Cảm giác nổi trội nhất của tôi là sự thất vọng. Tôi không muốn Xan quay về vào lúc này, việc đó làm sống lại những tình cảm trong quá khứ khi mà tôi bắt đầu thấy hạnh phúc trở lại. Tôi cũng không muốn nửa kia của anh ta bị cuốn vào chuyện này - chỉ nghĩ về chuyện này thôi cũng khiến tôi phát ốm. Tôi hình dung ra lúc mình mở cửa và trông thấy Xan đứng đó cùng cô bạn gái người Mỹ rất thành đạt và chắc chắn là vô cùng kiều diễm - cũng có khi giờ này cô ta đã làm vợ chưa cưới của Xan rồi cũng nên. Tôi biết là mình chẳng có lý do gì để ghen tuông với cô ta cả, giống như tôi đang ở cạnh Patrick đấy thôi, nhưng tôi không chịu nổi cảnh một người đàn bà xa lạ vui đùa với con gái và bạn trai cũ của mình như trong một gia đình. Như được tiếp thêm một sức mạnh điên rồ, tôi bước đến chỗ máy tính và làm một chuyện mà từ trước đến nay tôi ít khi làm. Tôi gõ vào Google “CNN + Trisha Fox”. Lập tức màn hình hiện lên tấm hình của một cô tóc vàng xinh đẹp mặc một chiếc áo khoác gió đang đứng trên một con đường hai bên trồng đầy cọ ở một vùng nhiệt đới nào đó. Không, mình không muốn gặp cô ta, tôi nghĩ bụng và đọc lướt qua bản lý lịch cực kỳ ấn tượng miêu tả thời gian cô ta thực tập ở Nhà Trắng, làm tiến sĩ về Quan hệ Quốc tế ở Đại học Harvard và đề cử giải Emmy dành cho “việc đưa tin ấn tượng” về vụ sóng thần ở châu Á. Tôi gõ nhanh một email gửi cho Xan: Thông báo của anh về việc trở về Luân Đôn đã không đến được với tôi vì máy tính của tôi bị trục trặc và không thể nhận được email trong hai ngày, nên việc này hoàn toàn bất ngờ. Dĩ nhiên là anh có thể gặp Milly - trong bao lâu tùy thích. Nhưng tôi không muốn bạn gái của anh có mặt với... làm sao tôi có thể giải thích việc này với anh ta mà không khiến anh ta nghĩ là mình đang ghen nhỉ?...Tôi nghĩ điều đó sẽ gây xáo trộn cho Milly và tôi không muốn mọi việc rối tung lên. Hy vọng là anh có thể hiểu. A. Tôi đọc lại một lần nữa rồi ấn nút Gửi đi. “Mình chẳng cần quan tâm,” tôi làu bàu khi đang lái xe đến Fulham để kiểm tra thực địa một hợp đồng mới. “Nếu Xan muốn gặp hai mẹ con, anh ta cứ việc đến một mình.” *** Khu vườn mà tôi được mời đến xem nằm trong một tòa cha sở cũ ở đường Eden, chỗ giao với đường North End. Tôi nhấn chuông một ngôi nhà xây bằng gạch đỏ cũ kỹ và một người phụ nữ trạc bốn mươi ưa nhìn với mái tóc vàng nhưng trông có vẻ mệt mỏi ra mở cửa. Trên tay chị ta bế một bé gái khoảng sáu tháng tuổi còn dưới chân là hai chú bé sinh đôi khoảng một năm rưỡi đang bám chặt như hai con chuột túi. “Chào cô,” chị ta nói với giọng vui vẻ. “Tôi là Pipa. Còn đây là Kitty, Jack và Alfred.” “Những đứa bé đáng yêu quá.” Tôi nắm bàn tay chìa ra của bé Kitty một lúc và khi sờ thấy khuỷu tay mềm mại của nó tôi chợt nhận ra rằng mình mong ước sinh thêm một đứa con nữa nhường nào; rồi tôi nhìn xuống hai cậu bé con, chúng đang tò mò ngắm tôi từ sau lưng mẹ. “Chào các cháu,” tôi nói. “Cô đến xem khu vườn của các cháu đây. Các cháu đưa cô đi xem chứ?” Chúng lỉnh ngay ra phía sau cái sảnh, vẫn nắm tay nhau. “Chồng tôi sẽ xuống sau một phút nữa,” Pipa nói khi chúng tôi đi theo lũ trẻ vào căn bếp kiểu cũ. “Tôi được biết là cô luôn muốn gặp cả hai vợ chồng.” “Đúng vậy, vì tôi cần phải biết rằng họ có nhất trí về những việc phải làm hoặc về chi phí hay không.” “Tôi hiểu điều đó. Anh ấy đang có điện thoại. Anh ấy làm việc ở nhà. Dù sao thì...” Chị ta mở cánh cửa hậu. “Nó đây.” Trong lúc hai cậu bé sinh đôi chập chững trên lối đi ra vườn, tôi đưa mắt quan sát. “Chà... nó cần được làm lại hoàn toàn đây.” “Vâng,” Pipa tỏ ra đồng tình. “Nó không được đẹp lắm.” “Tôi cũng nghĩ vậy,” tôi nói. “Hơi nhếch nhác.” Khu vườn thật... xấu. Nó thuộc kiểu vườn cây bụi Victoria với vẻ u tối, ảm đạm và khắc khổ. Phần chính là một bãi cỏ hình vuông cằn cỗi, rải rác một vài món đồ chơi và bao quanh là những bụi cây không được tỉa tót cẩn thận như nguyệt quế chùm với những tán lá dày tối màu, đỗ quyên rậm rạp và hoa cam Mễ mọc um tùm quá thể. Ngoài ra còn có mấy loại khác nữa - một cây tử đinh hương cao lớn, một cây Cẩm đái cùng một cây nguyệt quế tự do vươn lên và lấy hết ánh sáng. Bao quanh khu vườn là một bức tường gạch đỏ rất cao và mặc dù đang là thời điểm thích hợp trong năm, khu vườn không có mấy hoa đang khoe sắc, chỉ thấp thoáng đâu đó một nụ hồng hay một nụ ông lão vươn lên từ dưới những chiếc lá mục, gợi nhớ một quá khứ rực rỡ của chính nó. Tôi bắt đầu chụp ảnh khu vườn. “Toàn bộ chỗ này cần được sắp đặt lại sao cho ngăn nắp và sáng sủa hơn,” tôi nói trong lúc một trong hai cậu bé leo lên lắc lư trên con cá voi bằng nhựa. Tôi trình bày một số ý tưởng của mình. “Vì lũ trẻ, tôi sẽ cố gắng giữ lại bãi cỏ với diện tích lớn nhất có thể. Nhưng có lẽ tôi sẽ tạo hình nó lại một chút và lát một lối đi nhỏ bằng đá màu kem xung quanh để tạo điểm nhấn và làm cho nó rực rỡ lên.” “Tôi còn muốn lắp thêm một cái khung leo thật đẹp nữa,” chị Pipa nói. “Hiện tại thì tôi chính là cái khung leo của lũ trẻ.” Tôi mỉm cười. “Chị có thể chọn một cái vừa ý nhất - tôi có nhiều mẫu về chúng cho chị xem. Chúng ta cũng có thể đào một cái hố cát ở góc đằng kia nữa kìa. Sau khi dẹp những bụi cây này đi, chúng ta có nhiều khoảng không hơn cho hoa. Và tôi nghĩ những chậu hoa treo có thể hạ thấp xuống một chút vì hiện giờ chúng quá cao. Còn những bức tường trông sẽ đỡ thô hơn nếu giăng thêm ít lưới mắt cáo màu xanh và trồng vài cây dây leo hoa trắng để tạo ánh sáng.” “Tôi thích để một khoảng sân trống sát cạnh nhà để có thể dùng làm nơi ăn uống trong vườn.” “Theo tôi, chị nên xây một khu ngồi ở đây với mấy chiếc ghế dài có khoang bên dưới để đựng đồ chơi của trẻ con - có thể lắp thêm một cái mái hoặc gắn thêm dàn đèn để ngồi uống trà buổi tối,” tôi vừa nói vừa tranh thủ chụp thêm mấy tấm ảnh nữa. “Ngồi đọc báo ở đó thì thật là tuyệt.” “Ước gì tôi có nhiều thời gian!” Chị ta bật cười. Tôi nghe thấy tiếng bước chân đằng sau. “Đây là anh Gerald.” Tôi quay lại. Chồng chị ta đang bước trên bãi cỏ về phía chúng tôi. Tôi ngạc nhiên khi thấy anh ta phải già hơn chị vợ chừng mười lăm tuổi, với mái tóc màu trắng xám và dáng đi thẳng, hình như trước đây anh ta từng phục vụ trong quân ngũ. “À, rất hân hạnh được gặp cô,” anh ta nói, bắt tay tôi thật chặt rồi hất hàm về phía khu vườn. “Vậy cô nghĩ sao?” “Tôi nghĩ là... sẽ hơi thử thách một chút - nhưng mà tôi thích thử thách.” Anh ta xem xét khu vườn, tay chống nạnh. “Quả thật trông nó thật đáng xấu hổ mặc dù trước đây từng là một khu vườn đẹp tuyệt.” “Thật vậy sao?” Anh ta gật đầu. “Người vợ quá cố của tôi từng chăm sóc nó.” “Ồ.” “Bà ấy là một người làm vườn thiên tài.” “Thế à.” “Nhưng giờ nó hoang tàn quá rồi.” Pipa cười mỉm với vẻ nhẫn nại. “Tôi sợ rằng mình không được mát tay cho lắm.” “Chị không cần phải thế mà,” tôi nói. “Nếu chị ký hợp đồng với tôi, tôi có nhiều sách vở dạy làm vườn và cả tranh ảnh cho chị xem để có thể chọn những loại cây chị thích.” “Vợ trước của tôi có thể trồng bất cứ cây gì,” Gerald nói. Tôi đỏ mặt vì ngượng. “Tôi phó mặc mọi thứ cho bà ấy - chẳng có gì quan trọng cả vì bà ấy làm quá tốt công việc của mình.” “Anh sống ở đây được bao lâu rồi?” Tôi lịch sự hỏi anh ta. “Hai mươi hai năm.” “Ra thế.” Tội nghiệp Pipa khi phải dọn đến một ngôi nhà mà người vợ trước của chồng đã sống rất lâu trước đó, tôi nghĩ bụng. Thật không vui chút nào. “Ấy vậy mà sau khi Ginny mất năm năm trước đây, tôi hỏi hai cô con gái của mình rằng chúng có muốn dọn đến ở cùng không thì cả hai đứa đều trả lời là “không”- thế rồi chúng tôi quyết định vẫn ở lại đây, phải vậy không, Pips?” “Ừm,” chị ta trả lời với một nụ cười uể oải. “Nhưng bà vợ đầu của tôi ấy - bà biết mọi thứ về nghề làm vườn. Rất yêu quý những bông hoa của mình - thế mà giờ đây...” Anh ta nhún vai. “Những gì tôi biết làm chỉ là cắt cỏ thôi,” Pipa nói. “Tôi sẽ ngạc nhiên nếu chị làm được việc đó với ba đứa trẻ nhỏ này,” tôi bảo, trong lòng tự hỏi sao Gerald không tự làm lấy hoặc là thuê một người làm vườn. “Dù sao thì anh chị cũng đang đi đúng hướng là thuê dịch vụ chuyên nghiệp như của tôi.” “Đúng... bà ấy có thể trồng bất cứ cây gì,” Gerald vẫn lảm nhảm. “Nếu anh chị quyết định thuê tôi,” tôi nói mà không thèm để ý anh ta nữa, “tôi sẽ cải tạo khu vườn này. Nhưng trước tiên tôi sẽ phải chuẩn bị một vài bản vẽ, có lẽ mất một tuần. Về việc chọn cây trồng trong vườn tôi nghĩ về cơ bản chúng ta nên chọn những cây lâu năm cần càng ít sự chăm sóc càng tốt vì tôi e rằng chị Pipa sẽ rất bận rộn rồi,” tôi nói thêm đầy ẩn ý. “Còn về chi phí thì sao thưa cô?” chị ta hỏi. “Tôi sẽ tính toán chi tiết - nhưng nếu xem xét khối lượng công việc phải làm và những thứ cần dọn dẹp, tôi ước tầm khoảng hai mươi lăm đến ba mươi ngàn bảng.” “Ôi Chúa Nhân từ ơi!” Gerald kêu lên. “Chừng đó đủ cho chúng tôi làm lại một gian bếp mới.” “Chà,” tôi nói, “anh chị thử nghĩ mà xem. Khu vườn là một phần của ngôi nhà - một phần rất quan trọng - nên anh chị phải xem xét một ngân sách tương ứng cho nó. Nếu hai người vui vẻ xây một cái bếp mới với ba mươi ngàn tại sao lại chỉ dành cho khu vườn mới chỉ năm ngàn?” “Nghe có vẻ hợp lý đấy,” Pipa nói và chuyển đứa bé từ hông này sang hông kia. “Ý tưởng của cô khá ấn tượng, tại sao cô không bắt tay luôn vào việc sửa soạn mấy bản vẽ kia nhỉ?” “Từ từ đã nào, Pipa!” Gerald gầm lên. “Nói chuyện một chút không được sao?” “Chúng mình phải làm thôi anh ạ,” chị ta nhỏ nhẹ đáp. “Quanh đây chẳng có cái công viên nào cả nên đây là nơi duy nhất cho lũ trẻ chơi, và như em nói, em sẽ chịu một nửa với anh.” “À...” Chuyện tiền nong có vẻ làm anh ta lúng túng. “Miễn là chúng tôi không nhất thiết phải làm theo các bản thiết kế.” “Chắc chắn rồi,” tôi trấn an anh ta. “Anh chị sẽ trả phí riêng cho các bản thiết kế và chỉ làm phần nào mình thích.” Tôi quay sang Pipa. “Tôi sẽ mang cho chị xem trong vòng một tuần.” Mình biết được nhiều điều về cuộc sống của khách hàng khi làm những việc này, tôi nghĩ thầm khi đi khỏi đó. Tôi đi bộ tới cái chợ trên đường North End tìm mua ít vải satanh màu xanh lơ để may trang phục biểu diễn cho Milly. Ví dụ như việc tôi đã từng thiết kế vườn cho vài người phụ nữ mới ly dị, những người phải chuyển đến sống trong những ngôi nhà nhỏ hơn trước, họ muốn mảnh vườn của mình được thiết kế sao cho chúng khiến họ cảm thấy thoải mái hơn, giống như cách những người này đi giải phẩu thẩm mỹ hay có những thay đổi quan trọng trong cuộc đời, hầu hết đều rất khó tính trong khi làm. Tôi đã làm một mảnh vườn nhỏ cho một cặp vợ chồng cãi nhau suốt ngày từ những việc nhỏ như làm giàn leo đến việc chọn loại hồng leo nào; một vài tuần sau khi hoàn thành tôi quay lại để xem mấy cái cây thế nào thì ông chồng đã bỏ đi mất. Tôi có thể hình dung được hoàn cảnh của Pipa như thế nào. Chị ấy là một người có chuyên môn đàng hoàng, cận kề tuổi bốn mươi và cực kỳ muốn lập gia đình trước khi quá muộn; rồi chị ấy gặp một ông Gerald mới góa vợ, người có thể mang lại điều đó mà không hề phản đối ý định sinh thêm con cái, và chị ấy đã quyết định tiến tới. Chị sinh con càng nhanh càng tốt, đến lúc đó mới nhận ra rằng từ giờ chị phải chung sống với phong cách gia trưởng của chồng, một người suốt ngày kể lể về vợ cũ, ở trong một ngôi nhà mà Pipa ước gì anh ta đã bán quách nó từ trước. “CHUỐI ĐÂY! MỘT BẢNG MỘT NẢI! BƠ NGON NHẤT ĐỜI! MỘT BẢNG HAI TRÁI!” Tôi đi lòng vòng trong cái chợ đông đúc, len qua những hộp giấy bày bán táo tím và cà dái dê. Một cơn gió mạnh nổi lên và những mẫu rác vụn bay tứ tung trên phố, quấn vào chân người đi đường. Tôi ngước lên và thấy một cái túi bóng lơ lửng giữa không trung giống như một con sứa biển. Tôi tìm thấy mấy gian hàng bán vải vóc, một trong số đó có mấy tấm vải lót cùng màu, có thể dùng thay cho satanh, rồi tôi sang quầy bán đồ may vá và mua được hai mươi bông hoa nhỏ bằng lụa và gần hai mét ruybăng xanh. Khi kiểm tra email lúc về nhà tôi nhận được hồi âm của Xan. Nó chỉ vỏn vẹn mấy chữ, Không vấn đề gì, X. Tôi thở phào nhẹ nhỏm. Email tiếp theo mà tôi đọc là của Mark. Anh xin lỗi vì đã không trả lời em sớm, anh viết, chỉ vì anh vừa đi nghỉ mấy ngày ở Palm Springs. Chuyện em muốn biết là gì? Tôi ấn nút trả lời: Là chuyện về Ba và Mẹ. Nó rất nhạy cảm. Gần đây em mới phát hiện rằng cuộc hôn nhân của ba mẹ chúng ta hóa ra không bình thường như mọi người từng nghĩ và em muốn nói chuyện với anh về việc đó, có lẽ là qua điện thoại vì nó quá riêng tư - và đáng buồn - để có thể viết qua email. Em của anh, Anna. Một vài giờ sau tôi nhận được thư trả lời. Gửi Anna, Anh biết em đang ám chỉ điều gì, nhưng anh nghĩ rằng anh không thể giúp em được vì anh chẳng thấy có lý do để phải giải thích cho em cả, việc mà đáng lẽ ba mẹ đã phải làm từ lâu lắm rồi. Anh đề nghị là em cứ hỏi thẳng ba nếu ông ấy sẵn sàng lắng nghe. Xin lỗi em vì anh chỉ làm được đến thế, vì như em nói, chuyện này thật đáng buồn. Nhớ em và Milly, anh Mark. Tôi nhìn chằm chằm vào email của Mark khi một cái khác mới được gửi tiếp vào. Đó là email của Patrick, anh thông báo là đã đặt được phòng khách sạn ở Cornwall cho mấy ngày mà tôi chọn, mặc dù vậy tâm trí của tôi vẫn dồn vào những dòng chữ mà Mark vừa gửi - đó chẳng khác gì một lời thoái thác của anh ấy. Anh ấy biết chuyện tôi vừa mới phát hiện ra được bao lâu rồi? Và tại sao anh ấy chẳng bao giờ kể cho tôi nghe? Tôi trả lời email của Patrick nhưng vẫn chưa nhắc tới chuyện Xan sắp trở về Luân Đôn. Tôi cũng chưa nói với Milly phòng trường hợp vì lý do gì đó anh ta không về nữa - mặt khác tôi không muốn nó nhắc đến chuyện này trước mặt Patrick trước khi chính tôi nói với anh. Thời tiết dần ấm áp lên trong khoảng thời gian đó. Nhiệt độ nhích từng ngày lên gần ba mươi sau một giai đoạn dễ chịu ở xấp xỉ hai mươi độ, rồi cao hơn nữa khi nền nhiệt bắt đầu tích tụ. MÙA HÈ NƯỚC ANH! Một tờ báo chạy tít. 38 độ C - VÀ SẼ CÒN NÓNG HƠN NỮA!! Mỗi buổi sáng thức dậy, trời trong xanh không một gợn mây và đến mười giờ thì nóng đến độ không ai dám đi ra ngoài dưới cái nắng cháy da. Trên báo đăng đầy hình ảnh giới nhân viên văn phòng mặc độc đồ lót ngồi tránh nóng trong những công viên khô queo, hay là hình ảnh nhựa đường nóng chảy như mật và tà vẹt đường sắt ở Birmingham cong oằn lên như kẹp tóc. Trên đường Holland Park có một vòi nước bị vỡ và một đám trẻ con thích thú nô đùa dưới làn nước bắn lên. Vào ngày mùng Bốn tháng Bảy tôi mang những bản thiết kế khu vườn đến cho Pipa và Gerald xem. Hai chú bé sinh đôi mặc phao bơi nghịch ngợm thỏa thích trong cái ao nhỏ trong khi tôi thảo luận về chi tiết các bản thiết kế với ba mẹ chúng. Tôi ước gì được ngâm mình dưới đó với chúng suốt cả mùa hè. Không phải nhiệt độ mà chính độ ẩm cao mới gây khó chịu. Chỉ ít phút giảng giải với chủ nhà mà người tôi ướt đẫm mồ hôi và gần như kiệt sức. Chỉ vài tiếng nữa thôi Xan sẽ lên máy bay để về Luân Đôn rồi, tôi lo lắng nghĩ khi rời khỏi đường Eden. Tôi vẫn chưa nói với Patrick - tôi chẳng hiểu nổi vì sao nữa. Tôi định bụng sẽ kể với anh ngày mai khi đến giúp anh lấy mật. Tôi chỉ đồng ý giúp anh việc đó miễn là tôi không phải làm gì quanh mấy cái tổ: ngoại trừ việc phải miễn cưỡng chạm mặt với đàn ong thì tôi không hề muốn khoác lên người bộ đồ bảo vệ đó trong thời tiết nóng bức thế này... “Vậy hôm nay là ngày thu hoạch mật ong đây,” tôi nói khi đến nhà anh. Anh hôn tôi. “Đúng thế. Anh đã lấy một ít rồi vì khi trời nóng dễ làm hơn - lúc lọc lấy nước mật cũng vậy.” “Thế vụ này anh thu hoạch khá chứ?” “Bội thu. Sáng nay anh lấy mấy cái bánh tổ ra và nếu dựa vào khối lượng của chúng thì anh ước gần bốn mươi ký - gần gấp đôi vụ đầu tiên của anh năm ngoái.” Chúng tôi đi vào bếp nơi Patrick đã chuẩn bị sẵn sàng những dụng cụ lấy mật: một con dao trần để cạo sáp ong ra khỏi máng, một cái lò quay điện trông giống phần ruột của máy sấy quần áo, một cái thùng sạch, một cái rây lớn, bốn hộp lọ đựng mật và một hộp đựng nhãn Ong Tốt. Mấy cái bánh tổ được xếp thành một chồng ở trên bàn rỉ ra một ít mật, mùi thơm ngọt ngào và dễ chịu của nó lan tỏa trong bầu không khí ấm áp và ẩm ướt. “Anh đóng hết cửa sổ à,” tôi hỏi khi đang rửa tay. “Em mở chúng ra nhé?” “Không được đâu. Nếu không lũ ong sẽ bay vào đòi lại chỗ mật bị lấy mất đấy,” anh đáp. Tôi rùng mình khi nghĩ đến cảnh đó. “Được thôi. Nhưng làm sao anh lấy chỗ mật ra được?” “Lực ly tâm từ cái lò quay sẽ tách nó ra.” Anh buộc một cái tạp dề trắng lên cổ tôi, vén mái tóc tôi sang một bên rồi đặt lên cổ tôi một chiếc hôn. “Mật sẽ chảy ra cái bể chứa này... rồi ra cái thùng kia... nó có lắp một cái van giúp ta rót mật vào mấy cái lọ.” Anh khoác một cái tạp dề vào, cầm lấy con dao có răng cưa, nhúng nó vào một bát đựng nước nóng và bắt đầu gạt lớp sáp ong ra khỏi cái bánh tổ đầu tiên, để lộ ra bên trong một thứ chất lỏng màu vàng lấp lánh dưới ánh mặt trời. Anh làm một bên rồi lật lại làm tiếp bên kia, sau đó gạt lớp sáp xuống một cái chảo to để xử lý sau. Tiếp theo anh đặt cái bánh tổ đã được gạt sạch sáp vào cái lò quay. “Em làm thử một cái xem?” anh bảo và đưa cho tôi một cái bánh tổ. “Được chứ.” Tôi nhặt một con dao lên. “Trước tiên phải nhúng nó vào trong nước nóng,” anh nói. “Sau đó gạt nhẹ nhàng từ dưới lên trên. Làm từng bên một, giống như lúc em đang cắt bánh mỳ vậy... đúng rồi. Giờ thì lùa chỗ sáp đấy vào cái chảo này. Lật mặt kia lại và làm y như vậy.” Tôi cảm thấy từng dòng mồ hôi chảy dọc xuống lưng khi cả hai chúng tôi làm việc trong im lặng. “Anh Patrick này,” tôi nói và đặt cái bánh tổ sạch vào trong cái lò quay. “Có chuyện này em muốn nói với anh.” “Chuyện gì vậy em?” anh lơ đãng hỏi mà không nhìn tôi. “Nếu là chuyện em không thích mật ong thì anh đã biết rồi và đành phải chấp nhận thôi.” “Không. Đó là chuyện... Xan sắp sửa quay về Luân Đôn.” Patrick không nói gì trong phút chốc, có vẻ anh đang mải mê với việc mình làm. “Trong bao lâu?” “Hai tháng.” “Hai tháng?” anh lặp lại rồi lật cái khung bánh sang mặt kia. “Vâng. Công việc của anh ấy ở Indonesia đã kết thúc...” “Ra thế...” “Vậy nên anh ấy sẽ về làm ở phòng thời sự cho đến khi nhận nhiệm vụ mới.” “Chỗ mới là chỗ nào?” anh nhặt một cái khung khác lên. “Anh ấy vẫn chưa biết. Nhưng vấn đề là anh ấy muốn có thời gian ở bên Milly.” Một thoáng im lặng giữa hai chúng tôi. “Dĩ nhiên là anh ta muốn thế rồi,” Patrick bình thản nói. “Anh ta là cha nó cơ mà.” “Điều đó cũng có nghĩa là... thỉnh thoảng anh ta sẽ đến nhà em nên... em chỉ muốn anh biết chuyện đó, trước khi anh ta về.” “À... Cám ơn em đã cho anh biết.” Anh bắt đầu làm với một cái khung mới, đầu cúi thấp xuống tập trung cao độ vào công việc và vẫn không ngước lên nhìn tôi. “Em nên thông báo với anh ta là tháng Tám chúng ta sẽ đi nghỉ.” “Ồ vâng,” tôi cảm thấy ân hận trong lòng. Giá mà tôi không hứa đi nghỉ ở Cornwall với anh vì việc đó sẽ khiến Milly phải xa ba nó trong một tuần liền. “Khi nào anh ta về?” Patrick lại đặt cái khung vào trong cái lò. “Ờ... ngày mai.” “Ồ.” Một cái khung bánh tổ khác nữa. “Sớm vậy sao?” Anh dùng cái dĩa khều một con ong chết bị dính trên đó. “Cũng hơi lạ là đến bây giờ em mới nói với anh.” “Nhưng mà... Em cũng mới vừa được biết mấy hôm trước và em... quá bận.” “Anh ta sẽ ở đâu? Anh hy vọng là không ở với em.” “Tất nhiên là không rồi. Anh ấy ở trong căn hộ trên Notting Hill.” “Chà... Anh mong là em sẽ... không muốn...” giọng anh ngập ngừng. “Anh nghĩ là em hiểu ý anh, Anna ạ,” anh nói khẽ. “Không sao mà,” tôi lẩm bẩm. “Em sẽ không làm điều đó.” Tôi nhặt một chiếc cánh bị rụng của một chú ong nào đó. “Tại sao anh lại nghĩ là em muốn chứ?” “Chỉ vì bất kỳ lúc nào em nói về Xan, anh có thể cảm nhận được rằng em đã... từng yêu anh ta.”Vâng. Em đã từng! Đột nhiên tôi muốn thốt lên như vậy. “Vì thế,” Patrick nói tiếp, “Anh mong là...” Tôi lắc đầu. “Mối quan hệ của bọn em đã chấm dứt từ lâu. Xan đã có người khác - từ lâu lắm rồi - Patrick này, giờ em đã là của anh rồi đấy thôi, phải không nào?” Patrick ngẩng lên nhìn tôi lần đầu tiên kể từ khi tôi bắt đầu nói chuyện này. Đôi mắt anh ánh lên màu hổ phách phảng phất chút màu vàng của mật. “Ừ,” anh nhỏ nhẹ nói. “Giờ em là của anh.”
/18
|