“Em đang tận hưởng kỳ nghỉ ở Cornwall đấy à?” Jenny hỏi khi tôi gọi điện cho chị tối hôm sau. “Em có đi đâu. Kỳ nghỉ đã bị hủy rồi.” Tôi giải thích vì sao. “Thật là... đáng xấu hổ,” chị lẩm bẩm nói. “Chị cho rằng như thế là hết rồi.” “Vâng. Mặc dù nghĩ đi nghĩ lại em vẫn thấy rất buồn.” “Nhưng em không bao giờ có thể tin tưởng anh ta.” “Không, em không thể. Cứ mỗi lần nhớ lại chuyện đó em lại phát ốm.” “Anh ta không làm con bé đau đấy chứ?” “Không. Cánh tay của nó chỉ bị hơi nhức một chút.” “Em có nghĩ là anh ta đã từng làm thế không?” Chuyện đó hoàn toàn không cố ý. Nó là một tai nạn. Một tai nạn... “Thực sự em không biết nữa...” “Ừ, chị lấy làm tiếc,” Jenny tiếp tục nói. “Anh ta có vẻ rất đáng mến, nhưng em từng bảo anh ta rất hay nổi nóng.” “Đúng vậy...” Nuôi ông tốt hơn bất kỳ phương pháp trị liệu nào. Đứng im! Anh đã nói là anh sẽ không đến! Làm ơn buông em ra, Patrick... “Nhưng em không biết là mức độ ra sao.” “Em sẽ kể với Xan chứ?” “Không. Em cũng đã bảo Milly không được làm thế- chẳng có ích gì mà anh ấy còn có thể nổi khùng lên. Em chỉ bảo là em thay đổi quyết định vào phút cuối và không đi nghỉ nữa.” “Chắc anh ta vui mừng lắm.” “Đúng như vậy.” Tôi nhớ lại việc Xan nói anh thấy Patrick có điều gì đó không đáng tin lắm. Tôi từng suy luận việc đó là do Xan ghen với Patrick nên nói thế, nhưng rõ ràng Xan đã nhìn thấy điều gì đó mà tôi không biết. Bỗng tôi nghe thấy tiếng ồn ào trên TV. “Milly.” Tôi gọi với ra. “Xin lỗi chị, Jenny, Milly lại vừa bật TV lên, nó luôn nghịch ngợm với cái điều khiển từ xa.” “Grace cũng thường làm vậy.” “Con tắt TV đi nhé.” Tôi liếc vào phòng khách. Đang chiếu chương trình X-Factor. Trên màn hình là một cậu bé mảnh khảnh đội một chiếc mũ len màu đỏ đang lo lắng chờ đợi phán quyết của ban giám khảo. “Andy,” Simon Cowell gọi cậu ta. “Em có một trong những giọng hát dở nhất mà tôi từng nghe. Màn trình diễn của em thật kinh khủng. Chắc chắn một điều là tôi không thể thấy em có mặt ở vòng sau được...” “Tắt TV đi con, Milly.” Tôi ngồi xuống và tiếp tục cuộc nói chuyện với Jenny. “Chỉ cần nhấn cái nút đỏ thôi.” “Tom này,” Simon Cowell đang nói với một thí sính khác. “Em béo ị. Em xấu hoắc. Trang phục của em chẳng ăn nhập gì cả. Nhưng em hát rất tốt. Vì thế tôi sẽ nói gì nhỉ...“Qua”.” “Milly, con tắt TV giùm mẹ đi được không - hoặc là vặn nhỏ tiếng xuống, con yêu?” “Một người nữa đang nghĩ đến một từ “Qua”,” tiếng người dẫn chương trình, “đó là...” “Mira!” tôi nghe thấy Milly lẩm nhẩm. “... Luisa Vanegas đến từ Colombia.” “Luisa đang ở trên TV nè mẹ ơi!” “Chị giữ máy nhé, Jenny.” Tôi bước vào phòng khách và dán mắt vào màn hình, điện thoại vẫn kẹp vào một bên tai. “Luisa, hai mươi ba tuổi, là một cô giúp việc, thế nhưng cô ấy mơ trở thành một ngôi sao sân khấu.” Rồi TV chiếu hình của Luisa đang ngồi trong một cái phòng đợi rộng với hàng trăm thí sinh khác. “Luisa tham gia X-Factor chị ơi,” tôi không kìm được lòng mình. “Để chị bật TV lên xem nào,” Jenny nói. “Ôi Chúa ơi. Đúng thế thật. Nó không bảo gì với em à?” “Không hề,” tôi đáp. “Gần đây em ít gặp nó.” Máy quay chiếu thẳng vào Luisa đang ngồi đợi trong chiếc váy nhung màu đỏ và đang nhấm nháp một tách trà. Nhìn độ dài mái tóc của Luisa tôi đoán chương trình này được ghi hình vào khoảng tháng Sáu, một vài tuần trước khi tôi gặp nó hát rong. “Nó trông cũng được đấy chứ em nhỉ?” Jenny nói. “Ngày hôm này em đã ngồi chờ bao lâu rồi hả Luisa?” Người dẫn chương trình hỏi nỏ. “Em đã ở đây rất lâu rồi... năm tiếng.” “Ái chà, bây giờ đến lượt em rồi đó, chúc may mắn.” Luisa bước lên và cười một cách lo lắng trước ống kính máy quay. Sau đó tôi nhìn thấy nó bước vào phòng thu và đứng trước mặt ba vị giám khảo. “Luisa, em sẽ hát bài gì?” Dannii Minogue hỏi nó. ““Mọi nẻo đường từ nước Mỹ” của Joan Armatrading.” Sharon Osbourne gật đầu. “Chúng ta lắng nghe nào.” Luisa sửa soạn lại tư thế một phút rồi bắt đầu hát: Này cô gái ơi, em hát trên mọi nẻo đường từ nước Mỹ và em đi theo tiếng gọi của tình yêu. Rồi thời gian và năm tháng trôi qua, những giọt nước mắt cũng rơi xuống và anh không thể chờ đợi được... “Nó có một giọng hát thật tuyệt vời,” Jenny nói... khi tình yêu đó đến, từ mọi nẻo đường của nước Mỹ. Simon Cowell ngã người ra sau ghế, hai tay ôm trước ngực, đầu nghiêng sang một bên. Cô gái ơi, em gọi tôi từ khắp mọi nẻo đường của nước Mỹ và tôi sẽ về nhà. Rồi thời gian và năm tháng trôi qua, những giọt nước mắt cũng rơi xuống và anh không thể chờ đợi được khi tình yêu đó đến, từ mọi nẻo đường của nước Mỹ. Từ mọi nẻo đường của nước Mỹ. “Được rồi, đến đó thôi!” Simon đột nhiên kêu lên. “Khỉ thật! Anh ta không thích nó,” tôi nói. Luisa trông có vẻ tiu nghỉu. “Chúng tôi đã nghe đủ rồi,” Dannii Minogue phụ họa theo. “Bây giờ là lúc nghe phán quyết của Simon,” người dẫn chương trình nói. “Luisa này,” Simon mở lời. “Bài này phải là “Mọi nẻo đường từ Mỹ Latinh” thì đúng hơn. Phát âm của em quá tệ. Em cần phải cải thiện tiếng Anh của mình - nhưng em có một giọng hát rất mạnh mẽ. Em có sức thuyết phục. Em rất tự tin...và tôi vui mừng tuyên bố em qua vòng này.” “Ơn Chúa,” tôi thở phào khi Luisa nở một nụ cười ngây ngất với Simon. “Luisa, em chắc chắn đã đạt được X-Factor,” đến lượt Dannii Minogue nói. “Mặc dù tôi không thường xuyên đồng ý với Simon, tôi cũng nhất trí là em đã qua vòng này.” Luisa chắp hai tay vào nhau như đang cầu nguyện. “Liệu Sharon có đồng ý với họ không?” Người dẫn chương trình hỏi. “Em có một chất giọng rất tuyệt, Luisa à,” Sharon nói. Tôi thấy nhẹ cả người. “Em hát cũng tốt như Joan Armatrading vậy - quả thực em hát hay đến mức tôi nghi ngờ liệu em có nhét một cái máy hát ở dưới áo ngực không - ngoài ra giọng em của rất khác biệt. Em qua vòng này.” “Tuyệt vời!” Jenny thốt lên còn Milly ngoắc tay như đang chào Luisa. Luisa gửi đến ba vị giám khảo những nụ hôn gió rồi chạy ào ra khỏi phòng thu, mặt rạng rỡ vì vui sướng. “Em đang cảm thấy như thế nào, Luisa?” Người dẫn chương trình hỏi. Luisa cởi mũ ra và bật cười. “Em đang cảm thấy... maravilloso!” “Em có muốn gửi lời chào đến người nào khi em đang lên sóng không?” “Có ạ,” Luisa đáp. “Em muốn nói xin chào đến gia đình người Anh đáng mến của em - chị Anna và cháu Milly - nếu họ có đang xem chương trình này.” “Đó có phải là gia đình mà em đang giúp việc không?” “Sí! Anna là một người phụ nữ rất tốt còn Milly es una ninã fantástica. Adoro a Milly!” Nó gửi qua máy quay một nụ hôn gió. “Y yo adoro a Luisa,” Milly nói. Sáng hôm sau tôi dậy sớm và đi xuống tầng nhà uống một chút cà phê. Trong khi chờ ấm nước sôi tôi nhặt tờ báo ở dưới thảm ra và nhìn thấy tờ Tin tức Chủ nhật của nhà bên thay vì tờ Người Quan sátcủa tôi như thường lệ. Còn quá sớm đến để gọi họ dậy đổi báo nên tôi ngồi xuống chiếc bàn trong bếp và lướt qua mục Tin tức. Vẫn là những mục tin lặt vặt như nạn di cư, tăng thuế, máy bắn tốc độ và những chuyện giật gân cũng như là mục rao vặt đặc biệt cho Center Parcs. Tôi nghe tiếng mở cửa phòng ngủ của Luisa từ trên gác vọng xuống. Hôm nay là ngày nó dọn đi: tôi bận bịu đến nỗi mãi đến hôm nay mới nhận ra. Tôi bỗng thấy hơi buồn. BẠN PHẢI NỘP HÀNG TRIỆU TIỀN THUẾ ĐỂ THUÊ LAO ĐỘNG! là tựa đề một bài báo ở trang 2 của mục Tin tức. BỆNH BÉO PHÌ CÓ THỂ LIÊN QUAN ĐẾN BỆNH MẤT TRÍ NHỚ là tựa một bài khác ở bên dưới. DIANA- NHỮNG BẲNG CHỨNG MỚI ở trang 3. Tôi lật sang trang 4. NHÀ RIÊNG CỦA MỘT PHÓNG VIÊN TỜ TIN TỨC CHỦ NHẬT BỊ THIÊU RỤI. Tôi ngồi thẳng người lên. Người phụ trách một cột báo của tờ Tin tức Chủ Nhật Citronella Pratt và gia đình vừa thoát chết khỏi một cơn hỏa hoạn đã thiêu rụi ngôi nhà nghỉ cuối tuần của họ ở East Sussex. Ngôi nhà mục sư cũ tọa lạc ở Aldingly, gần Hastings đã bị cháy trụi không còn một thứ gì vào ngày thứ Sáu vừa qua. Tôi ngắm nhìn những bức ảnh chụp trước và sau cơn hỏa hoạn của một ngôi nhà kiểu Georgia với thảm hoa rất đẹp và một đám ngổn ngang tro tàn. Cô Pratt, người chồng thứ hai và Erasmus, đứa con ba tuổi của mình đến đó vào buổi chiều, để lại Sienna, mười ba tuổi, con gái của người chồng trước của cô Pratt, ở lại thành phố. Cơn hỏa hoạn được cho là xuất phát từ phòng ngủ của cậu bé con, nơi một chú gấu teddy bị cho là đã bắt lửa... Tôi lật đến trang 18 nơi có mục của Citronella. Hôm thứ Sáu vừa rồi ngôi nhà xinh đẹp ở đồng quê East Sussex của chúng tôi đã bị cháy. Nhưng thay vì buồn tôi lại thấy mình may mắn đến nhường nào. Trước tiên không phải chỉ vì không thành viên nào trong gia đình của tôi bị thương mà cũng còn vì chúng tôi không mất thứ gì đáng giá cả: ví dụ như con gấu teddy đã bốc cháy chỉ là đồ chơi ưa thích thứ hai của Erasmus, may thay, không phải là con Steiff mà nó đang cất ở Luân Đôn. Tôi còn cảm thấy may mắn nữa là chồng tôi và tôi đang định từ bỏ cuộc sống ở thôn quê vì chỗ đó không thuận tiện cho việc Sienna đến trường mới vào tháng Chín tới - một ngôi trường thú vị dành cho những người trẻ tuổi đầy nhiệt huyết, nơi chúng tôi cảm thấy sẽ tạo ra cho đứa con yêu quý của mình một môi trường cạnh tranh mà nó hằng mong ước. Chúng tôi thấy việc hy sinh cuộc sống ở thôn quê cũng xứng đáng để chúng tôi có thể đến đó kịp giờ mà nhân viên ở đó thường gọi đùa là “giờ thăm nuôi.” Rõ ràng là Citronella đang có vấn đề với cô con gái Sienna không-hoàn-hảo-lắm của mình. Cũng có thể chị ta đã làm hỏng con bé. Dẫu sao tôi vẫn thấy phát ghen với sự ngoan cường đến kinh ngạc của Citronella. Giả sử chị ta có bị một quả bom hạt nhân rơi trúng đầu thì vẫn cố tìm cách mô tả bản thân mình “may mắn” theo cách này hay cách khác. May thay tôi đã bốc hơi ngay.. .nên may là không để lại vết bẩn nào trên tấm thảm Axminster cả... Tôi nghe thấy tiếng Milly lao xao ở trên gác. Thay vì đi xuống tìm tôi nó lại đi lên tầng trên cùng theo tiếng hát của Luisa. “Tiếp theo là gì nào? Một chiếc túi xách ở phòng bên cạnh. Tiếp theo là gì nào? Gỡ bức tranh của anh ra khỏi bức tường đi...” “Cô làm gì thế?” tôi nghe tiếng Milly hỏi khi đi lên gác. “Cô gói đồ,” Luisa đáp. “Hôm nay cô đi.” “Cháu không muốn cô đi,” tiếng Milly. “Quiero que usted permanezca.” “Cô phải đi thôi,” Luis trả lời. “Nhưng cô sẽ quay lại thăm cháu, mi caramelo.” Tôi nghe thấy âm thanh quen thuộc khi Luisa hôn lên má Milly. Tôi gõ cửa phòng Luisa và đẩy cửa bước vào. Trên sàn là chiếc vali đỏ mà nó mới mua gần đây. Milly đang ngồi lọt thỏm bên trong. “Luisa, sao em không nói với chị rằng em sẽ tham gia chương trình X-Factor?” “Chính em cũng rất ngạc nhiên. Em không biết là họ sẽ chiếu buổi thu âm của em trên TV.” “Cám ơn em vì những gì đã nói về chị và Milly lúc đó.” “Em nói thật lòng chị Anna ạ.” Nó lấy từ tủ quần áo ra hai chiếc sơmi. “Chị cũng tiếc là gần đây chúng ta không nói chuyện nhiều.” “Chị bận mà, Anna.” “Ừ... chị có rất nhiều chuyện phải làm. Nhưng có thật là em đã kiếm được một việc làm khác chưa, Luisa?” “Chưa ạ,” nó nói. “Em không tìm được một gia đình mà em thích. Vậy nên em sẽ lại đến Shepherd Bush ở với bạn em.” Tôi nhìn Milly đang mải mê lôi đồ đạc của Luisa ra khỏi cái vali rồi nhét trở lại vào ngăn kéo. Tôi chợt nghĩ về việc nó quý Luisa nhiều đến thế nào, nó yêu Xan nhiều ra sao, trong khi anh ta sẽ ra đi trong hai tuần nữa, và cả Jamie, người mà nó rất thích, cũng sẽ sớm quay trở lại nước Úc. Có quá nhiều mất mát đến cùng một lúc. “À, Luisa này, chị vẫn chưa tìm được người giúp việc mới - nói thật là chị vẫn chưa tìm, nên chị nghĩ là...” Tôi ngồi bệt xuống giường. “Em đừng đi nhé,” tôi thì thầm. “Hai mẹ con chị rất thích em ở đây, chị rất tiếc là hôm nọ chúng ta đã cãi nhau...” “Em không trách chị,” Luisa nói, “nếu là chị, em cũng sẽ làm như thế.” “Em có thể ở lại đây đến khi nào em muốn. Chúng ta có thể làm lại mọi việc.” Luisa nhìn tôi và tỏ ra không hiểu. “Làm lại?” “Podríamos improvisar,” Milly lên tiếng giải thích. “Vậy chị không muốn em đi nữa à?” Tôi lắc đầu. “À...” Đột nhiên Milly ôm lấy chân Luisa và nói, “ở lại với cháu đi.” Luisa bế Milly lên và hôn nó, “Sí.” *** Thế rồi chúng tôi quay trở lại với cuộc sống bình thường hằng ngày. Luisa tham gia khóa học tiếng Anh mới ở trường New Horizon ở Notting Hill nơi tiếng Anh của nó tiến bộ rõ rệt. Milly quay trở lại trường Sweat Peas, còn Jamie và tôi hoàn tất những công việc còn dang dở ở nhà Pippa. “Tôi cảm thấy thật thích thú với nó,” Pippa nói khi tôi và Jamie đang dọn dẹp mọi thứ vào ngày cuối cùng ở đó. “Trước kia trông nó buồn thảm bao nhiêu thì giờ... mới mẻ bấy nhiêu.” Khu vườn trở nên thoáng đãng và ngập tràn ánh sáng, những chậu hoa mới làm lại được lấp đầy bởi hồng trắng và đỏ, oải hương Pháp và phong lữ màu xanh nhạt khiến nó trông có vẻ giống như một khu vườn ở Provencal. Trong vườn có một mái vòm với bên dưới là những chiếc ghế dài có ngăn đựng đồ, một chiếc bàn ăn được che chắn bởi bốn cây ôliu bạc, và ở giữa đám cỏ mới trồng là một cái cầu leo màu xanh mới toanh cùng một cái xích đu và cầu trượt. “Chồng chị nghĩ gì về nó?” Jamie vừa nói vừa đặt thằng bé Jack lên cái xích đu. “Anh ấy rất thích nó,” Pippa đáp. “Thực ra thì,” chị cười và nói thêm, “anh ấy nói trông nó đáng yêu hơn trước.” “Chà, tôi xem đó như là những lời khen,” Jamie đẩy Louis xuống cầu trượt. “Tôi xin lỗi vì hôm nọ đã nổi cáu với anh ấy. Hôm đó tôi đang có một ngày tồi tệ.” Pippa chỉ cười mà không đáp. “Tiếp theo hai người định làm gì?” Chị ta hỏi. “Tôi nghĩ là sẽ rất bận rộn.” “Chúng tôi đang hoàn thiện một khu vườn ở Maida Vale,” tôi trả lời. “Sau đó tôi sẽ bắt tay vào một khu vườn quê rất lớn ở Hampshire - của sếp cũ tôi. Thật buồn là Jamie sẽ không tham gia nữa.” “Ồ,” chị Pippa nói. “Tại sao không?” “Tôi chuẩn bị quay lại nước Úc,” cậu ta giải thích. “Trong bao lâu?” “Một vài tháng. Có thể lâu hơn. Tôi không chắc lắm.” “Ý anh là anh không quay lại nữa à?” Jamie nhún vai, “tôi không biết nữa.” “Thế thì tiếc quá nhỉ,” Pippa nói tiếp. “Hai người có vẻ là một đội ăn ý.” “Đúng như vậy. Nhưng tôi cần nghỉ ngơi một thời gian. Tôi đang đứng trước một khúc cua của đời mình.” Jamie nói rồi bế Jack xuống. “Tôi sẽ làm việc với Stefan,” tôi giả bộ tỏ ra vui vẻ. “Stefan được đấy,” Jamie nói. “Cậu ấy là một thợ xây rất có nghề.” “Cậu ta rất xuất sắc,” tôi đồng ý với Jamie. Nhưng sẽ không giống như khi làm việc cùng Jamie... Xan chuyển đến New York vào ngày mùng tám tháng Chín. Chúng tôi đã thông báo với Milly hai tuần trước đó để nó có thời gian làm quen với sự thật là mình sẽ không được gặp ba thường xuyên nữa. Tôi luôn ghét những cuộc chia tay ở sân bay nên Xan đã ghé qua nhà tôi trên đường ra Heathrow. “Ba sẽ về thăm con,” anh nói với Milly, giọng nghẹn ngào. “Và có thể là hai mẹ con sang bên đó thăm ba.” “Chúng ta sẽ đi máy bay sang thăm ba,” tôi nói. “Con có thích không, Milly?” Nó gật đầu. Xan cúi xuống ôm tạm biệt nó lần cuối. “Con gái này, ba sẽ gặp lại con sớm,” anh nói, hai mắt nhòe lệ. “Ba sẽ gặp lại con sớm.” “Sớm, ba nhé,” Milly nhại lại rồi vòng tay quanh cổ anh. Không sớm đến thế đâu con gái ạ, tôi buồn rầu nghĩ. Sau đó hai mẹ con đứng trước cửa sổ và vẫy tay chào anh cho đến khi chiếc taxi đi khuất. Hôm sau là đến sinh nhật ba tôi, chúng tôi đã đặt chỗ ở nhà hàng Belvedere, gần ngay nơi ông ở - tất cả những gì ông phải làm là đi bộ qua công viên Holland Park. Cassie đến gặp tôi vào sáng hôm đó để duyệt trước một lần bài phát biểu ngắn mà hai chúng tôi định sẽ nói. Có tiếng chuông cửa kêu vào lúc mười một giờ ba mươi, ai có thể đến giờ này nhỉ? “Cô Elaine!” tôi mừng rỡ thốt lên rồi vòng hai tay ôm lấy bà, như tôi vẫn hay làm mỗi khi gặp Elaine vì bà là người đầu tiên chăm sóc con gái tôi nên tôi vẫn luôn dành cho bà một tình cảm đặc biệt. “Tôi đã gọi điện một vài lần nhưng cô đi vắng,” Elaine bước vào và nói. “Tôi vừa đến thăm Jamie và nghĩ có thể mình sẽ sang thăm cô và cháu Milly trên đường ra ga tàu điện ngầm.” “Jamie sao rồi ạ?” Tôi hỏi. “Cậu ấy vẫn ổn chứ?” “Nó... không sao cả. Hai người trong có vẻ như sắp đi đâu à - chắc tôi đến không đúng lúc rồi.” “Ồ không,” tôi nói dối. “Mặc dù... thực ra là chúng cháu sắp phải đi vì hôm nay là sinh nhật lần thứ bảy mươi của ba cháu và bọn cháu tổ chức một bữa tiệc vào buổi trưa cho ông ấy, cô ở lại chơi thêm một lúc nữa ạ - cháu rất vui được gặp lại cô. Cô đã gặp Cassie, em gái của cháu chưa?” “Tôi nghĩ là chưa,” Elaine mỉm cười. “Nhưng tôi nhận ra cô qua ảnh và từng nghe nhiều về cô.” Tôi đi pha một ít cà phê trong khi Elaine và Cassie nói chuyện với nhau, sau đó tôi mặc quần áo cho Milly. Elaine liếc nhìn đồng hồ, “Đã mười hai giờ kém mười rồi.” Bà đứng lên và xoa đầu Milly. “Hôm khác tôi lại đến, khi có nhiều thời gian hơn, cô Anna nhé. Cám ơn cô về ly cà phê. Rất vui được gặp cô Cassie.” “Tại sao cô không đi cùng với bọn cháu luôn nhỉ?” Bỗng Cassie đề nghị. Elaine ngẩn người ra còn tôi thì hơi ngạc nhiên. “Tôi không thể,” bà nói. “Tại sao không thể?” Cassie hỏi thẳng thừng như cách nó thường làm. “À thì,” Elaine lí nhí trong miệng, “tôi không muốn làm khách không mời mà đến - ngoài ra tôi ăn mặc không hợp cho lắm.” “Chẳng có vấn đề gì cả. Cháu trông cô rất ưa nhìn đấy chứ,” Cassie nói. Tôi hơi cảm động trước sự thân mật của nó. “Nhưng đó là một bữa tiệc gia đình,” Elaine phân trần, “vả lại tôi chưa bao giờ gặp ba cô cả.” “Ồ, cô không phải lo chuyện đó - ba cháu rất dễ gần,” Cassie nói tiếp. “Dù sao thì nó cũng đơn giản thôi, ngoài ra sáng nay có một người bạn của ba cháu bảo không đến được nên sẽ có một chỗ trống dành cho cô đấy.” “Thế à, nhưng tôi...” “Vậy nhất trí như thế đi,” Cassie kết luận trước khi Elaine có thể tìm ra thêm lý do gì để thoái thác. Tôi hơi ngạc nhiên khi thấy Cassie cứ khăng khăng làm vậy - nó chưa gặp bà Elaine mà, còn Elaine có vẻ cũng bất ngờ vì lời mời của Cassie nên đã đồng ý. Sau đó tất cả chúng tôi đi bộ qua công viên Holland Park dưới ánh nắng nhẹ của tháng Chín, tay ôm hoa và quà, thỉnh thoảng dừng lại để chỉ cho Milly xem mấy con sóc và thỏ đen. Bàn của chúng tôi ở trên gác, cạnh khung cửa kính mở thẳng ra mái nhà. Khách khứa đã có mặt, nhà Travises, Bill French, đồng nghiệp cũ của ba tôi và vợ ông ấy, cô Kay, em gái của ba tôi và dượng Ted, chồng bà. Ba tôi thực sự cảm động khi Cassie và tôi đọc bài phát biểu ca ngợi ông như một người cha và một người ông đáng kính. “Nếu mẹ có mặt ở đây, mẹ cũng sẽ nói rằng ba là một người chồng tuyệt vời,” Cassie xúc động nói thêm, giờ đây nó đã biết toàn bộ câu chuyện về anh Mark. Sau đó rượu được rót ra, tôi cho phép mình uống nhiều hơn thường lệ sau không biết bao nhiêu căng thẳng dồn dập trong những ngày gần đây. Thỉng thoảng Elaine có nhắc đến Jamie. Cậu ta sẽ quay về Úc tuần sau. “Cô sẽ nhớ nó lắm đấy, Anna ạ.” “Nhớ ư?” Tôi hạ ly rượu xuống. “Cháu không biết phải làm gì nếu không có cậu ấy?” “Jamie là người bạn đặc biệt của mẹ,” Milly bi bô nói và ngồi sơn móng tay. Nó nhúng cả ngón tay đầy mực màu hồng vào cốc nước của tôi. “Con biết không Milly, con nói đúng đấy,” tôi nói. “Chú ấy là một người đặc biệt đối với mẹ.” Một niềm thương mến trào dâng trong lòng tôi. “Jamie là người đàn ông tốt nhất, đáng kính nhất, chăm chỉ nhất, tài năng và tin cậy nhất...” “Tôi nhớ nó từng nói sẽ không bao giờ làm cho cô thất vọng,” Elaine nói. “Cô nói đúng. Cậu ấy chưa bao giờ làm cháu thất vọng. Mãi cho đến bây giờ. Cháu ước gì cậu ấy không quay về nước,” tôi nói đầy thất vọng. “Cháu sẽ nhớ những ngày tháng làm việc cùng Jamie, và nói chuyện với cậu ấy hai mươi lần mỗi ngày, và cãi nhau với cậu ấy, trồng cây với cậu ấy, xây cái này cái nọ rồi đi đây đi đó trên chiếc bán tải cũ mèm của cậu ấy nữa,” trong thâm tâm tôi thầm sỉ vả Thea. “Chà, Jamie cần về nhà một thời gian,” Elaine nói. “Nó đã trải qua khá nhiều sóng gió rồi. Hơn nữa, năm năm rồi nó không gặp gia đình mình.” “Cô có nghĩ là anh ấy sẽ quay lại không?” Cassie hỏi. “Tôi... không biết.” Sau đó Elaine đổi chủ đề và quay sang hỏi han Cassie về công việc của nó. “À, cháu làm nhiều việc lắm,” Cassie đáp. “Hầu hết những việc mà cháu nghĩ chị Anna không thích thú gì lắm.” “Chị chỉ không thích một số việc thôi,” tôi nói chữa. “Nhưng Cassie này, chắc chắn em là một người dám nghĩ dám làm, chị phục em ở điểm đó.” Tôi nâng ly rượu lên và cụng ly với nó. “Vâng, gần đây em cũng hơi mạo hiểm một chút,” nó nói. “Thật ra thì...” Nó với cái túi và lấy ra quyển tạp chí The Bookseller. “Em mua quyển này làm gì?” Tôi hỏi khi Cassie đưa nó cho tôi. “Em định làm ở nhà xuất bản chăng? Nếu thế thì tốt quá, Cassie à. Chị ủng hộ em cả hai tay. Đó là một công việc chính đáng.” “Chị lật đến trang 8 đi,” nó nói. NHÀ XUẤT BẢN RANDOM HOUSE KÝ HỢP ĐỒNG VỚI MỘT TÀI NĂNG TRẺ là tựa đề một bài ở trang này. Nhà xuẩt bản Random House vừa mới ký một hợp đồng xuất bản hai quyển sách trị giá hai trăm ngàn bảng với một cây bút mới nổi Cassie Temple. Quyển sách đầu tay của tác giả vốn là một tay hồ ở sòng bạc, quyển Killing Time, sẽ được xuất bản vào tháng Năm tới và đây là tập đầu tiên của một loạt truyện trinh thám hài dài tập viết về một thám tử tư tên là Delilah Swift, người từng là một người mẫu đồ lót và làm việc ở sòng bạc, được thuê điều tra cái chết bí ẩn của ba tay buôn đồng hồ cổ ở đường Portobello, Luân Đôn... “Chúc mừng cô, Cassie!” Elaine thốt lên. “Thật là tài năng!” “Thật vậy,” tôi nói. “Chị không hề biết là em đang viết lách gì đó. Em viết lúc nào vậy?” “Trong suốt ba tháng vừa rồi,” Cassie trả lời. “Chị biết là em phải làm việc vào buổi tối - còn ban ngày em hoàn toàn tự do. Bỗng nhiên một ngày, nhân vật Delilah Swift này xuất hiện trong đầu em nên em bắt tay vào viết về cô ấy. Sau khi viết xong một vài chương em đưa chúng cho một người bạn ở hội đan lát xem, cô ấy làm cho một cơ quan thông tấn, cô ấy tỏ ra rất thích thú và thế là xong! Giờ thì em là một nhà văn.” “Em chưa bao giờ thôi làm chị bất ngờ,” tôi nói. Ba tôi lại ngồi ở phía cuối bàn để Cassie có thể kể cho ông nghe một số chuyện nữa về cuốn sách sắp xuất bản kia. Tôi đi vòng quanh và nói chuyện phiếm với nhà Travises, những người đáng mến nếu không muốn nói là cực kỳ thú vị, Milly thì chui xuống dưới bàn chơi với con búp bê Fifi Forget Me Not của nó, Cassie quay sang chuyện trò với chú David và cô Glenda còn bà Elaine nói chuyện với ba tôi. Tôi nghe lỏm được một vài đoạn đối thoại giữa họ khi cả hai nhận ra lý do vì sao hai người chưa bao giờ gặp nhau trước kia lúc ba tôi chỉ đến vào những ngày Chủ nhật khi mà Elaine không phải làm việc. Sau đó Elaine kể cho ba tôi nghe về công việc của một người bảo mẫu - rằng bà ấy yêu trẻ con như thế nào... rằng bà ấy thường ngủ rất ít mỗi đêm... và rằng việc bà đã ly dị một năm trước nhưng vẫn luôn cảm thấy rất yêu đời... Khi Milly ngủ gật trên đùi tôi thì bữa tiệc cũng chuẩn bị tàn, Cassie và tôi cảm ơn mọi người đã đến. Tôi nhìn ba tôi nhưng ông vẫn mải mê chuyện trò với Elaine như thể hai người đã quen nhau nhiều năm trước. Nhìn vào họ, cảm nhận được sự thân mật rất tự nhiên giữa hai người, hai mái đầu chúi vào nhau, tôi tự hỏi không hiểu Cassie có đang nghĩ giống như tôi bây giờ không, rồi tôi nhận ra rằng chắc chắn là có vì đó chính là lý do mà nó nằng nặc mời Elaine tham dự bữa tiệc. Đã bốn giờ chiều, nhà hàng vắng tanh ngoại trừ một người hầu bàn rất kiên nhẫn, bà Elaine và ba tôi, hai người vẫn say sưa bên nhau trong khi mọi người đã ra về hết.
/18
|