khó tin nổi, nơi yết hầu có một vết thương rất nhỏ, một nhát kiếm giết người. Người giết cô ta hẳn phải là người mà cô ta hoàn toàn không ngờ, bởi cô ta hoàn toàn không có khả năng chống trả, nếu không phải là bất ngờ thì chẳng ai có thể làm cho cô ta không kịp chống trả được. Thương Liệt đã từng nói với tôi rằng phép thuật của cô ta hoàn toàn có thể đạt tới mức của một nhà ảo thuật.
Nguyệt Thần vội thắp ngọn đèn dầu trong phòng lên, sau đó chúng tôi nhìn thấy chiếc tủ ở bên cạnh giường của cô ta đã bị mở toang. Trong tủ toàn là thuốc, Hoàng Thác xem và nói, ba vị thuốc giải độc đã hoàn toàn biến mất rồi.
Nguyệt Thần nói, như vậy xem ra Y Trạo không phải là Phượng Hoàng, Phượng Hoàng thật là kẻ giết chết Y Trạo, hắn tới trộm thuốc nhưng bị Y Trạo phát hiện nên đã giết Y Trạo, nhưng do chúng ta đột nhiên tới đây nên bỏ chạy không kịp đóng cửa tủ.
- Vậy Phượng Hoàng là ai? Tôi hỏi Nguyệt Thần.
- Giờ ta hãy xem xét căn phòng đã, Nguyệt Thần đáp.
Trong phòng chẳng có ai, mọi người đã tụ tập ở sảnh lớn chỉ trừ mỗi Triều Nhai.
Thương Liệt ngồi giữa sảnh lớn, Phiến Phong ngồi bên cạnh, Hoa Hiệu ngồi chếch ở một bên nhưng không đánh đàn mà chỉ ngồi yên một chỗ, còn bên kia chính là Nha Chiếu, một thanh niên tuấn tú luôn đeo kiếm bên người.
Cạnh Nha Chiếu là ông già Đồng Nhiếp và Ngư Phá - người đàn ông có cơ bắp rất phát triển. Tôi hỏi Thương Liệt:
- Ban nãy ai không có mặt ở đây?
- Những người ngồi đây đều đến uống rượu từ khi trời sập tối, trong thời gian đó chỉ có Nha Chiếu và Ngư Phá có đi khỏi đây một lúc.
- Khoảng thời gian đó có đủ để giết chết một người không? - Nguyệt Thần hỏi chen vào.
- Không đủ! Tuyệt đối không đủ - Thương Liệt nói rất nghiêm túc.
Nha Chiếu lạnh lùng nhìn Nguyệt Thần rồi nói, đến giết một con gà cũng không đủ, huống hồ là một con người.
- Vậy người chết lần này là ai vậy? - Thương Liệt hỏi nhỏ.
- Là Y Trạo - Tôi đáp.
Sau đó tôi thấy Hoàng Thác hét lên kinh hãi và nói chúng ta đã quên một việc quan trọng nhất. Nói đoạn, Thác xông tới, tôi và Nguyệt Thần cùng xông ra khỏi nhà khách bám theo, tôi mơ hồ nhận ra hướng mà Hoàng Thác định đi.
Khi chúng tôi tới Lạc Thảo Trai thì nơi đây đã ngập trong biển lửa rồi, đứng trước cảnh tượng này, tôi đột nhiên cảm thấy như mình trở lại thành Nhẫn Tuyết, trong ngọn lửa ở Ảo Ảnh Thiên, Thích một mình ngã xuống mặt đất, con người của Thích trắng tinh.
Ánh lửa soi tỏ mặt Hoàng Thác và Nguyệt Thần, tôi thấy cảm xúc của họ luôn thay đổi trên nét mặt.
Tôi hỏi Hoàng Thác vì sao lại biết có chuyện xảy ra ở đây. Hoàng Thác trả lời tôi rằng, bởi chúng ta quên mất một việc quan trọng nhất, đó là ba vị thuốc giải độc.
Theo Thác, ba vị thuốc giải độc đó là thứ mà chỉ ở núi thần Ảo Tuyết và thành Nhẫn Tuyết mới có, một đại phu bình thường ở trần gian làm sao có thể biết được ba vị thuốc này là thứ phải cần linh lực hội tụ mới có thể sinh trưởng được? Tôi hỏi.
- Vậy vị đại phu kia là...
- Đúng vậy, ông ta chính là người ngoài giả dạng.
Nguyệt Thần chậm rãi nói, tốt nhất chúng ta phải đi hỏi Triều Nhai xem đêm nay cô ta ở đâu.
Tối hôm sau, sau khi chúng tôi chôn cất y Trạo xong, tất cả tập trung tại sảnh lớn. Đêm đó, Hoa Hiệu không xuất hiện, Thương Liệt sai người hầu bê thức ăn ra, tuy thức ăn rất nhiều món, nhưng chẳng ai thấy ngon cả, chẳng ai ăn được khi mấy người trong chúng tôi đã liên tiếp ra đi. Sau khi các món ăn bày ra hết, vẫn chẳng thấy Hoa Hiệu xuất hiện, Thương Liệt cho người hầu bàn lui ra, chúng tôi cùng tiếp tục chờ Hoa Hiệu.
Khi chúng tôi nghĩ rằng Hoa Hiệu cũng bị ám sát rồi thì Hoa Hiệu xuất hiện, nàng ăn mặc rất giản di, không một chút phấn son, mặt trắng nhợt.
Thương Liệt và tôi chẳng hỏi gì, mọi người bắt đầu ăn cơm.
Vừa ăn được một lúc, tôi đột nhiên thấy mặt Nguyệt Thần đầy sát khí, điều mà tôi chưa hề thấy ở nàng bao giờ. Sau đó, ánh sáng trăng ở tay nàng đột nhiên xuất hiện, nàng quay người xông ra ngoài. Khi cửa mở, Nguyệt Thần nhìn thấy đứa con của ông chủ đang đi ngoài hành lang, cậu bé đang ôm lấy cây cột tỏ ra rất sợ hãi, há hốc mồm nhìn ra hướng vườn trúc, nỗi sợ hãi bất tận trong mắt cậu bé ảnh hưởng đến mọi người, Nguyệt Thần lao nhanh ra hướng vườn trúc, gió đập vào tà áo dài phát ra tiếng rít như xé vải.
Tôi cảm thấy Phượng Hoàng xuất hiện, tôi không yên tâm lắm cho Nguyệt Thần liền lao ra theo. Nhưng dạ dày tôi đột nhiên đau quặn, mắt đổ hoa cà hoa cải, vô số ảo ảnh từ mặt đất bốc lên, tôi quay đầu lại thấy mọi người đổ gục xuống mặt đất, tôi đột nhiên nghĩ rằng thức ăn đã bị bỏ thuốc độc. Chỉ thấy Hoàng Thác và Triều Nhai đứng yên, gió thổi tung tà áo của hai người, mắt tôi tối sầm lại rồi ngã vật ra đất. Khi tôi hôn mê, hình ảnh cuối cùng trước mắt buộc tôi phải kêu thét lên, bởi Hoàng Thác đang ra tay đối với Triều Nhai, vòng bảo vệ của ông ta đã được triền khai toàn bộ, cây đàn vô âm của Triều
Nhai đã xuất hiện, tôi nhìn thấy vô vàn những con bướm trắng biến hóa ra từ dây đàn màu trắng, tôi biết Triều Nhai đã học được thuật ám sát của Điệp Triệt, chỉ có điều tôi không biết là trong hai người ai sẽ bị đối phương giết chết. Còn tôi chẳng thể làm gì được nữa, một màu đen đổ sập xuống trước mắt, tôi bị chôn vùi ở một nơi sâu thẳm nhất không hề có chút ánh sáng nào.
Khi tôi tỉnh lại, tôi vẫn ở trong sảnh lớn, những người xung quanh cũng dần dần tỉnh lại, Hoàng Thác đang chăm sóc những người bị trúng độc, điều kỳ lạ là, Triều Nhai vẫn đứng cạnh đó, Nguyệt Thần cũng đã trở lại, nàng đang ở một góc mà chẳng nói gì.
Tôi đang định hỏi Hoàng Thác xem đã xảy ra chuyện gì, nhưng Hoàng Thác đã đưa mắt ngầm bảo tôi đừng nói. Tôi nhìn mặt Hoàng Thác mà cảm thấy tất cả đã thay đổi ngày càng không thể lường được.
Nguyệt Thần bước tới quỳ trước mặt tôi và nói: Thưa Đại vương, xin thử lỗi cho thần đã không bảo vệ được Người.
Tôi nói, Nguyệt Thần, ngươi không việc gì là tốt rồi, ngươi có đuổi kịp kẻ đó không?
- Không. Thần cứ thẳng đường đuổi theo, nhưng phát hiện ra rằng càng đuổi theo thì sát khí càng nhạt đi, sau đó thần mới biết đã bị người ta dẫn đi, tới khi thần quay lại thì Đại vương đã hôn mê rồi.
Mấy ngày sau tuyết rơi đầy trời, không khí trong ngôi nhà rất nặng nề vì liên tiếp có người chết, có đêm tôi còn nghe thấy tiếng nói của những người đã chết vang vọng trong không trung, những tiếng kêu tuyệt vọng, hoảng sợ, sự phản bội, ám sát, ấm áp, máu tươi, hoa anh đào... tất cả những ảo giác đó bay lẫn trong những bông tuyết trắng như lông ngỗng tử trên trời rơi xuống phủ kín mặt đất đen.
Tôi đã chán những cảm giác nặng nề đen tối do những cái chết đưa lại, màn đêm đen đặc quánh cũng làm cho người ta sợ hãi tới ngộp thở. Nhưng cái chết vẫn không ngừng xuất hiện trong nhà khách, mà lần này, người chết lại là Phiến Phong.
Phiến Phong chết vào buổi trưa, ánh nắng chiếu qua kẽ lá trúc rọi xuống đất thành những giọt long lanh nhỏ bé. Lúc nghe tiếng kêu thảm khốc của Phiến Phong, Hoàng Thác đang ở trong phòng tôi. Nghe thấy tiếng kêu tôi và Thác xông ra, khi chạy tới cửa phòng của Phiến Phong, Hoa Hiệu cũng chạy tới, tiếng thở của cô rất gấp, cô ta nói, vừa rồi hình như tôi... nghe thấy...
Lúc đó, cô ta chẳng nói gì nữa, bởi cô nhìn thấy ánh mắt nặng nề của Hoàng Thác. Tôi tin rằng, bộ mặt của tôi lúc đó cũng giống như vậy. Nhưng khi chúng tôi đẩy cửa phòng của Thác thì cửa không sao mở được, hiển nhiên nó đã bị khóa trong rồi.
Hoàng Thác nói, kẻ giết chết Phiến Phong vẫn còn ở bên trong.
Hoa Hiệu sợ hãi lùi lại, tôi quay lại nhìn cô ta và nói, cô hãy lui ra đi!
Hoàng Thác đưa tay ra làm phép thuật lập ra một vòng bảo vệ cả tôi và Thác. Khi tôi và Thác phá cửa vào, bên trong chẳng có phản ứng gì. Tôi đã chuẩn bị sẵn để đón bất kỳ đòn tấn công nào, nhưng bên trong lại trống vắngnhư nhà mồ. Phiến Phong đang nằm trên mặt đất, khuôn mặt đầy sợ hãi méo đi, giống hệt như những biểu hiện của Y Trạo khi chết.
Vì phòng ở của Phiến Phong ở góc trong cùng nên chẳng có cửa sổ, chỉ duy nhất một cửa ra vào. Rõ ràng là kẻ ám sát còn ở trong phòng.
Nhưng đột nhiên Thác nói với tôi hãy cùng đi tìm xem sao, sau đó Thác quay lại nói với Hoa Hiệu, hãy ở lại trong phòng, canh chừng cửa ra vào, không để cho sát thủ chạy thoát.
Thác kéo tôi ra khỏi phòng, tôi muốn nói với Thác sao lại để mình cô ta ở lại, nhưng khi Thác lôi tôi đi và làm một thế tay rất kỳ quặc, tôi biết hẳn Thác có ý đồ nào đó liền cùng Thác đi ra. Nhưng khi rẽ ra hành lang, Thác đột nhiên dừng lại và bảo tôi hãy yên lặng nhìn xem.
Từ chỗ tôi đứng chỉ nhìn thấy nửa thân trên của Hoa Hiệu, còn nửa dưới bị lan can hành lang che khuất, nhưng vẫn thấy rõ cô ta bước tới, mở cánh cửa phòng, trên mặt để lộ nụ cười bí hiểm và kỳ dị. Chẳng thấy ai đi ra, chỉ thấy Hoa Hiệu thò đầu nhìn về phía cuối hành lang, có vẻ như có người đã ra khỏi phòng đi về phía ấy. Tôi quay lại nhìn Thác, Thác vẫn tỏ ra lạnh lùng và cứng rắn. Trong chớp mắt, tôi đột nhiên nghĩ ra rất nhiều chuyện.
Rượu ở đây có tiếng là ngon, Thương Liệt là người rất biết thưởng thức, ông ta uống rất nhiều, đám người hầu rất thích nên khi đưa thức ăn tới luôn nở nụ cười rất tươi trên miệng, chẳng có ai lại không vui vì thu nhập cao.
Tôi, Hoàng Thác và Nguyệt Thần ngồi cùng bàn, còn Nha Chiếu, Ngư Phá và Thương Liệt ngồi cùng với nhau, chỉ Hoa Hiệu là không tới mà thôi.
Hoàng Thác uống hết ly rượu rồi quay sang nói với Thương Liệt rằng, bây giờ ông ta có thể nói Phượng Hoàng là ai rồi.
Sau đó, tôi thấy chiếc ly trong tay Liệt rơi xuống choang một tiếng vỡ vụn ra, rượu đổ đầy mặt đất, Nha Chiếu và Ngư Phá ngồi bên cạnh mặt biến sắc.
- Phượng Hoàng là ai vậy? - Thương Liệt hỏi.
Hoàng Thác đột nhiên triển khai vòng bảo vệ, ánh trăng trong tay Nguyệt Thần bỗng biến thành một thanh kiếm ánh sáng, còn tôi cũng tập trung toàn bộ sức mạnh của mình, xung quanh người có vô số những thỏi băng bay, tiếng đàn của Triều Nhai cũng trở nên sắc nhọn chói tai, vô số những con bướm trắng từ dây đàn bay rợp cả phòng.
Không khí đột nhiên trở nên vô cùng căng thẳng, gió từ mặt đất bốc lên xoáy tròn, tóc và áo của mọi người đều bị thổi tung, ánh đèn trong phòng runrẩy, mặt đất dưới chân cũng rung lên bởi phép thuật của tất cả mọi người đã được hội tụ lại. Bọn người của Thương Liệt hiển nhiên cũng hiểu được rằng một trận đại chiến sắp nổ ra. Thương Liệt và tay chân của ông ta đều khoanh ngón tay đeo nhẫn gọi ra những vũ khí của họ. Vũ khí của Nha Chiếu là một thanh kiếm băng dài mà mảnh màu tím. Còn của Ngư Phá là cây kiếm ba cạnh luôn biến hóa, Đồng Nhiếp thì có trong tay một cây pháp trượng màu trắng xanh,
còn vũ khí của Thương Liệt là một cây cung lửa, những mũi tên có thân màu đỏ, đó là thứ sức mạnh đã bị cấm sử dụng trong truyền thuyết của bộ tộc Băng.
Tên hầu của nhà khách sợ không nói thành lời đang ngồi ngây trên mặt đất, hắn cố bò dậy nhưng nỗi sợ hãi đã làm cho hắn chẳng còn chút sức lực nào, hắn vẫn cố sức lết ra phía cửa, miệng lắp bắp xin đừng giết, đừng giết.
Nhanh như chớp, Hoàng Thác chặn hắn lại và nói, ngươi yên tâm, ta sẽ không dễ dàng giết ngươi đâu, vì ngươi đã giết quá nhiều người rồi, ta không dễ dàng để cho ngươi chết, hỡi Phượng Hoàng!
Sắc mặt hắn trở nên rất bình tĩnh cứ như một người hoàn toàn khác chứ không phải một kẻ vừa sợ chết khiếp ban nãy nữa. Ánh mắt hắn rất kiên định và sắc lạnh, vẻ sát khí đằng đằng. Hắn quay lại nhìn tôi, Nguyệt Thần và Triều Nhai rồi hỏi:
- Làm sao các người biết ta là Phượng Hoàng.
Triều Nhai cười nhạt quay lại nói với Phượng Hoàng hãy mời Hoa Hiệu tới chơi một bản đàn cho chúng tôi nghe.
Sắc mặt của Phượng Hoàng trở nên rất khó coi, cô ta nói vì sao ta là Hoa Hiệu mà ngươi cũng biết?
Thương Liệt tỏ ra vô cùng kinh ngạc, tôi biết chẳng ai nghĩ lại là Hiệu Hoa, quả là một kế hoạch ám sát gần như hoàn mĩ, rất liên hoàn.
Phượng Hoàng quay lại nhìn ra ngoài cửa sổ rồi nói khẽ: Quạ đen, ngươi có thể ra được rồi đó!
Cô ta vừa dứt lời, mọi người đều quay lại nhìn ra cửa sổ, bên ngoài chỉ thấy một màn đêm dằng dặc, nhưng tôi chợt nghe thấy tiếng tà áo dài phất trong gió, khi tôi quay lại, Phượng Hoàng đã vọt ra phía cửa sổ, tôi cho rằng thị đang định thoát ra khỏi căn phòng này, bởi chẳng ai có thể đối phó nổi với những người trong phòng.
Khi tới gần cửa sổ bỗng Phượng Hoàng ngã xoài xuống, hắn quay đầu lại nhìn tôi tỏ vẻ vô cùng tức giận.
Tôi bước tới nói với thị rằng, ta đã biết nhà ngươi sẽ tháo chạy nên đã biến bốn bức tường kể cả cửa ra vào và cửa sổ xung quanh thành băng giá kiên cố, nếu ta không hóa giải ảo thuật, người bên trong sẽ chẳng thể ra nổi.
Mặt Phượng Hoàng tối sầm lại trông già đi kinh khủng. Thị hỏi tôi tứ lúc nào đã nghi ngờ mình, tôi nói ngay từ ngày đầu tiên khi có kẻ ám sát tôi xuất hiện trên mái nhà.
- Làm sao ngươi biết đó là ta?
- Bởi ngay từ hôm đó, sau tà áo dài màu xám, bên trong ngươi chẳng mặc thứ gì cả. Hoàng Thác nói kẻ mặc áo đen kia không thể kịp thay quần áo, nhưng để cởi bỏ một bộ quần áo ra thì chẳng mất nhiều thời gian lắm.
- Vì vậy ngươi mới nghi ngờ ta ư?
- Chưa. Lúc đó còn một số việc rất kỳ lạ. Sau đó là việc ngươi giết bà Trâm.
- Ngươi làm sao biết ta giết bà ấy?
- Ngay lúc bấy giờ ta chưa biết ngươi giết bà ta thật, ta chỉ nghi ngờ tên hầu, lúc ấy ta chưa biết ngươi chính là tên hầu kia.
- Vì sao vậy?
- Bởi sáng hôm đó, ta và Nguyệt Thần đã hẹn với bà Trâm tối sẽ gặp nhau, nhưng trước khi đến gặp thì bà ta đã bị giết chết. Lúc ta nói chuyện đó chỉ có tên hầu ở bên cạnh, do đó ta đã bắt đầu nghi ngờ. Sau khi ngươi giết bà Trâm, ngươi đã lấy cây kim Phượng Hoàng mà ngươi sử dụng đặt vào tay bà ta, rồi lấy kim trên đầu bà ta mang đi chôn xuống đất. Ngươi làm vậy để chúng ta nghi bà Trâm chính là Phượng Hoàng. Thực ra, ta cũng tin như vậy, nhưng ngươi lại quên rằng kim có độc, chất độc đó sẽ lan ra làm cỏ trên mặt đất chết hết, vì vậy chúng ta phát hiện bà Trâm không phải là Phượng Hoàng, mà
người giết chết bà ta mới thực sự là Phượng Hoàng. Bởi khi ngươi lấy cây kim độc trên đầu của bà ta nhưng lại quên đeo găng tay, cho nên tay ngươi đã bị nhiễm độc. Nhưng ngươi không muốn để ai biết, cho nên từ đó trở đi ngươi không bao giờ gẩy đàn cả.
Nhưng ngươi buộc phải giải độc, lại không thể đường hoàng đi mua thuốc giải độc được, vì vậy phải bí mật giết chết vị đại phu ở hiệu thuốc sau đó mới giả danh ông ta để tìm các vị thuốc quý kia rồi cho vào số thuốc của hiệu thuốc. Ngươi cố ý làm cho chúng ta chuyển mục tiêu nghi ngờ nên cố ý sửa ba vị thuốc cuối cùng trong đơn thuốc của Y Trạo thành ba vị giải độc, nhưng điều đó càng làm cho chúng ta có lý do để nghi ngờ hơn.
- Vì sao lại như vậy? - Phượng Hoàng hỏi tôi.
- Bởi một đại phu ở trần thế không thể nào biết được tới ba vị thuốc giải độc kia, do đó ta và Hoàng Thác biết rõ vị đại phu nọ không phải là người trần thế và Y Trạo cũng không phải là Phượng Hoàng được.
- Sau rồi sao nữa?
- Sau đấy nhà ngươi đi ăn cắp thuốc, bị Y Trạo phát hiện thế là nhà ngươi giết Y Trạo.
Tôi nghe thấy tiếng cười của Phượng Hoàng, thị nói, nếu tôi giết Y Trạo thì làm sao lại luôn ngồi cùng uống rượu với Thương Liệt được. - Tôi nhìn thấy mắt thị đầy vẻ nhạo báng.
- Lúc đó, ta nhìn thấy ngươi xuất hiện trong sảnh lớn nên không tin lắm vào phán đoán của ta. Lúc ấy Triều Nhai không ở đó nên ta đã nghĩ có thể có hai khả năng, một là nhà ngươi vẫn luôn ở sảnh lớn, còn kẻ ăn cắp thuốc chính là tên hầu của nhà hàng, còn tên hầu kia ta lại nghi hắn là Quạ đen.
Khả năng thứ hai là Triều Nhai, ta không thể thừa nhận nhà ngươi bố trí Triều Nhai không ở hiện trường quả là cao tay, nó làm chúng ta đều nghi ngờ Triều Nhai.
- Vậy vì sao các người lại quay sang tin Triều Nhai và nghi ngờ ta?
- Bởi việc hạ độc hôm đó. Ta có thể nói rằng kế sách của ngươi khá là inh, ngươi cố ý gọi Quạ đen dẫn dụ Nguyệt Thần, bởi nếu Nguyệt Thần ở đó, khi thấy cơm và thức ăn nàng sẽ nhận ra ngay có kẻ hạ độc để ám sát, nên sau khi Nguyệt Thần đi thì mọi người mới bị trúng độc. Lúc đó, ngươi cũng giả vờ bị trúng độc, đó là một chiêu cao thủ nhất của ngươi, nhưng cũng là chiêu đã làm cho ngươi lòi đuôi ra. Vì trước đó Hoàng Thác đã kiểm tra thức ăn rồi, biết thức ăn bị bỏ thuốc độc, nhưng Thác không nói ra, chỉ có điều Thác đã trộn lẫn thuốc giải độc vào, để khi ăn kẻ nào không bị trúng độc sẽ chính là kẻ hạ độc. Nhưng do lúc đó Triều Nhai lại chẳng ăn gì cả nên cũng không bị trúng
độc, còn ngươi lại giả vờ trúng độc, vì vậy mà Hoàng Thác nghĩ ngay Triều Nhai chính là người hạ độc.
- Vậy vì sao Hoàng Thác không nghi ngờ?
- Bởi ngươi đã ăn thuốc giải độc của Hoàng Thác.
- Mọi người đều ăn cả sao không nghi ngờ họ?
- Bởi thuốc giải độc của ta vốn là một thứ thuốc độc - Hoàng Thác chậm rãi nói - người ăn phải sắc mặt sẽ biến thành màu xanh mà bản thân không hề biết. Khi ta chuẩn bị ra tay với Triều Nhai mới phát hiện ra mặt ngươi biến sắc, vậy nên ta biết, kẻ thực sự hạ độc chính là ngươi.
- Cũng chính từ lúc ấy - tôi nói tiếp - ta mới hoàn toàn tin Triều Nhai, mới hỏi cô ta rằng vì sao trong những đêm xảy ra sự việc nàng đều không có trong phòng nhưng lại luôn nói dối là đang ngủ, còn Triều Nhai một mực nói mình không đi đâu cả, vì thế tối đó, ta đã nấp trong phòng của nàng, tới nửa đêm thì ngươi mò vào, sau đó ngươi đã dùng mê hồn hương làm nàng mê đi rồi khiêng xuống gầm giường và đi ra. Chính vì vậy mà ta biết rằng, mấy lần trước khi có việc xảy ra, ta vào phòng Triều Nhai thì chẳng bao giờ thấy nàng ở trong phòng mà nàng đang ở dưới gầm giường. Khi trời gần sáng, nhà ngươi lại lẻn vào bế cô ta lên giương, bởi vậy Triều Nhai nói cô luôn ở trong phòng. Kế hoạch của nhà ngươi quả là rất chu đáo.
- Và vì thế mà từ lúc đó các người bắt đầu nghi ngờ ta ư?
- Đúng vậy, nhưng chưa dám khẳng định. Cho tới khi Phiến Phong bị nạn, ta mới hoàn toàn xác định Phượng Hoàng chính là ngươi.
- Hôm đó các ngươi cố ý giữ ta ở lại đó ư?
- Đúng! Ta đang ở trong góc khuất nhìn thấy ngươi mở cửa thả kẻ ám sát ra, mặc dù chẳng thấy ai ra cả, nhưng ta biết nhất định đã có người từ trong phòng đi ra rồi, cho dù hắn dùng phép ẩn thân hay cách gì khác.
- Vì sao các ngươi nghĩ tiểu nhị cũng là ta?
- Chúng ta đã từng tưởng rằng tiểu nhị là Quạ đen, nhưng sau đó mới phát hiện tiểu nhị chính là ngươi. Trước hết không bao giờ thấy ngươi và tiểu nhị cùng xuất hiện, mỗi khi có hắn thì không có ngươi, khi chúng ta chờ ngươi thì bao giờ cũng là tiểu nhị đi ra rồi thì một lúc sau người mới tới và không bao giờ dùng son phấn cả, mặt luôn trắng bệch, vì ngươi vừa xóa đi lớp hóa trang thành tiểu nhị. Khi chúng ta đi tìm bà Trâm và Y Trạo lại chỉ thấy tiểu nhị ở phía trước và chỉ có y mới nghe được chuyện chúng ta nói. Còn nữa, hôm mà Hoàng Thác nhặt được cây kiếm có cán rất trơn thì về sau ta mới phát hiện ra,
đó chẳng phải là thứ gì khác mà là dầu dùng trong nhà bếp, và cũng chỉ có tiểu nhị tay mới dính nhiều dầu mỡ mà thôi. Sau đó, ta đã nhìn kỹ tay ngươi - tay của một người chơi đàn - chắc chắn không thể có nhiều dầu mỡ đến vậy.
Ngươi có thể nhìn tay Triều Nhai rất sạch sẽ, mềm mại, dày dặn và khô. Đó là điều kiện của người chơi đàn.
Hoàng Thác đi tới bên tôi và nói:
- Khi chúng ta biết tiểu nhị trong quán chính là ngươi thì chúng ta đoán Quạ đen sẽ là người khác, bởi khi giết chết Y Trạo, ngươi đúng là đang uống rượu với Thương Liệt thật, cho nên kẻ giết Y Trạo phải là Quạ đen, còn khi Phiến Phong chết cửa lại bị khóa trong mà lúc đó ta và ngươi lại ở ngoài, nên sát thủ phải là Quạ đen.
Phượng Hoàng nhìn tôi thở dài, nói:
- Ta luôn cho rằng ngươi là tên vua bất tài, một tên hôn quân nhu nhược, hóa ra là ta đã sai. Ngươi không nói ra nhưng đều hiểu rõ mọi việc. Ngươi có còn gì hỏi ta nữa không?
- Còn. Thứ nhất, chúng ta không nhìn thấy Quạ đen từ phòng đó đi xa, vậy liệu có phải hắn ẩn thân? Nhưng trong thế giới này thì thuật ẩn thân và ảo ảnh di hình đều bị phong bế rồi, vì sao Quạ đen lại có thể sử dụng được? Thứ hai, Quạ đen là ai?
Phượng Hoàng nhìn tôi cười một cách kỳ cục rồi nói:
- Ngươi mãi mãi không thể biết được, hóa ra ngươi không phải cái gì cũng biết hết, ta quyết không thể nói ra cho ngươi.
- Ngươi không thể chống lại được đâu.
- Nếu ta nói cho ngươi biết thì dù ngươi không giết ta thì Quạ đen cũng giết ta, ta chẳng có sức mạnh để địch lại Quạ đen. Nhưng nếu ta không nói, có thể Quạ đen sẽ cứu ta, bởi vì...
Phượng Hoàng nói chưa dứt lời, tôi đã nhìn thấy một màu xanh kỳ lạ trên mặt cô ta, nhưng bản thân cô ta lại không hay biết gì, tôi vội nói: Hoa Hiệu, mặt cô...
- Mặt ta làm sao? - Thái độ đó cho thấy cô ta chưa biết mình đã trúng độc, xem ra thứ thuốc độc này làm người ta không nhận ra được.
Sau đó, cô ta đột nhiên hét lên, có lẽ đã hiểu ra vấn đề, cô ta chạy tới tấm gương treo ở tường rồi gào lên như điên như dại, không thể, Quạ đen không thế giết ta.
- Quạ đen là, là... - Cô ta chưa kịp nói hết câu thì đã chẳng bao giờ nói được nữa rồi.
Quạ đen không tin bất kỳ ai mà chỉ tin người đã chết rồi, chỉ có người chết mới giữ được bí mật.
Tuyết cứ rơi mãi không ngừng, mới đó mà đã tới năm mới của trần thế.
Còn nhớ những năm lưu lạc nơi trần thế, tôi chưa bao giờ thực sự cảm nhận được cái tết náo nhiệt nhất ở thế gian này. Trước cửa nhà khách treo đầy đèn đỏ, tuyết trên trời cứ rơi mãi, càng gần tết càng rơi nhiều, những bông hoa tuyết cứ bay bay rơi xuống phủ kín mặt đất, những chiếc đèn lồng lắc lư trong gió, ánh sáng đỏ ấm áp tỏa khắp phố phường.
Trên phố, trẻ con chạy nhảy nô đùa trong tuyết, chúng mặc những bộ quần áo chống rét rất nặng nề, nhưng nụ cười rất rạng rỡ, chúng rất vui vẻ, vô tư. Có lúc, Nguyệt Thần và Hoàng Thác đứng trước cửa, thỉnh thoảng có những đứa trẻ chạy qua nhìn họ hiếu kỳ. Bởi họ có mái tóc trắng bạc thuần khiết, chảy dài xuống theo tà áo tới tận đất trông như một dòng suối thủy ngân rất đẹp. Cả hai người có lúc còn ngồi xuống chơi cùng lũ trẻ, chẳng ai có thể ngờ họ lại có vai trò lợi hại nhất trong thành Nhẫn Tuyết được, trong đó, Nguyệt Thần là một cao thủ ám sát bậc nhất. Nhưng khi tôi nhìn thấy nụ cười của
Nguyệt Thần, đột nhiên lại cảm thấy rất ấm áp, tôi chưa bao giờ nhìn thấy nàng cười bởi khi nàng cười giống như một trận gió ấm nhất vậy. par Triều Nhai rất thích cậu bé con ông chủ nhà khách, tôi thấy cậu bé rất giống Thích thủa nhỏ. Trong thời gian chúng tôi lưu lạc, tôi thấy mình giống như người cha của Thích, bởi tôi đã lớn lên và trưởng thành, chững chạc giống như người cha của chúng tôi vậy, còn Thích, bộ mặt và nụ cười vẫn hoàn toàn là một đứa trẻ, đôi mắt to, đẹp trông như con gái vậy. Tôi luôn bế Thích đi hết phố nọ sang phố kia, Thích háo hức nhìn ra xung quanh rất vui mà lòng tôi cũng vui lây. Sau đó, chúng tôi trở về thành Nhẫn Tuyết, cũng là lúc Thích lớn lên và trở thành một Hoàng tử có phần khôi ngô tuấn tú hơn cả tôi thì Thích
nói với tôi rằng, thực ra Thích nhớ nhất nụ cười của tôi nơi trần thế, khi đó mắt tôi mở to rồi nhắm lại tuyết rơi đầy trên đôi lông mày, hàm răng trắng, nụ cười và khóe miệng tôi rất ấm áp mà kiên cường. Thích cúi xuống hôn lên đôi lông mày của tôi, tóc xõa xuống che kín mặt tôi.
Dần dần không còn ai ở nhà khách đó nữa vì các lãng tử đã quay về cả rồi, ngay cả những người không nhà cửa cũng lần lượt bỏ đi tìm nơi khác, bởi nếu không, một mình ở lại đây hằng đêm nghe tuyết rơi ngoài cửa sổ nơi ngõ vắng, chắc chắn sẽ cảm thấy cô đơn và trống trải vô cùng. par Riêng tôi đã sống mấy trăm năm, hàng ngày lê gót trong thành Nhẫn Tuyết hoang vu như ngôi nhà mồ, hàng đêm ngồi trên nóc nhà nhìn những vì sao rạch đêm đen rơi xuống, nghe tiếng hát của nhân ngư nhỏ bên biển băng mà lòng luôn nhớ về mấy trăm năm đã qua, ở đó, mỗi khi hoàng hôn rủ xuống lại nghe thấy tiếng hát của nhân ngư.
Nhà khách có một người hầu mới, đó là một người bình thường rất thật thà, sinh trưởng nơi trần thế luôn ngạc nhiên trước những mái tóc trắng bạc dài quét đất của chúng tôi.
Năm mới sắp tới, nụ cười trên mặt mọi người càng ngày càng ấm áp và yên tâm hơn, tôi nhìn họ mà lòng luôn cảm thấy một niềm vui bình dị. Lúc vui vẻ, mấy người chúng tôi còn đang trong sân rộng trước những lan can tre thi triển ảo thuật của mình, Triều Nhai gảy đàn gọi về vô số những con bướm, bayrợp cả bầu trời khoảng sân rộng; Nguyệt Thần làm cho ánh trăng trong tay mình vỡ vụn ra thành từng mảnh nhỏ sáng lấp lánh rồi treo chúng lên những cành cây trơ trụi khẳng khưu trông cứ nhấp nháy như những vì sao đêm. Riêng tôi luôn dùng ảo thuật cuốn tuyết lên, sau đó mới uốn cong ngón tay đeo nhẫn,
biến những bông hoa tuyết thành những cánh hoa anh đào mang màu phấn hồng. Tên hầu nhìn thấy ngây người ra, có lúc anh ta còn đưa cả vợ con tới xem, trong con mắt họ mấy người tóc dài chúng tôi là những vị thần vĩ đại.
Đây là lần đầu tiên trong đời tôi nhận thấy niềm vui giản đơn mà trong sáng của trần thế, tôi phát hiện ra rằng pháp thuật không chỉ để giết chóc, mang lại cái chết, máu, mà nó còn đem về hy vọng, chính nghĩa và một tâm hồn cao cả.
Nhưng vào chính cái đêm giao thừa, bóng đen của sự chết chóc lại bao phủ khắp nơi, nỗi thảm khốc và tan nát đã bị lãng quên nay lại ùa về như một thứ ác mộng.
Tối đó, khì chúng tôi đang ngồi bên những chiếc bàn kê trong sảnh lớn bỗng vọng vào tiếng kêu của Nha Chiếu, tôi nhìn thấy mặt của Nguyệt Thần và Hoàng Thác biến sắc, Hoàng Thác kêu lên: Quạ đen tới!
Nhưng khi mọi người cùng xông ra ngoài lại chỉ nhìn thấy Nha Chiếu đứng giữa sân tóc tai rũ rượi, ánh mắt rất kỳ dị, thân trên để trần, tay cầm thanh kiếm băng màu tím đặc biệt của mình, nụ cười trên môi phủ một bóng đen kỳ lạ.
- Ngươi đang làm gì vậy? - Thương Liệt bước tới hỏi Nha Chiếu.
Nha Chiếu không nói gì, trong mắt đột nhiên chỉ thấy phủ kín những bông hoa tuyết bất tận, nhưng vẫn không che hết được bóng đen của màu xanh trong mắt mà thôi.
Vào lúc Thương Liệt đang bước tới, bỗng có tiếng của Triều Nhai loáng thoáng từ phía sau, lúc này chỉ còn nàng có thể thao túng giấc mơ, nàng bảo Thương Liệt phải lùi lại bởi vì Nha Chiếu đã bị một giấc mơ khống chế rồi.
Tiếng đàn của Triều Nhai rất hối hả, trong chớp mắt như có vô vàn những sợi tơ màu trắng xuyên vào không gian, vô vàn những con bướm trắng xuất hiện trong không trung. Tôi biết Triều Nhai đang điều khiển giấc mơ, nàng muốn mang giấc mơ đáng sợ của Nha Chiếu chuyển sang giấc mơ do nàng sáng tạo ra.
Tóc Nha Chiếu đột nhiên bay tung lên, xung quanh anh ta như nổi lên trận cuồng phong xoáy tít. Nhưng khi tôi quay lại nhìn Triều Nhai lại thấy máu trắng từ miệng nàng chảy ròng ròng xuống mặt đất đen, biến thành vô sốnhững cánh bướm vỡ vụn. Sau đó Hoàng Thác chạy tới đưa nàng vào trong vòng bảo vệ của mình.
Ánh mắt của Triều Nhai trở nên đờ đẫn, trước khi ngất đi nàng nói với tôi rằng, nàng không thể khống chế nổi giấc mơ đó vì kẻ tạo ra nó quá mạnh.
Cái chết của Nha Chiếu quá thảm khốc, anh ta giơ cao thanh kiếm băng màu tím của mình lên rồi đâm thẳng vào ngực mình, khi thanh kiếm ngập sâu vào ngực, tôi nghe thấy tiếng kêu xé lòng của anh, rồi sau đó bóng đen trong mắt biến mất, con ngươi đột nhiên trở lại màu trắng tinh khôi, tôi biết anh đã ra khỏi giấc mơ, nhưng lại phải đối mặt với cái chết thực sự.
Anh ta ngã ngửa ra sau, khi người anh ta đổ xuống, anh ta nhìn chúng tôi miệng lắp bắp: Thưa Đại vương, thưa Thái tử, xin hãy cẩn thận với màu xanh của băng...
Rồi anh ta chẳng nói thêm được lời nào, mắt nhìn lên trời xanh mà chẳng còn chút biểu hiện gì.
Năm mới chậm rãi đến trong không khí chết chóc màu trắng. Tôi cảm thấy tê tái vô cùng.
Tuyết lại bắt đầu rơi nhiều, rơi xuống đầy cả thế giới này.
Ánh đèn dầu trên bàn tỏa ánh mềm mại khắp nhà, ánh sáng vàng của nó làm giảm không khí chết chóc của mùa đông.
Triều Nhai vẫn nằm trên giường, vòng bảo vệ của Hoàng Thác vẫn chụp lên người nàng.
Nguyệt Thần đứng bên cửa sổ, gió từ ngoài thổi vào làm tóc nàng xõa ra.
- Thưa Đại vương, Người nhìn nhận cái chết của Nha Chiếu thế nào? - Hoàng Thác hỏi tôi.
- Có thể là do Quạ đen gây ra - Tôi đáp.
- Chưa chắc - Nguyệt Thần nói - Chưa biết chừng Tây phương hộ pháp đã xuất hiện.
- Vậy thì ai gây ra? - Tôi hỏi lại.
- Có thể là bất kỳ ai - Nguyệt Thần nhìn Triều Nhai rồi nói tiếp - Người có thể ra ngoài một lát được không?
Mùa đông ở trần thế có vẻ còn lạnh hơn ở Nhẫn Tuyết. Mặc dù là năm mới nhưng những đứa trẻ chơi chán, mệt mỏi cũng bỏ về nhà, con đường trông càng lạnh lẽo hơn, những chiếc đèn lồng nhỏ xíu mà lũ trẻ bỏ lại đang nằm chỏng chơ trên mặt đường phủ tuyết lạnh lẽo vô cùng.
Nguyệt Thần đứng trong gió, mái tóc và tà áo của nàng bay phấp phới.
Nàng nói với tôi:
- Thưa Đại vương, thần trịnh trọng nói với người một vài việc. Thứ nhất thần nghi ngờ Triều Nhai, thứ hai nghi ngờ Hoàng Thác, trong hai người có một là Tây phương hộ pháp.
Mắt Nguyệt Thần tràn ngập gió tuyết, tôi đột nhiên cảm thấy như người bị co rút lại và hỏi nàng một cách rất yếu ớt: Vì sao vậy?
- Xin hỏi Đai vương, sau khi Triều Nhai đi qua điện thần Phá Thiên của Điệp Triệt, Người cảm thấy khả năng điều khiển giấc mơ của Triều Nhai ra sao?
- Đã đạt tới linh lúc thượng đẳng của nhà chiêm tinh rồi.
- So với thần thì sao?
- Nói thực, còn hơn cả nàng nữa!
- Đúng vậy, mức độ làm ra giấc mơ của Nhai hơn thần, ở một góc độ nào đó, có thể coi cô ta là một nhà chiêm tinh ưu tú. Trong thuật ám sát mà thần đã học có phương pháp điều khiển giấc mơ này, mà Nha Chiếu cũng chết bởi cách này. Nhưng, Đại vương có biết không, giấc mơ bao trùm lấy Nha Chiếu hôm nay thì ngay cả khả năng của thần cũng có thể phá nổi, nhưng vì lúc đó Triều Nhai đã ra tay trước, nên thần cho rằng việc phá nó đối với Triều Nhai là việc rất đơn giản nên đã không ra tay. Nhưng Triều Nhai lại bị giấc mơ đó làm cho bị thương, tới khi thần chuẩn bị ra tay thì Nha Chiếu đã chết rồi.
- Ý của nàng là...
- Ý của thần là - Nguyệt Thần nhìn tôi và chậm rãi nói - Triều Nhai hoàn toàn có thể phá được nó, nhưng cô ta không cứu Triều Nhai, mà cô ta chỉ giả bị thương mà thôi.
- Vậy Hoàng Thác thì sao?
- Nếu Triều Nhai giả bị thương thì Hoàng Thác phải phát hiện nhưng Hoàng Thác lại chẳng nói ra, hai người cùng diễn kịch. Ở Hoàng Thác có rấtnhiều điều mà thần không hiểu nổi, nhưng cụ thể là gì thì thần lại không biết, tóm lại đó chỉ là do trực giác mách bảo.
Gió tử đầu phố thổi tới phía sau lưng Nguyệt Thần, cơn gió như những mảnh băng sắc nhọn lạnh lẽo cắt lên da mặt tôi từng nhát một. Tôi nhìn Nguyệt Thần mà cảm thấy tuyệt vọng hơn bao giờ hết.
Tôi không thể không thừa nhận, Tây phương hộ pháp là một đối thủ lợi hại nhất mà tôi đã gặp, thậm chí ông ta không cần phải hiện diện mà cũng cógiết chết những người ngay cạnh tôi, còn tôi chỉ đứng ở giữa bãi tuyết mà nhìn từng người lần lượt chết đi.
Tối đó, khi tôi trở về nhà khách, đèn trong phòng Triều Nhai đã tắt, cả phòng của Hoàng Thác cũng vậy.
Tôi ngả lưng ra giường, nhưng ác mộng cứ đè nặng lên người tôi, vong linh những người đã chết vẫn bay lượn trên không trung, họ cười, nói ngay bên tai tôi. Những sự việc trước kia ùa về cuốn theo biết bao ký ức của tôi, tất cả những việc đã đổ vỡ tan tành, ầm ầm đổ xuống, còn tôi một mình đang giữa đống đổ nát hoang tan, đứng trước những thi thể mà nước mắt lưng tròng.
Vài con chim tuyết khổng lồ bay ngang trời, những tiếng kêu lanh lảnh của nó tạo ra những vết thương hằn sâu không thể nhạt phai trong mắt tôi.
Trong giấc mơ cuối cùng, mặt đất lại nở ra đầy sen đỏ rực như lửa, những đóa hoa đỏ ùa về như mấy trăm năm trước khi Thích chết, chúng đổ xuống từ những đám mây trên đầu, cuối cùng đã làm tất cả bị ngập chìm.
Ánh lửa rực trời.
Người thứ hai bị giấc mơ làm chết là Ngư Phá. Cũng giống như Nha Chiếu, Ngư Phá đã dùng thanh kiếm ba cạnh tự đâm xuyên qua ngực mình,vẫn là ánh mắt xanh kỳ lạ, nụ cười rất mơ hồ và cuồng phong từ mặt đất ào ào nổi lên.
Khi chúng tôi đến bên Ngư Phá, Phá đã dùng kiếm ba cạnh đâm thủng ngực mình rồi, dù là Nguyệt Thần hay Triều Nhai đều không kịp đến hóa giải phép thuật này.
Rồi đến người thứ ba, đó là Đồng Nhiếp.
Khi Thương Liệt nhìn thấy Đồng Nhiếp ngã trên mặt đất mà chẳng nói câu nào, nhưng mắt vẫn mở trừng trừng nhìn trời xanh, ông ta trầm ngâm hồi lâu mới nói, thế là tất cả người của ta đã chết hết, người tiếp theo có lẽ sẽ là ta.
Năm mới rồi sẽ qua đi, nhưng bầu không khí năm mới lại quá nhiều tử khí. Chúng tôi không báo tin này cho anh người hầu mới của nhà khách, vì anh ta là người rất đơn giản và ngây thơ, vì có lẽ cả đời chưa bao giờ thấy những cái chết ly kì và những vụ ám sát kì quặc như vậy. Anh ta chỉ là một người trần thế đơn giản mà hạnh phúc, thỏa mãn với cuộc sống của mình, chứ không như tôi, một vị vua phải chịu biết bao ràng buộc, có linh lực tuyệt đỉnh mà mãi vẫn cô độc.
Người hầu vẫn làm việc bình thường như mọi ngày, luôn luôn nở nụ cười đón tiếp những chàng lãng tử và khách lữ hành. Đứa con ông chủ vẫn hàng ngày chơi với quả bóng màu xanh, khi nhìn thấy chúng tôi vẫn cười rất tươi vàgọi chúng tôi đến cùng chơi, cả thế gian vẫn vận hành theo quỹ đạo vốn có của nó chứ không có gì khác.
Nhưng bầu không khí chết chóc vẫn trùm, vẫn như những đám mây đen nặng nề không tan nổi, không hề có ánh sáng và chẳng hề sợ gió bão.
Không ai biết Nha Chiếu và Ngư Phá tại sao lại bị giấc mơ thao túng, về mặt linh lực mà nói, rõ ràng họ không dễ gì bị thao túng đến mức bị ám sát chết, trừ khi ngay từ lúc bắt đầu không phòng bị gì, sau khi rơi vào giấc mơ thì không thể ra được nữa. Nhưng sau những cái chết kỳ dị đó, Nha Chiếu và Ngư Phá không thể không cảnh giác, trừ khi kẻ dùng giấc mơ khống chế họ lại là người mà họ không bao giờ nghi ngờ cả. Sau khi xảy ra sự việc Nguyệt Thần nói với tôi, tôi nghe mà không nói gì, Hoàng Thác cũng vậy, bởi chúng tôi đều không biết phải làm thế nào, hoàn toàn mất phương hướng, cứ như là chỉ biết chờ đợi Quạ đen và Tây phương hộ pháp đến tiếp tục giết người vậy.
Hoàng Thác đột nhiên nói, Đại vương, Người còn nhớ giấc mơ thứ ba của Tinh Quỹ hay không?
Nguyệt Thần mắt sáng lên, nàng nói, đương nhiên là nhớ, Tinh Quỹ nói với chúng ta, khi không có manh mối gì, không có phương hướng để tiến lên nữa thì hãy mở nó ra.
Giấc mơ đó rất dài nhưng vô cùng đơn giản, bởi cả giấc mơ chỉ có Anh Không Thích - em tôi. Khuôn mặt khôi ngô tuấn tú của Thích hiện ra trong giấc mơ, Thích đang chạy ra xa, hoa anh đào rơi xuống phủ kín bước chân Thích. Ở một nơi xa nhất, chỗ ranh giới đất trời, Thích trở nên nhỏ bé như hồi còn trẻ con. Nó đứng đó mỉm cười với tôi, tuyết rơi rơi trên tay nó trở thành một quả cầu tuyết trắng tinh, tiếng nói của Thích vọng lại từ rất xa: Đại huynh, Người có vui không? Có vui không?
Tôi không có cách nào hiểu nổi vì sao Tinh Quỹ lại đem giấc mơ này đến cho tôi, phải chăng là để tôi nhớ về Thích hay có dụng ý gì khác? Nếu chỉ để tôi nhớ về Thích thì vì sao lại để chúng tôi tới tận khi không có manh mối gì mới mở ra?
Đột nhiên tôi nghĩ tới giấc mơ mà Tinh Cựu dành cho tôi, đó là giấc mơ mà tôi và Thích thông qua tư cách của nhà ảo thuật ở đồi Lạc Anh, có lẽ nó cũng giống giấc mò đó, chỉ một vài chi tiết mà tôi đã bỏ qua.
Thế là tôi lại bước vào giấc mơ, tôi quan sát rất cẩn thận những sư việc xảy ra và cuối cùng đã phát hiện điều bí mật mà Tinh Quỹ muốn nói cho tôi biết.
Tuyết đã ngừng rơi, chỉ còn lớp tuyết dày đọng lại trên những lá trúc mỗi khi gió thổi lại rơi lả tả.
Triều Nhai đang đánh đàn trong sân, tôi và Hoàng Thác trong phòng, chẳng ai nói với nhau câu nào.
Sau đó, bỗng có tiếng kêu thất thanh của Triều Nhai, tôi nhìn ra cửa sổ, mắt Triều Nhai biến thành màu xanh rất kỳ dị, tóc và áo nàng bỗng bay tung lên, cây đàn bị pháp thuật treo lơ lửng ngay trên đỉnh đầu, vô số những con bướm trắng bay ra từ dây đàn đang vây quanh người cô.
Hoàng Thác nhìn tôi gật gật đầu nói, thật đúng như dự liệu của Đại vương!
Khi tôi và Thác ra sân, tóc Triều Nhai đang bay theo gió, con ngươi càng ngày càng xanh hơn, còn đứa trẻ con ông chủ đứng cạnh sợ hết hồn, nó nói trong sự sợ hãi, chị ơi, chị làm sao thế?
Tôi bước tới quỳ trước mặt đứa trẻ xoa đầu nó rồi nói, chị ấy không sao cả, chỉ bị thuật ám sát trong mộng của em khống chế mà thôi. Chị ấy chẳng sao đâu.
Đứa bé nhìn tôi, không hiểu tôi đang nói gì, nó nói, huynh đang nói gì vậy?
Đột nhiên tôi vung tay lên, một con dao băng ngắn, nhỏ nhưng rất sắc bay ra cắt đứt ngay sợi dây màu đen buộc tóc của đứa bé, sau đó mái tóc rất dài của nó tuột xuống đất, bộ tóc dài hơn bất kỳ bộ tóc nào mà tôi gặp ở nơi này - nơi trần thế do Tây phương hộ pháp biến ra, kể cả Thương Liệt so với nó cũng chẳng là gì.
Còn tóc của Triều Nhai đột nhiên không bay nữa và tuột xuống, chảy dài theo chiếc áo ảo thuật như một dòng thủy ngân.
Mặt nàng thuần một màu trắng, con ngươi sạch sẽ trắng như tuyết. Nàng nói: Tiểu đệ, ta nói ta không hề gì, ta chỉ bị khống chế bởi giấc mơ của đệ mà thôi .
Sau đó, mặt đứa bé bỗng trở nên lạnh lùng, ngạo mạn, giống như cơn gió ngược rất sắc bén tử khuôn mặt cậu ta thổi tới.
Cậu ta nhìn tôi, không nói gì, nhưng ánh mắt vẫn sắc lạnh.
Tôi nói, Quạ đen, ngươi có thể dừng lại được rồi đó!
Quạ đen nhìn tôi rồi nói:
- Ngươi không thể biết ta là Quạ đen được! Không thể!
- Đúng! - Tôi đáp - Rõ ràng là không thể, nhưng ta vẫn biết!
Quạ đen lại nhìn tôi rồi nhìn sang Triều Nhai và nói: các ngươi đang đóng kịch, Triều Nhai căn bản không bị khống chế?
- Đúng! - Triều Nhai thừa nhận - Ta đang đóng kịch. Nhưng ta không thể không thừa nhận, ngươi là người điều khiển giấc mơ giỏi nhất mà ta gặp, chỉ chút nữa là ta đã bị sa vào đó mà không tỉnh lại được. Nếu ta không sớm chuẩn bị thì có lẽ ta đã tự dùng cây đàn để giết chết mình rồi.
- Sao các ngươi lại nghi ngờ ta? - Quạ đen nhìn tôi rồi hỏi.
- Khi Y Trạo chết, Phượng Hoàng khẳng định đang cùng uống rượu với Thương Liệt ở trong sảnh lớn, nên người giết Y Trạo tuyệt nhiên không phải là Phượng Hoàng Hoa Hiệu, mà việc này chắc chắn không cần phải Tây phương hộ pháp ra tay, cho nên khẳng định chắc chắn Y Trạo là do Quạ đen giết chết.
- Vậy làm sao các người lại nghi ngờ ta là Quạ đen?
- Bởi chúng ta nhìn vết thương trên cổ họng của Y Trạo, phát hiện vết cắt tứ dưới đưa lên, nói cách khác, kẻ giết Y Trạo phải là người rất thấp hoặc đứng ở chỗ rất thấp để ra tay, sau đó mới lấy kiếm đâm vào cổ họng của nàng, vì vậy, chúng ta đoán rằng người giết phải là người rất thấp và nhỏ, còn là một người mà Y Trạo không bao giờ ngờ tới, vì nàng không kịp trở tay.
- Còn gì nữa?
- Còn chứ! Đó là cái chết của Phiến Phong. Lúc đó Hoàng Thác nói kẻ ám sát vẫn ở trong phòng, nhưng chúng ta lại chẳng nhìn thấy ai ra ngoài, đúng ra là vẫn có người ra ngoài, người đó chính là ngươi, bởi ngươi quá nhỏ, chưa cao tới thắt lưng Hoa Hiệu nên đã bị lan can che khuất, ở chỗ ta đứng lúc đó chẳng thể thấy được.
- Vì vậy các ngươi nghĩ là ta ư?
- Chưa.
Lúc đó mới chỉ cảm thấy rất lạ. Về sau càng nghi ngờ ngươi hơn vì một câu nói của Nguyệt Thần.
- Câu nói gì?
- Ngươi có còn nhớ hôm tất cả mọi người bị trúng độc, nhưng có người đã dẫn Nguyệt Thần đi không? Hôm đó, khi chúng ta mở cửa, ngươi xuất hiện ở hành lang tỏ ra lo lắng nhìn về hướng đó, nhưng khi Nguyệt Thần quay về nói với ta rằng: Thần càng đuổi theo hướng đó thì sát khí càng nhạt . Sau đó ta chợt nghĩ ra, thứ sát khí đó là do ngươi tạo ra khi đứng ở ngay cửa, ngươi vốn là một cao thủ có hạng trong ám sát, việc tạo ra sát khí hẳn dễ như trở bàn tay, chờ Nguyệt Thần quay về ngươi lập tức thu lại, làm ọi người không nghi ngờ ngươi được.
Quạ đen nhìn tôi, mắt lộ vẻ rất giận dữ và nham hiểm, oằn giọng, người hãy nói tiếp!
- Sau đó là giấc mơ của Tinh Quỹ, trong giấc mơ của Tinh Quỹ, ta lại thấy Anh Không Thích hồi nhỏ, trong tay nó cũng có một quả cầu giống hệt quả cầu của ngươi nhưng có màu tuyết trắng. Lúc đầu ta không hiểu giấc mơ này có ý nghĩa gì, sau đó mới hiểu ra: Ta còn nhớ đã từng gặp ngươi lúc ta mới vào trần thế do Tây phương hộ pháp biến ra này, nhưng lúc đó quả cầu trong tay ngươi có màu trắng tuyết, nay nó lại biến thành màu xanh băng; ta cũng nhớ lại khi Nha Chiếu chết đã nói với ta: Đại vương, hãy cẩn thận với màu xanh băng...
Lúc đó ta không hiểu phải cẩn thận điều gì, nhưng nay thì đã biết Nha Chiếu nhắc nhở ta phải cẩn thận với quả cầu màu xanh băng của ngươi. Sau đó, ta hỏi Triều Nhai, Triều Nhai nói rằng, những người có bản lãnh cao cường điều khiển được giấc mơ và ngưng tụ nó lại thành một thực thể, đó cũng là quả cầu của ngươi, về sau, người nào vấp phải giấc mơ đó sẽ bị nó nuốt chửng ngay lập tức, cho nên ta mới nói Triều Nhai hãy thử quả cầu của nhà ngươi xem đó có phải là giấc mơ giết người không. Kết quả không ngoài dự kiến của ta, quả cầu đó thực sự là giấc mơ chết người do ngươi điều khiển.
Quạ đen nhìn Triều Nhai rồi nói, hóa ra là ngươi không bị giấc mơ của ta khống chế, ngươi chỉ giả bộ thôi ư?
Triều Nhai gật đầu nói, đúng vậy, Hoàng Thác đã lập ra vòng bảo vệ cho ta rồi, những pháp thuật thông thường không thể tấn công ta được, và cũng chớ quên rằng, ta cũng là người điều khiển được giấc mơ.
Quạ đen đứng giữa chúng tôi, cúi đầu chẳng nói gì. Bộ dạng của y như một đứa trẻ rất ngoan, nhưng có ai ngờ được rằng, hắn là một cao thủ ám sát đứng thứ hai chỉ sau Tây phương hộ pháp mà thôi.
Vòng bảo vệ của Hoàng Thác đã làm không gian đông cứng lại, còn Triều Nhai cũng đem cây đàn ra, Quạ đen vẫn đứng ở giữa, tôi không biết hắn nghĩ gì, chỉ thấy màu mắt của hắn thay đổi liên tục.
Sau đó hắn đột nhiên cười toáng lên, bước tới và nói với tôi: Huynh hãy ôm đệ có được không? .
Lúc đó, tôi bỗng thấy không khí xung quanh chao đảo tạo nên một cơn xoáy lốc khổng lồ, trong chớp mắt, tôi bỗng thấy người đang đứng trước mặt tôi chính là Anh Không Thích - đứa em tôi, mái tóc trắng như tuyết rủ xuống, bộ mặt ngoan ngoãn ngây thơ nhìn tôi mỉm cười, giống hệt như Thích - một đứa trẻ đang ngủ ngon trong vòng tay tôi mấy trăm năm trước. Trước mắt tôi bắt đầu xuất hiện những mảng màu lớn rất đẹp, trong óc tôi vang tên tiếng nói của Thích, nó nói rằng, Đại huynh, Người hãy ôm đệ được không? Ôm đệ được không?
Sau đó Thích kiễng chân lên đưa tay ra sờ lên mặt tôi, nhưng khi tay nó vừa chạm mặt tôi thì lập tức xuất hiện ngay vòng bảo vệ của Hoàng Thác, một quả cầu trong suốt như pha lê chụp lấy người tôi làm cho Thích ngã lăn ra đất, nó bò lên trên đất, nước mắt rơi đầy trên mặt tuyết, nó khóc và nói rằng: Đại huynh, sao huynh lại không để ý tới đệ?
Lòng tôi bỗng đau như dao cắt, nỗi đau từ trong đầu lan ra. Tôi đi tới cúi người xuống định bế Thích lên, tôi nói: Thích ơi, đừng sợ, có huynh ở bên đệ rồi!
Trong lúc tôi cúi xuống, Thích đột nhiên biến thành Quạ đen, mọi ảo giác xung quanh đều biến mất, tôi nhìn thấy bộ mặt màu xanh kỳ dị của Quạ đen, một luồng ánh sáng trắng lạnh lùng đột ngột xuất hiện trên tay hắn rồi nhanh như chớp rạch vào yết hầu tôi, tôi không kịp lùi thì người như bị đông cứng lại.
Khi con dao băng trong tay Quạ đen xuất hiện trước cổ tôi, tôi đột nhiên nhìn thấy nụ cười đọng lại của Quạ đen, con dao băng của hắn không tiến lên được nữa bởi tôi thấy một luồng ánh trăng từ ngực hắn chảy ra, sau đó tôi nhìn thấy Nguyệt Thần đang đứng sau hắn, bộ mặt lạnh lùng tỏa sáng lấp lánh, tóc bay phấp phới như những ngọn giáo sắc nhọn.
Sau đó, Quạ đen từ từ ngã xuống trước mặt tôi, khi cơ thể hắn sắp chạm đất, hắn nói với tôi bằng giọng rất thảm thiết: Đại huynh, sao huynh không ôm đệ? Vì sao...?
Những bông hoa anh đào rất lớn đột nhiên xuất hiện trong không gian bỗng biến thành màu máu đỏ tươi của người trần thế. Tôi nghe thấy mặt đất chấn động, nghe như tiếng sấm trầm trầm vang tới từ tít tận nơi chân trời.
Khi tôi ngẩng đầu lên, những giọt nước mắt lặng lẽ rơi xuống, tôi lại nghe thấy tiếng Thích trên không trung, nó nói, Đại huynh xin huynh hãy tự do...
Phía sau nhà lại thêm hai ngôi mộ mới trên phủ đầy hoa anh đào, Phượng hoàng và Quạ đen nằm sóng đôi trong lòng đất lạnh, không biết khi mùa xuân về, trên những nấm mồ này cỏ xanh có thể mọc lên được không? Tôi chỉ biết rằng, cây hoa anh đào bên cạnh mộ họ khi tới mùa hoa sẽ nở rực rỡ mà thôi.
Thực ra anh đào là loài cây rất tàn nhẫn, rễ của nó càng cắm sâu vào nơi nào có người chết nhiều thì hoa nở càng rực rỡ hơn, rực rỡ như buổi bình minh mặt trời mới mọc vậy.
Nguyệt Thần và Hoàng Thác đứng trong gió, họ tỏ ra rất mệt mỏi nhưng vẫn rất kiên nhẫn, chiếc áo ảo thuật bay phần phật trong gió.
Chỉ có Triều Nhai là tỏ ra rất đau khổ. Hôm Quạ đen chết, Nhai nói với tôi: Thưa Đại vương, có lẽ sau khi giúp làm đệ của Đại vương sống lại, thần sẽ rời xa thế giới nhiễu loạn này! Tôi hỏi vì sao thì Triều Nhai nói:
- Thế giới này quá nhiều sự chết chóc và máu me, rất nhiều vong linh đang ngự trên tầng mây kia ngày đêm ca hát không ngừng, những bài ca màu đen như xuyên vào ngực thần, làm cho thần thấy khó chịu không thể chống đỡ được. Thưa Đại vương, có lẽ thần phải như Điệp Triệt trở lại nơi trần thế, tìm một người đàn ông yêu mình, người ấy sẽ không biết gì về pháp thuật và ca nhạc, nhưng thần chỉ cần nụ cười trong sáng và bộ ngực vạm vỡ của họ, thần sẽ nguyện tử bỏ tất cả để sống đến già cùng người đó. Đại vương, người biết mẫu hậu của thần không? Chính là người chơi đàn trong cung của phụ hoàng của người, thực ra bà đã chết từ lâu, bà đã xuống trần thế và chết ở nơi đầyánh nắng mặt trời, cỏ cây và chim chóc. Khi bà chết, chồng bà ở cạnh bà, nước mắt rơi lã chã, nay chồng bà đầu đã bạc phơ. Đó là giấc mơ cuối cùng trước khi chết mẫu hậu thần dành cho thần, thần luôn đau lòng vì giấc mơ đó.
Thực ra rất nhiều khi thần thấy khó chịu và tự nghĩ rằng, vì sao mình lại là một người bị giam cầm như vậy?
Tôi nói với Triều Nhai, mấy trăm năm về trước, tôi cũng đã từng buồn về chuyện đó, bởi vì tự do của mình mà tôi đã mất Thích.
Triều Nhai quay lại, đám mây lặng lẽ chậm bay qua đầu chúng tôi.
Năm mới đã qua.
Ngày tháng cứ trôi như nước chảy. Có những lúc tôi nằm một mình trên một cành to của cây anh đào, lim dìm cặp mắt nhìn mặt trời ẩm ướt trên cao, cảm giác như đang nằm dưới đáy sông, nhìn những chiếc lá rụng trên mặt nước cứ lặng lẽ trôi, trôi mãi.
Đúng như lời bà nội tôi đã nói, cuối cùng tôi đã trở thành một vị vua cô độc âm thầm chờ đợi cho thời gian trôi qua.
Nhưng Tây phương hộ pháp vẫn chưa xuất hiện, tôi, Nguyệt Thần, Hoàng Thác và Triều Nhai vẫn phải bị trói buộc ở nơi trần thế do pháp thuật của Tây phương hộ pháp biến thành mà chẳng có cách nào di chuyển đi đâu được.
Tôi đã từng dùng ảo thuật ghi chép mọi việc xảy ra ở đây vào một tấm giấy làm bằng da dê rồi dùng con chim chế ngự gió chuyển cho Tình Cựu hỏi xem chúng tôi cần phải làm thế nào.
Nhưng khi chim mang thư của Tinh Cựu về thì trên thư chỉ viết đúng hai chữ: Chờ đợi! Câu trả lời giống hệt như khi tôi hỏi Thương Liệt làm thế nào để gặp được Tây phương hộ pháp vậy.
Thương Liệt đã đi rồi, khi ông ta đi, tuyết ngừng rơi, ông ta đứng trước bốn người chúng tôi rất hiên ngang, cứ như là một con người vĩ đại nhất của cái thế giới trần thế này vậy.
Thương Liệt cười và nói với tôi rằng, thưa Đại vương, cái gì giúp được Người thần đã giúp cả rồi, nhưng thực ra thần lại chẳng giúp gì cho Người cả, Phượng hoàng và Quạ đen đã chết, chỉ còn Tây phương hộ pháp, nhưng thần lại không chống nổi. Xin Đại vương hãy cẩn thận.
Sau đó Thương Liệt tới trước mặt tôi quỳ xuống, khi ông ta ngẩng mặt lên nhìn tôi, nụ cười ấm áp như ánh nắng, ông ta nói, người là vị Đại vương trị vì đế quốc Ảo Tuyết trẻ nhất và vĩ đại nhất mà thần được gặp, nếu sau này có chuyện gì cần đến thần giúp xin hãy thả chim đến gọi thần, kể cả khi thần chết, con cháu của thần cũng không hề do dự trước mặt Người.
Tôi buồn bã gật đầu, nhìn Thương Liệt quay đi, bóng ông ta nhỏ dần rồi khuất hẳn ở đầu con đường, nơi băng tan.
Tôi có thể tưởng tượng ra một Thương Liệt đang hiên ngang đi trên trần thế vô cùng huyên náo. Một người có thể mất đi tất cả nhưng không thể mất đi linh hồn của cuộc đời mình, chính linh hồn làm cho con người trở thành một vị thần bất diệt. Thương Liệt chính là người như vậy.
Tôi quay lại nhìn Nguyệt Thần và Hoàng Thác, nhai người đang đứng với nhau, mái tóc mềm mại phủ lên mặt đất, giống như một bức tranh yên bình nhất, trải qua bao cuộc giết chóc và đấu đá lẫn nhau, linh lực của họ cũng ngày càng mạnh lên, tóc họ đã dài hơn so với tất cả mọi người ở Nhẫn Tuyết, kể cả Tinh Cựu và Tinh Quỹ.
Triều Nhai cúi đầu đứng sau họ, tôi nhìn thấy nước mắt nàng trào ra.
Sau đó tôi nghe thấy một bản nhạc tuyệt mỹ bay vút lên không trung, lên mãi tới trời xanh. Không khí dưới những cánh bướm rập rờn do Triều Nhai tạo ra từ dây đàn bị cuốn lại như những làn sóng trong suốt, tôi nhìn thấy mọi người qua đường ngạc nhiên như gặp được người trời, họ nhìn Triều Nhai, nhìn cô gái đẹp với mái tóc dài trắng muốt mà quên cả nói chuyện. Chỉ có những khúc nhạc bất diệt giống như những linh hồn đang bay trên bầu trời trong xanh, đàn chim chao qua chao lại như đang xé rách những đám mây. Vô vàn những vết thương xuất hiện trên trời rồi dấn dần biến mất.
Ngày thứ ba kể từ sau khi Thương Liệt ra đi, thì thi thể ông ta được phát hiện ở ven con đường đầy bụi ở ngoài cửa thành. Khi chúng tôi tới nơi, tuyết lại rơi, từng bông từng bông phủ kín lấy người ông ta. Thi thể của ông ta đã lạnh cứng, nét mặt bị méo mó rất đáng sợ.
Tôi đứng cạnh thi thể Thương Liệt ngước mắt lên nhìn bầu trời đầy mây màu xám xịt, tôi nghe thấy những âm thanh lạnh lùng buốt xương và còn thấy cả những kẽ nứt của xương, giống như những tia chớp sáng trắng.
Triều Nhai không nói gì, chỉ thấy nước mắt chảy tràn.
Hoàng Thác đang kiểm tra thi thể, Nguyệt Thần đứng cạnh.
Tôi bước tới hỏi Thác vì sao ông ta chết? Thác không trả lời chỉ xé toang miếng áo trước ngực của Thương Liệt, ở đó lộ ra ba lỗ thủng da thịt bị xé rách vô cùng tàn nhẫn. Máu trắng đều đông cả lại. Ánh mắt của Thương Liệt rất mông lung và hoảng hốt nhìn lên bầu trời như quá ngạc nhiên không nói được thành lời. Tôi quay đi không dám nhìn, còn Triều Nhai đã lùi rất xa về phía sau và cúi đầu xuống nôn ọe.
- Thưa Đại vương, Người hãy nhìn tay ông ta - Nguyệt Thần nói.
Khi tôi nhìn vào tay ông ta đột nhiên phát hiện ra một việc rất kỳ quái bởi các ngón tay trái của ông ta vẫn giữ tư thế rất lạ lùng, đó là thế tay mà các nhà ảo thuật dùng trong khi làm ảo thuật.
- Thưa Đại vương, ngài có biết Thương Liệt vốn là một nhà chiêm tinh không?
- Không. Ông ta chưa bao giờ nói điều đó cho ta biết.
Nguyệt Thần nhìn tôi và hỏi lại.
- Vậy vì sao khi ông chết, ông còn xem quẻ? Hay là khi xem quẻ, ông đã phát hiện ra điều gì nên mới bị ám sát mà chết?
Tôi nhìn lên trời mà chẳng làm sao trả lời được câu hỏi này, chỉ thấy bộ mặt của Tây phương hộ pháp đang ẩn hiện trên không trung, nhưng lại không sao nhìn rõ được nó ra sao. Điều duy nhất có thể cảm thấy được là nụ cười khinh bỉ của Tây phương hộ pháp, ánh sáng lạnh lùng toát ra từ đôi mắt ông ta như những mũi dao sắc nhọn đâm vào cơ thể tôi.
Hoa anh đào đang lụi tàn, vầng mặt trời đỏ như máu đang chìm dần nơi chân trời, gió đột nhiên thổi mạnh.
Khách vẫn đến thuê nhà như bình thường, sự huyên náo nơi trần thế vẫn diễn ra không ngừng, mặt trời mọc thì trăng lặn, cây cỏ khô héo đi rồi lại đâm chồi nảy lộc xanh tươi. Những thiếu nữ đẹp nghiêng nước nghiêng thành vẫn đang hát những bài hát du dương trầm bổng, những chàng trai trẻ lưng đeo kiếm cưỡi những con tuấn mã vẫn tung vó trong chốn phong trần trông rất bi tráng, nhưng ai biết được rằng, dưới những tà áo tung bay kia cùng với nhữngthanh kiếm sắc bén đó đã chôn vùi biết bao ánh mắt đợi chờ cùng bao nhiêu
hồi ức. Ai để ý tới những dòng máu chảy trong các cuộc tàn sát và những sự tuyệt vọng trong những tiếng gào thét kia.
Chỉ biết rằng trong rất nhiều đêm, nước mắt tôi cứ ròng ròng chảy.
Tôi luôn thả bộ trong khoảng sân trống trải của một căn nhà nhỏ mà cảm thấy mỗi bước đi đều rất thê lương. Nhiều lần, trên thảm cỏ và khoảng sân rộng tràn ngập tiếng cười của mọi người, bầu không khí vui vẻ bao trùm suốt ngày đêm đã khiến tôi thấy lòng ấm áp lạ lùng. Nhưng bây giờ, người đã ra đi, lầu vắng không, chỉ còn những cây trúc đứng uy nghi trong gió tuyết vẫn xanh rởn, hoa anh đào vẫn nở rộ rồi phai tàn rụng xuống, nhưng chẳng có ai đi bên tôi và gọi tôi bằng Đại vương , những con người như làn gió xuân làm tan đi băng giá như Tinh Quỹ, Liêu Tiễn, Phiến Phong, Trâm, Nha Chiếu, Đông Nhiếp, Ngư Phá, Y Trao, Thương Liệt, thậm chí cả Phượng hoàng và Qua đen đều không còn. Chỉ còn đọng lại trong tôi những khuôn mặt mờ ảo, giống như lớp sương mù cuối năm không tan nổi, rất mơ hồ như ở kiếp trước.
Hoa anh đào trong vườn lại đâm chồi non, những mầm xanh chứa chan hy vọng. Triều Nhai vẫn ngồi gảy đàn dưới gốc cây to mà chẳng cần phải dùng tới chút linh lực ảo thuật nào mà những khúc nhạc vẫn vô cùng tinh tế. Khách trọ luôn kinh ngạc bởi tiếng đàn và khuôn mặt của nàng. Triều Nhai vẫn như ngày nào khi còn ở trong thành Nhẫn Tuyết, hai mắt nhắm lại, quên đi tất cả sự ồn ào xung quanh mình. Sau khi trải qua cuộc chiến đấu với Điệp Triệt và Quạ đen, Phượng hoàng, Triều Nhai đã trở thành một pháp sư giỏi nhất, tóc của nàng vừa dài vừa trắng muốt như tóc Hoàng Thác và Nguyệt Thần, nhưng sự lo âu trong mắt nàng luôn làm cho tôi khó nghĩ. Triều Nhai luôn ngồi dưới tán lá của những cây to, ôm cây đàn trong ánh sáng trong trẻo của mùa xuân mà nước mắt cứ rơi hoài, ãi tới khi mặt trời lặn, ánh hoàng hôn nhập nhoạng mới trở về phòng mình.
Tôi đang từ đằng xa nhìn bóng dáng nàng mà lòng đau xót. Tôi ngẩng đầu nhìn vầng mặt trời đang lặn giật mình phát hiện ra rằng mình đã ở nơi trần thế này được mấy tháng rồi.
Tôi bước tới chỗ Triều Nhai, nhưng vừa đi được hai bước đã dừng lại vì thấy Nguyệt Thần xuất hiện ngay sau lưng Triều Nhai, nàng mặc một chiếc áo dài đen trên có vẽ những ngôi sao màu xanh. Tôi biết đó là chiếc áo ảo thuật của nàng, ánh sáng của những ngôi sao trên đó thực ra đều là linh lực tản mát của nàng, có thể giúp cho chủ nhân tăng thêm linh lực ảo thuật.
Nguyệt Thần đứng sau Triều Nhai nói: Hãy đứng yên.
Triều Nhai quay đầu lại bình thản như không. Nàng nhìn Nguyệt Thần mà chẳng nói gì.
- Triều Nhai, giấc mơ giết chết Nha Chiếu quả là một thuật ám sát rất lợi hại phải không? Nguyệt Thần nói.
- Đúng! Linh lực của kẻ tạo ra nó mạnh hơn tôi - Triều Nhai cúi đầu nói.
- Vậy năng lực của ta và nàng ai cao hơn?
- Không biết. Có lẽ ngang nhau thôi.
- Vậy nàng hãy nói cho ta biết, vì sao ta dễ dàng phá được giấc mơ đó?
Nghe đến đây, tôi đã biết Nguyệt Thần muốn làm gì rồi.
Triều Nhai quay đầu lại, ánh nắng chiếu lên tóc nàng trông như một dòng suối trong vắt. Nhưng gió xung quanh nàng bỗng cuộn lên như những con sóng nhỏ trong suốt lan tỏa trong không gian.
Nguyệt Thần vẫn lạnh lùng đứng trước mặt nàng, nhưng trên tay nàng loang loáng sáng, ánh sáng sắc như băng.
Rồi Triều Nhai ngồi xuống bình tĩnh gảy đàn, tiếng đàn du dương uyển chuyển, vô số những con chim quần tụ lại bay lượn trên đầu nàng, tôi cảm thấy không khí xung quanh như rung chuyển lên từng đợt. Tiếng của Triều Nhai mơ hồ như vọng lại từ một nơi rất xa, nàng nói rằng hóa ra là Nguyệt Thần luôn nghi ngờ nàng.
Nguyệt Thần nói bởi chính nàng đáng để nghi ngờ.
Nụ cười của Triều Nhai giống như đóa hoa sen vừa nở, chỉ một lát đã lan tỏa như sương mù khắp nơi, những con bướm trắng ào tới như những bông hoa tuyết bay rợp trời, còn Nguyệt Thần cũng bắt đầu chuyển động, thứ ánh sáng phát ra trên người nàng như những ánh chớp lúc ẩn lúc hiện trong đám bướm màu trắng của Triều Nhai, những con bướm chết rơi lả tả xuống mặt tuyết lạnh rồi tan lẫn trong tuyết trắng. Khi ánh chớp cuối cùng như xé rách bầu trời giáng xuống thì tất cả đều ngừng lại, sau đó tôi nghe thấy âm thanh của những dây đàn vô âm của Triều Nhai đứt ra từng sợi từng sợi một vô số những tia sáng sắc nhọn của ánh trăng tử trong người Triều Nhai ào ạt xuyên ra ngoài, cuối cùng
Triều Nhai đổ vật xuống trước mặt Nguyệt Thần, ánh mắt của nàng mờ dần đi.
Nước mắt tôi bỗng trào ra nhưng cổ họng như tắc nghẽn lại, chẳng nói được thành lời.
Khi Nguyệt Thần quay lại thì nhìn thấy tôi, nàng thoáng tỏ ra lúng túng, sau đó bộ mặt nàng trở lại rất lạnh lùng và nói, thưa Đại vương, Người cũng ở đây ư?
Tôi trả lời đúng vậy rồi chẳng nói được câu nào nữa.
- Thưa Đại vương, nếu tôi đoán không nhầm thì Triều Nhai chính là Tây phương hộ pháp. Nguyệt Thần nói.
- Nếu đoán sai thì sao? Tôi nói giọng yếu ớt.
- Thế giới này vốn luôn tồn tại sai và đúng, một số sai lầm là không thể tránh khỏi. Nếu Người muốn một số việc thành công thì phải hy sinh một số việc khác, có đúng vậy không, thưa Đại vương?
Tôi quay người bỏ đi, chẳng nói gì. Chỉ khi trở về phòng ở, tôi nói với Nguyệt Thần vẫn đang đứng trong sân ở phía sau: Vậy ngươi cảm thấy ngươi có thể dễ dàng giết chết cô ta không?
Nơi trần thế bấy giờ vẫn đang là kỳ giao mùa, thỉnh thoảng vẫn có tuyết rơi, tôi bất giác nhớ lại mùa đông ở thành Nhẫn Tuyết - một mùa đông tuyết rơi trong mười năm liền.
Tôi đứng bên cửa sổ, ánh trăng như nước chảy tràn cây lá và mặt đất, gió thổi làm bóng cây đung đưa như những thế tay của ảo thuật trông rất kỳ lạ, tiếng kêu thảm thiết của Quạ đen vang vọng trong đầu tôi nghe thật sợ hãi.
Tôi đưa tay ra trước ánh trăng, động đậy ngón tay bên trái, sau đó khuôn mặt tiểu đệ của tôi hiện ra trong không trung cùng tiếng gọi Đại huynh của nó. Khuôn mặt đệ luôn thay đổi, có lúc cười rạng rỡ như ánh mặt trời, có lúc lại lạnh lùng như băng giá và có cả nỗi tuyệt vọng khi phải chết. Nhưng tất cả chỉ là ảo giác, mấy trăm năm nay, phải dựa vào pháp thuật để nhớ lại những hình ảnh đó để chống đỡ ình những khi cô đơn, giúp ình nhớ lại những năm tháng tuổi trẻ trôi qua như vó câu qua cầu. Còn bây giờ, có ai đáng để tôi hoàn toàn tin tưởng như Thích nữa đây? Ai có thể vì nụ cười của tôi mà vui
sướng trong suốt mấy trăm năm?
Thích ơi, đệ có biết không, chỉ cần đệ gọi một tiếng đại huynh đã đủ để nước mắt ta giàn giụa rồi.
Nhà khách vẫn người đến kẻ đi bình thường, nhưng chỉ còn có hai người là Nguyệt Thần và Hoàng Thác còn cùng ăn cơm với tôi.
Khi chúng tôi bắt đầu ăn cơm, Nguyệt Thần đột nhiên dùng tay ngăn tôi lại và nói, xin chớ động vào thức ăn này.
- Vì sao vậy?
- Bởi chúng có độc - Nguyệt Thần nói rồi lạnh lùng nhìn Hoàng Thác - Chẳng phải toàn bộ thức ăn của chúng ta đều do Thác chịu trách nhiệm ư? Làm sao lại có thể có độc?
Thác không ngẩng đầu lên, chỉ nói rất lạnh nhạt:
- Nguyệt Thần, ngươi nghi ngờ ta ư?
- Đúng vậy!
Sau đó ánh trăng từ tay Nguyệt Thần như một lưỡi dao sắc nhọn kề vào yết hầu của Thác, tôi vội ra tay biến thành lưỡi dao băng chặt đứt tia sáng của Nguyệt Thần và nói, Nguyệt Thần, đủ rồi, không cần phải nghi ngờ lẫn nhau nữa.
Nguyệt Thần lao tới trước Thác và nói: Không thể được!
Dưới chiêu thức ảo thuật của Nguyệt Thần, Hoàng Thác càng ngày càng khó di động. Tôi chạy tới dùng gió tuyết làm đông cứng luồng ánh sáng của Nguyệt Thần, trong chớp mắt, Nguyệt Thần đột nhiên kinh ngạc nhìn tôi, hình như không tin là tôi ra tay với nàng, và đó cũng là biểu hiện cuối cùng của nàng mà tôi nhìn thấy. Hoàng Thác đột nhiên dùng tay đánh mạnh vào cổ họng của Nguyệt Thần. Tôi quay lại và nhìn thấy nụ cười kỳ lạ của Hoàng Thác.
Nguyệt Thần đổ vật ra đất, tôi nhìn thấy nỗi ai oán trong ánh mắt nàng, nỗi ai oán chuyển dần thành buồn đau, những giọt nước mắt trào ra bên khóe mắt của nàng.
Nguyệt Thần và Triều Nhai được mai táng phía sau nhà khách cùng chỗ với Liêu Tiễn và Phiến Phong. Phần mộ của Nguyệt Thần và Triều Nhai vẫn là những nắm đất đen, còn mộ của Phiến Phong và Liêu Tiễn cỏ đã non xanh, biểu hiện cái chết và sự sống đan xen vào nhau. Gió lạnh trùm lên những ngôi mộ, tôi và Hoàng Thác đứng trước những ngôi mộ mà chẳng nói gì, gió gào thét, áo của chúng tôi phần phật bay.
- Hoàng Thác, vì sao lại giết Nguyệt Thần? - Tôi hỏi.
- Bởi Nguyệt Thần muốn giết tôi. Thác đáp.
- Nhưng ngươi không thấy ta đã ra tay rồi ư? Cô ta sẽ không có cơ hội giết ngươi.
Thác chẳng nói gì, chỉ có nụ cười bí ẩn đọng lại trên khuôn mặt.
- Thưa Đại vương, chúng ta chia tay ở đây thôi! - Thác nói.
- Chia tay? Ngươi muốn nói...
- Tôi muốn nói hãy trở về thành Nhẫn Tuyết, mặc dù tôi biết Người cảm thấy thành đó như một thứ đồ chơi, nhưng nơi đó người thuộc bộ tộc đang chờ, tôi chính là thần của họ.
- Ngươi nói là ngươi sẽ vất bỏ cuộc hành trình sắp tới sao?
- Thưa Đại vương, ngài cảm thấy còn có cuộc hành trình đó ư? Đó là một con đường không có đoạn cuối, vả lại tôi cũng quá mệt rồi tôi phải đi đây!
Khi Hoàng Thác bước đi, đột nhiên tôi nói:
- Hoàng Thác, ngươi mới đúng là Tây phương hộ pháp phải không?
Hoàng Thác không quay đầu lại nói rằng: Hỡi Ca Sách, không cần phải hỏi chuyện này nữa, ngươi cảm thấy vẫn còn có hy vọng qua lãnh địa của Tây phương hộ pháp ư? Ngay cả Tây phương hộ pháp cũng không qua nổi, vậy ngươi làm sao mà thắng nổi được Uyên Tế đây.
Khi Hoàng Thác sắp biến mất trong đám sương mù thì tôi chạy lên trước mặt ngăn ông ta lại, thanh kiếm của tôi chĩa thẳng vào yết hầu ông ta và nói:
Nếu ngươi là Tây phương hộ pháp, ta quyết không thế để cho ngươi đi được.
Hoàng Thác nhìn tôi vẻ hoảng hốt rồi nói: Nhưng tôi nói tôi không phải thì ngài có tin không? Cuối cùng thì Hoàng Thác vẫn chết dưới lưỡi kiếm của tôi, máu của ông ta đã chảy tràn xuống đất. Tôi nghe như có tiếng nói mơ hồ trong cổ họng ông ta Đại vương, Người không bị ràng buộc nữa rồi, hãy tự do bay đi...
Nơi Hoàng Thác bị tôi giết chính là nơi tận cùng của trần thế do Tây phương hộ pháp dùng ảo thuật tạo nên, đó là một ruộng lúa mạch rất rộng, vàng chói như ánh nắng mặt trời, gió đuổi nhau tới tận cùng trần gian. Nơi đó, tuyết lặng lẽ rơi và tôi biết rằng, đâu đấy tôi sẽ trở về thành Nhẫn Tuyết, trở về với cuộc sống thầm lặng có thể nghe tiếng nứt vỡ của thời gian kéo dài vài trăm hoặc vài ngàn năm nữa.
Hoàng Thác ngã trên ruộng mạch, khuôn mặt còn đọng lại nụ cười đau khổ như bộ mặt của Nguyệt Thần lúc chết, mái tóc của ông ta lấp lánh màu trắng thủy ngân trải dài theo sóng lúa vàng nhấp nhô, tấm áo dài dính máu với đất đen trông giống như con cò đã chết giang đôi cánh màu đen.
Tôi ngước nhìn trời xanh, đàn chim trên đầu tôi đang hạ dần độ cao, chúng bay vòng quanh ruộng lúa mạch như luyến tiếc không muốn rời, cũng như tôi, một vị Đại vương trẻ tuyệt vọng vì mình đã mất phương hướng.
Tôi chưa hề nghĩ rằng có lúc tôi lại bị cô độc như vậy, tôi nghĩ tới những người bên cạnh mình, họ đã lần lượt ra đi, đôi con ngươi trắng và những tà áo dài bay bay trong gió biến mất dần trong tử khí. Một lần nữa, tôi lại nghe thấytiếng hát của những vong linh tất cả những người đã chết đều đứng trên trời cao, họ nhìn tôi xuyên qua những đám mây, khi tôi ngẩng đầu lên, lòng tôi đau như dao cắt.
Tôi chưa biết cuối cùng thì Tây phương hộ pháp là ai, nó giống như một giấc mộng làm ta không sao thoát ra được, nhưng cũng không sao nhìn rõ.
Thậm chí tôi không biết Nguyệt Thần, Hoàng Thác và cả Triều Nhai, Phiến Phong và Liêu Tiễn nữa, phải chăng họ đã chết bởi sự bất tài và không tin tưởng của tôi, có lẽ Tây phương hộ pháp thật đang đứng phía sau cười nhạo tôi, cái cười như bông hoa sen trong màn sương vậy.
Tôi từ biệt người hầu của nhà khách và nghĩ rằng, cho dù chỉ còn một mình, tôi vẫn đi tiếp.
Người hầu tiễn tôi mà chẳng nói gì, anh ta chỉ là một người trần thế rất đơn thuần giống như biết bao con dân của tôi, chỉ có điều, anh ta không biết tôi là vị thần vĩ đại tối cao của họ mà thôi.
Khi đi được một đoạn xa, tôi quay nhìn khu nhà đó đang nhỏ dần, tòa nhà với tường trắng, ngói xanh và những hàng liễu rủ. Hoa lê đã bắt đầu nở, những chấm hoa li ti như những bông tuyết mềm mại tràn ngập không trung.
Tôi đi tiếp và không nhìn lại nữa vì nước mắt đã bắt đầu rơi.
Những hình ảnh đã qua bỗng dồn dập đổ về, tôi nhìn thấy Liêu Tiễn đứng trước phụ vương của ông ta và nói Phụ vương, con sẽ thành một Đông phương hộ pháp giỏi nhất . Tôi nhìn thấy dáng Nguyệt Thần lặng lùng và kiên cường, thỉnh thoảng nở những nụ cười như một làn gió xuân ấm áp. Tôi nhìn thấy bóng dáng Tinh Quỹ gầy gò bé nhỏ ngã trong vũng máu, nghe tiếng nàng nói với tôi hãy đi tìm hạnh phúc của chính mình; Tôi nhìn thấy Phiến Phong vui vẻ điều khiển làn gió; nhìn thấy đàn bướm trắng đang bay quanh khi Triều Nhai gảy đàn; nhìn thấy Hoàng Thác đang lập ra vòng bảo vệ cho tôi; nhìn
thấy cái chết thê thảm cuối cùng của Thương Liệt...
Tôi bỗng cảm thấy trong ngực mình có vật gì đang dần tan vỡ thành những mảnh nhỏ sắc nhọn...
Tôi đã rời xa nơi thành thị phồn hoa, xung quanh đã không còn người trần thế. Tôi nằm trên bãi cỏ rộng mênh mông, sưởi ánh nắng dịu dàng phủ kín.
Không khí xung quanh tràn ngập hương thơm của mùa xuân nơi trần thế.
Khi tôi ngồi dậy suy nghĩ mình cần phải làm gì, đột nhiên nhìn thấy ở nơi xa nhất của bãi cỏ - tựa như ở đường chân trời vậy - một cơn gió lốc trong suốt xuất hiện. Tôi khẳng định rằng một người có linh lực siêu việt sẽ xuất hiện, tôi cảm thấy mặt đất chấn động, cuối cùng tuyết ào ào rơi xuống. Giống như khi Lê Lạc xuất hiện, ký ức của tôi bắt đầu nhẹ lay giống như hình ảnh đảo ngược.
Sau khi tuyết rơi hết, bỗng xuất hiện một cảnh tượng thật khó tin.
Tinh Quỹ đứng sừng sững cao tít trên không trung, gió ào ào thổi qua dưới chân, tóc và áo nàng bay lên như những dải lụa.
Tinh Quỹ hạ xuống mặt đất rồi từ từ bước lại phía tôi, hình dáng và nụ cười mờ ảo của nàng giống như một thứ ảo giác vậy.
Nàng bước tới trước mặt tôi, ngẩng mặt lên rồi hỏi: Đại vương, Người vẫn khỏe chứ? rồi nàng nở nụ cười.
Tôi cảm thấy sức mạnh của mình bỗng nhiên biến mất, ngay cả đứng lên cũng không được. Tôi hỏi:
- Tinh Quỹ, chẳng phải nàng đã chết ở vùng của Bắc phương hộ pháp rồi sao?
Tiếng của Tinh Quỹ ở quanh tôi, nhưng tôi không thấy môi nàng động đậy, trên mặt nàng chỉ thấy một nụ cười kỳ lạ. Nàng nói:
- Người cho rằng ta bị linh lực của Tinh Trú giết chết rồi ư?
- Vậy thì nàng...
- Ta chính là Tây phương hộ pháp mà bấy lâu ngươi tìm kiếm: Tinh Quỹ.
Tôi chẳng nói được gì, chỉ nhìn thấy nụ cười của nàng càng ngày càng trở nên kỳ dị và mơ hồ hơn. Sao Tinh Quỹ lại có thể là Tây phương hộ pháp? Câu hỏi đó cứ luôn xuất hiện trong đầu tôi như một câu thẩm vấn từ trên trời rơi xuống.
- Thưa Đại vương thân yêu của thần, chẳng phải thần đã cho Người giấc mơ cuối cùng là gì? Bảo Người khi gặp Tây phương hộ pháp hãy mở ra, Người quên rồi sao?
Nụ cười của Tinh Quỹ như bùa mê.
Trong giấc mơ của Tinh Quỹ, hình dáng của nàng xuất hiện giống hệt như đang trước mặt tôi, nụ cười rất mơ hồ, tiếng nói rất kỳ lạ. Nàng nói với tôi, thật ra tất cả chỉ là trò chơi của nàng mà thôi. Nàng nói:
- Thưa Đại vương, Đại vương là người mà đại huynh của thần tin tưởng nhất nên thần biết Người thật không đơn giản chút nào, do vậy thần đã mang hết sức lực giúp Người chiến thắng ba hộ pháp trước bởi nếu Người chết trong tay họ thì quả là chẳng ra gì, bọn họ không địch nổi một ngón tay của thần.
Thần muốn Người cùng chơi một trò chơi, trò chơi của một kẻ giết người và một người bị giết, Người đáng là đối thủ của thần, chỉ có điều cuộc đời thần quá nhạt nhẽo, nên thần làm sao mà bỏ qua một việc đầy kịch tính như thế này. Thần muốn xem Người có thể tìm ra một Tây Phương hộ pháp thực sự hay không? Đáng tiếc là đại huynh của thần rất tin Người, suy nghĩ của Người giảnđơn hơn thần nghĩ nhiều. Thưa Đại vương, thần để cho những người bên cạnh Người lần lượt chết đi, đó chính là một cuộc truy đuổi và tàn sát vĩ đại, đến cuối cùng, nếu tất cả những người bên cạnh Người chết hết, lúc đó thần mới
xuất hiện và nói cho Người biết, thần đây mới thực sự là Tây phương hộ pháp, chỉ bởi Người không thể làm gì được thần, xét về linh lực thì Người không thể bằng thần, mặc dù Người đã được em trai có linh lực tuyệt vời cho kế thừa cả linh lực và ảo thuật, nhưng Người vẫn không phải là đối thủ của thần.
Thưa Đại vương, đường đi của ngôi sao đã được ta sắp đặt, xin Người hãy theo ta chơi nốt trò chơi hay nhất này...
Khi tôi cố gắng tỉnh lại qua giấc mơ của Tinh Quỹ, nụ cười của nàng vẫn xuất hiện trước mắt tôi, chỉ có điều cảnh vật xung quanh đã rõ dần, tôi nhìn thấy thảm cỏ xanh và ánh sáng mặt trời, nhưng lòng lại tái tê lạnh giá.
Tinh Quỹ ở trước mặt tôi, trên tay nàng đột nhiên xuất hiện thứ vũ khí tôi chưa từng thấy bao giờ, có một thứ hình như là vô số các dây gấm màu đen lấp lánh đang quấn quanh những ngón tay, nhưng lại giống như một làn gió hữu hình quấn lấy. Không khí xung quanh đông đặc đến nghẹt thở, tôi nghe thấy tiếng nói của Tinh Quỹ vang vọng phía trên đỉnh đầu mình, nàng nói: Ca Sách, nay Người cô đơn một mình, Người làm sao mà đến được với thần?
Đột nhiên tôi thấy quá mệt mỏi, tôi chậm rãi và nhỏ nhẹ nói với nàng:
Thế ư? Vậy nàng hãy quay đầu lại xem .
Bởi vì tôi đã thấy Triều Nhai, Hoàng Thác và Nguyệt Thần xuất hiện phía sau Tinh Quỹ. Áo dài của họ bay lên như những đám mây huyền ảo. Họ là những người mà tôi tin nhất.
Thần sắc của Tinh Quỹ vẫn nguyên như thế, chỉ khi nàng nhìn tôi mới thấy mắt có thêm tia sáng. Nàng nói: Hóa ra là họ chưa chết!
Tôi nói:
- Đúng vậy, họ đều không chết. Ta thà chết chứ không để họ chết bởi họ là những người ưu tú nhất của Nhẫn Tuyết; ngoài ra còn có cả Phiến Phong và hai người Thương Liệt và Liêu Tiễn đã chết trong tay ngươi, họ đều là những người ưu tú nhất.
- Ngay cả Liêu Tiễn bị thần giết mà Người cũng biết ư? Phải chăng từ lúc ấy Người đã nghi ngờ thần?
- Không! Lúc đó ta không nghĩ là ngươi.
- Vậy làm sao Người biết thần là Tây phương hộ pháp?
- Ta biết được từ rất nhiều chuyện, trước tiên là cái chết của Liêu Tiễn. Bởi ta phát hiện ra một cây kim độc trên đầu, nên ta đã bị hút vào vòng do ngươisắp đặt, cho rằng Tiễn bị người khác sát hại bằng cây kim độc, thực sự không phải như vậy. Về sau Hoàng Thác còn phát hiện trên người Liêu Tiễn, đúng ra là một loại thuốc độc ngưng kết ở đỉnh đầu, đó là một chất độc mạn tính của loài hoa Thương yêu chuyển hóa thành, điều đó có nghĩa là trước khi vào đất của Tây phương hộ pháp thì Liêu Tiễn đã bị trúng độc rồi. Lúc đó, Tiễn suốt ngày bế ngươi, vậy ngươi chính là kẻ gần gũi nhất và dễ hạ độc Tiễn nhất.
- Đúng. Liêu Tiễn là do thần giết và đúng là thần dùng độc dược Thương yêu. Nhưng sau đó thì sao? Chẳng lẽ lại từ chuyện đó lại có thể đoán thần là Tây phương hộ pháp một cách đơn giản như vậy ư?
- Không. Sau cái chết của Tiễn là đến cái chết của ngươi!
- Cái chết của thần ư?
- Đúng. Ta phải thừa nhận rằng, việc tạo ra cái chết của ngươi là một thủ đoạn tinh vi và lợi hại nhất, chẳng ai lại đi nghi ngờ một người đã chết rồi.
Cũng bởi vòng bảo vệ mà Hoàng Thác tạo ra bao quanh ngươi là một vòng bảo vệ tốt nhất làm bằng chính sinh mệnh của Thác. Nói cách khác, nếu Thác không chết thì những người trong vòng bảo vệ đó cũng không chết; còn như vòng bảo vệ bị công phá, người chết đầu tiên phải là Hoàng Thác. Nhưng nhà ngươi vẫn chết. Lúc đầu ta cho rằng do ngươi sức quá yếu cộng với sự tương khắc kỳ diệu giữa những nhà chiêm tinh mà làm cho ngươi chết nên chỉ thấy buồn bã mà thôi. Buồn vì nhà ngươi đã chết. Nhưng trong bức thư mà đại huynh của ngươi gửi cho ta đã nói, ông ta dự đoán rằng ngươi phải một mình đi vào thế giới mới lạ và nói đừng để cho ngươi đi một mình. Lúc đó, ta nghĩ
Tinh Cựu bói quẻ rằng ngươi sẽ chết, nhưng sau đó mới biết rằng, ngươi đã đi về vùng Tây phương của ngươi và chờ ta vào đó. Chính vì ngươi sợ đại huynh của ngươi nói cho ta biết việc ngươi chưa chết nên ngươi bảo ta đừng báo tin ngươi chết cho ông ấy.
Ánh mắt của Tinh Quỹ ngày càng trở nên lạnh lùng, Quỹ bảo tôi hãy nói tiếp. Tôi nói:
- Sau đó là chuyện của Tinh Trú Bắc phương hộ pháp. Thực ra giết Tinh Trú là chuyện rất dễ dàng đối với ngươi, lúc cô ta chết, cô ta đang định nói Tây phương hộ pháp là ai, bởi cô ta thấy chuyện ngươi ở với chúng ta đúng là chuyện đáng buồn cười, nhưng ngươi đã không cho cô ta có cơ hội nói ra, ngươi đã dùng pháp thuật để giết cô ta một lần nữa. Nhưng, lúc đó ta lại cho rằng nhà ngươi chỉ dùng Huyền băng chú, có điều ta cảm thấy rất kỳ quái là ngươi vốn là một nhà chiêm tinh sao lại biết dùng pháp thuật đen uyên thâm
và phức tạp như vậy, bởi chỉ có những nhà ảo thuật giỏi nhất và những pháp sư chuyên ám sát mới biết thử đó.
Sau đó, ta đi vào vùng Tây phương của ngươi, rồi ngươi và Phượng hoàng cùng Quạ đen tạo ra một loạt cái chết khác, để chúng ta không còn thời gian suy nghĩ tới những việc trước kia của ngươi. Chỉ tới khi Nha Chiếu chết, ta lại bắt đầu nghi ngờ ngươi.
- Vì sao vậy?
- Bởi Nguyệt Thần nghi ngờ Triều Nhai, mà hai người vốn có đủ sức để phá tan giấc mơ đó, có điều kỳ lạ là, năng lực giải tỏa giấc mơ của Triều Nhai mạnh hơn của Nguyệt Thần nhưng lại không phá nổi giấc mơ đó, rõ ràng còn có một người có sức mạnh hơn hẳn ở quanh đấy, mà ngươi chính là một nhà chiêm tinh giỏi nhất. Ngươi đã dùng Triều Nhai để chúng ta chuyển nghi ngờ sang cô ấy, nhưng ngươi quên mất một điểm rằng, không thể có hai Tây phương hộ pháp được. Nếu Triều Nhai giả bị thương thì vì sao Hoàng Thác lại
phải giúp cô ta giấu giếm đi? Cho nên, ta nói với Nguyệt Thần rằng, Triều Nhai và Hoàng Thác đều không phải là Tây phương hộ pháp.
- Cho nên các người giả chết để dụ thần ra ư?
- Chưa phải. Lúc đó mới chỉ nghi ngờ mà thôi, người thực sự làm cho ta quyết tâm dụ ngươi ra chính là Thương Liệt.
- Thương Liệt? Các ngươi làm sao biết ta giết Thương Liệt?
- Bởi thế tay của ông ta. khi chết, thế tay của ông ta chính là thế tay mà các nhà chiêm tinh thường dùng khi chiêm tinh. Lúc đầu, ta cho rằng Thương Liệt là nhà chiêm tinh, nhưng Triều Nhai nói rằng, ở ông ta không hề tồn tại linh lực chiêm tinh và giải mộng, do đó ta biết Thương Liệt muốn bảo ta kẻ giết ông ta chính là một nhà chiêm tinh, hơn nữa, lại là người có phép thuật tuyệt đỉnh, bởi người bình thường không thể có đủ sức mạnh giết chết Thương Liệt được.
- Vì vậy các Người giả tàn sát lẫn nhau để dụ ta ra ư?
- Đúng vậy. Nhưng đây là việc rất mạo hiểm; ta biết rằng, chỉ cần ngươi hành động một lần đối với chúng ta, hẳn ngươi sẽ biết ngay là chúng ta đang đóng kịch. Nhưng ta tin ngươi là kẻ quá ư kiêu ngạo và tự phụ, luôn đánh giá thấp ta. Hơn nữa đây là hành động theo dự tính của ngươi, do vậy, ngươi không hề nghĩ tới những bí mật trong đó cho nên nhà ngươi không đoán ra hành động của ta.
Hoàng Thác đứng đằng sau Tinh Quỹ lên tiếng:
- Ta, Nguyệt Thần và Triều Nhai thực ra luôn bên cạnh Đại vương và luôn chờ sự xuất hiện của nhà ngươi. Bởi chúng ta biết rằng, ngươi là kẻ kiêu ngạo, ngươi xưa nay chẳng coi ai ra gì, nhất định ngươi sẽ xuất hiện trước một Đạivương đơn độc, bởi ngươi cho rằng, Đại vương không phải là đối thủ của ngươi, nên nhất định sẽ xuất hiện trước mặt Đại vương để nhìn khuôn mặt kinh ngạc của người, chỉ đáng tiếc là Đại vương không phải loại bất tài như ngươi nghĩ.
Tinh Quỹ nhìn tôi với nụ cười tự tin và khinh miệt, rồi nói:
- Ca Sách, ngươi có tin là ta không cần động tay cũng có thể giết chết ngươi ngay tại đây không?
Tôi nhìn Tinh Quỹ mà không trả lời. Tinh Quỹ nói tiếp:
- Ta biết Người không tin. Người còn nhớ người bà yêu quý của Người không? Khi bà truyền hết linh lực cho Người, bà cầm chặt lấy tay Người phải không? Người có còn nhớ da của bà ta thô ráp như kim châm khiến người đau đớn không? Lẽ nào đại vương không bao giờ nghi ngờ bà ta dùng kim châm người ư? - Có tiếng Tinh Quỹ cười lớn.
Ký ức của tôi bỗng sống lại, lòng bỗng trống trải và hụt hẫng.
Sau đó, Tinh Quỹ đột ngột ra tay với tôi, những dải lụa như những ánh chớp đâm vào người tôi, nhưng tôi đều tránh được hết.
Tinh Quỹ nhìn tôi căm giận rồi nói:
- Vì sao nghe những chuyện đó, Đại vương không thấy hoảng loạn?
- Bởi ta tin vào nhân tính, vì ta tin rằng trong thế giới này vẫn còn có những thứ đáng để ta tin tưởng, ví dụ như tình yêu của bà đối với ta, ta không có lý do gì để nghi ngờ cả.
Tinh Quỹ không nói gì, chỉ thấy tà áo bay quanh người nàng. Rất lâu sau, nàng mới nói:
- Đại vương, xem ra đại huynh ta không nhìn lầm người, ngươi là một vị Đại vương tài giỏi, nhưng ta bảo đảm rằng, nếu các ngươi cùng ra tay với ta, tuy ta có thể không thắng nổi các ngươi, nhưng ta có thể khẳng định rằng, năng lực của ta đủ để làm máu của các ngươi chảy tràn ra đất trước khi ta chết.
Những dải lụa trong tay Tinh Quỹ bỗng bung ra nhanh như chớp tách riêng tôi và Hoàng Thác ra. Khi tôi tránh những dải lụa đó thì nhìn thấy Nguyệt Thần, Triều Nhai và Hoàng Thác đều đã bị những dải lụa đen tách riêng ra, mỗi người phải tự mình bảo vệ mình. Tinh Quỹ ở giữa chúng tôi, nàng đứng từ trên cao nhìn xuống, nở một nụ cười kỳ lạ tỏa sáng chung quanh.
Nàng nói: cao trào của trò chơi đã tới, xin mời Đại vương - đối thủ xứng đáng của ta - hãy tiếp tục...
Ánh trăng của Nguyệt Thần đã bị những dải lụa quấn chặt và mỗi lúc một nhạt hơn trong cái màu đen dày đặc của đêm tối. Tôi nghe thấy Nguyệt Thầnthở gấp gáp, áo và tóc của nàng bay tung lên cùng với cả người cô. Dây đàn long lanh sáng của Triều Nhai và dải lụa đen của Tinh Quỹ cuốn lấy nhau, mỗi lúc một chặt hơn, như hai con rồng một đen một trắng đang tàn sát cắn xé lẫn nhau, vô số những con bướm trắng vỡ vụn từ trên cao rơi xuống như những bông hoa tuyết. Hoàng Thác cũng lập ra vòng bảo vệ ỗi người; những dải lụa đen của Tinh Quỹ đập choang choang vào vách vòng bảo vệ trong suốt và phát ra những tia chớp sáng lòa.
Tôi đã gọi ra mấy chục thanh kiếm băng treo lơ lửng xung quanh Tinh Quỹ, nhưng không thoát được sự ràng buộc của những dải lụa đen kia, thậm chí có thanh đã bị những dải lụa đó thít chặt lại làm cho vỡ vụn ra.
Nhưng đột nhiên tất cả đều yên ắng trở lại, đàn bướm của Triều Nhai lại bay lên vì phía trên đã không còn bóng đen, ánh trăng của Nguyệt Thần cũng tỏa sáng ra bốn phía, bởi Tinh Quỹ đã đột ngột thu lại những dải lụa.
Tôi nhìn thấy nụ cười đau khổ trên môi Tinh Quỹ, cô ta nhìn tôi, gọi: Đại huynh!
Tôi quay lại nhìn thấy Tinh Cựu ở sau lưng, khí thế rất hiên ngang, chiếc áo dài chiêm tinh không vương một hạt bụi, mặt vẫn luôn tỏ ra cao ngạo và nghiêm khắc. Tóc ông ta bay tung, từng sợi từng sợi xõa ra trong gió.
Tinh Quỹ nhìn Tinh Cựu nói nhỏ: Huynh, sao huynh lại tới đây? . Lúc ấy, trông Tinh Quỹ giống hệt một đứa trẻ ngoan ngoãn lễ phép, chẳng khác gì một đứa bé gái ốm yếu lúc mới rời thành Ảo Tuyết.
- Muội chẳng cần lo ta tới đây như thế nào, hãy nói cho ta biết, muội đúng là Tây phương hộ pháp ư? - Tinh Cựu nói.
Tinh Quỹ chẳng nót gì, tôi nhìn thấy mắt nàng lóe sáng. Nàng cúi đầu nói:
- Thưa huynh, nếu đúng vậy thì huynh có tha thứ uội không?
- Không.
- Vì sao?
- Ta nói với muội, Ca Sách là một vị Đại vương mà ta kính trọng nhất. Bất cứ ai muốn sát hại Ca Sách ta đều không thể tha thứ. Hơn nữa, muội đã giết bao nhiêu người rồi, chẳng lẽ đêm đêm khi đi ngủ muội không nghe tiếng kêu khóc của các vong linh đó ở trên trời cao kia ư?
- Thưa huynh, muội không để ý tới những người đó, muội chỉ để ý tới huynh, lẽ nào huynh thực sự không tha thứ uội?
- Đúng. Ta không thể tha thứ uội được. Tinh Cựu quay lưng lại phía Tinh Quỹ, nước mắt Cựu rơi lã chã, từng giọt từng giọt lăn xuống thảm cỏ.
- Thưa Đại vương, chúng ta hãy ra tay. - Tinh Cựu nói với tôi.
- Tinh Cựu, nhưng đó là tiểu muội của người... - Tôi nói.
- Ta không có một tiểu muội như vậy. - Tinh Cựu cắt ngang lời tôi.
- Đại huynh, người thực sự muốn ra tay với muội ư? - Tinh Quỹ nói.
- Đúng!
- Muội không phải là tiểu muội của huynh sao?
Tinh Cựu ngẩng đầu lên nhìn trời, tiếng của chàng trầm và như tắc nghẽn:
- Tinh Quỹ, muội của ta là một bé gái thuần nhất và lương thiện, luôn ngủ ngon lành trong vòng tay của ta, luôn chờ ta trở về. Nhưng nó đã chết, chết trong ký ức của ta, nó mãi mãi không bao giờ xuất hiện nữa.
Tôi nhìn thấy nước mắt của Tinh Cựu như luồng ánh sáng vỡ vụn ra.
- Đại huynh - Tiếng Tinh Quỹ vẫn phẳng lặng như mặt nước nhưng đầy vẻ tuyệt vọng bên trong. - Nếu sớm biết huynh không tha thứ uội thì muội chẳng muốn sống thêm mấy trăm năm nữa làm gì; nếu khi muội hai trăm tuổi mà chết ở cung Ảo Tinh thì tốt nhất, như vậy huynh sẽ không bao giờ ghét bỏ muội.
Sau đó tôi nghe thấy tiếng của da thịt bị xé nát, những dải lụa màu đen đâm vào lưng Tinh Quỹ tạo ra một làn sóng màu đen bùng lên ở phía trước ngực. Tinh Quỹ ngã ra bãi cỏ phát ra một âm thanh nặng nề, trước giây phút ngã xuống nàng còn kịp kêu lên một câu: Đại huynh, sao người không chịu tha thứ uội... Sao không tha thứ cho muội...
Nơi Tinh Quỹ chết xuất hiện một quả cầu trong suốt, tôi biết đó chính là giấc mơ mà nàng để lại cho anh của mình.
Tinh Cựu đứng ở vách núi đằng xa, Tinh Quỹ nằm trong tay chàng, giống hệt những gì mà tôi lần đầu tiên trông thấy họ, tuyết không ngừng rơi trên tóc và vai họ, Tinh Cựu dùng pháp thuật bảo vệ cho Tinh Quỹ, ánh mắt dịu hiền ấm áp như trước mặt hồ mùa xuân vậy. Tôi hỏi:
- Tinh Cựu, làm sao người biết mà vội từ thành Nhẫn Tuyết tới đây?
- Bởi trong mỗi lần chiêm tinh, ta đều cầu phúc cho em gái ta và Đại Vương. Nhưng sau đó, ta chợt cảm thấy nguy cơ của muội, bởi vì ta cảm thấy có một số người có linh lực rất cao cường đang bao vây tấn công Tinh Quỹ, vì vậy ta phải tới ngay, ta đã vượt qua lãnh địa của Nam phương hộ pháp và Bắc phương hộ pháp mà nay đã bỏ trống để tới nơi trần thế do Tây phương hộ pháp dùng ảo thuật tạo nên. Sau đó ta đã nhìn thấy Đại Vương, Nguyệt Thần, Triều Nhai và Hoàng Thác, còn Tinh Quỹ, muội của ta thì đứng giữa mọingười. Trong nháy mắt, ta đã biết tất cả, hóa ra Tinh Quỹ thực sự là Tây phương hộ pháp.
- Tinh Cựu, chẳng phải ngươi yêu quý em gái nhất là gì? Vì sao...
- Đại Vương, ta có thể nói cho Người biết một điều, ta yêu quý muội của mình cũng giống như Đại vương yêu quý Anh Không Thích của Người vậy, vì mỗi lần nhắc tới là ta buồn muốn chết. Thưa Đại vương, ta phải xa Người bởi muội của ta đã chết, ta không muốn bảo vệ Người nữa. Còn Người, Người đã lớn mạnh và cũng không cần ta bảo vệ nữa. Đại vương, có lẽ ta sẽ ẩn cư ở núi thần Ảo Tuyết, để giữ gìn phần mộ của Tinh Quỹ, ngay cạnh đấy, cho đến khi trên mộ muội của ta phủ kín hoa anh đào, ta nghĩ nước mắt ta sẽ chảy tràn.
Thưa Đại vương, Người là vị vua đầu tiên của thành Ảo Tuyết mà ta kính trọng nhất, ta sẽ mãi mãi chúc phúc cho Người, nhưng bây giờ, hãy để ta xa Người.
Tôi nhìn khuôn mặt của Tinh Cựu mà chẳng nói nên lời.
Cuối cùng, Tinh Cựu và Tinh Quỹ cũng biến mất ở cuối trời mênh mông tuyết trắng. Tôi thoảng nghe thấy tiếng hát thê lương và bi thảm của Tinh Cựu vang vọng giữa trời xanh, đàn chim tụ lại rồi lại tản ra, hoa anh đào cũng đượm sắc buồn tàn nhẫn rơi xuống.
o O o
/12
|